Suy nghĩ về phương pháp tu tập của người cư sĩ phật tử hiện nay

suy nghi ve

 

Phật giáo trong thời kỳ đầu, nhìn chung, có phân biệt phương pháp tu tập của người Phật tử tại gia và xuất gia. Tuy nhiên, sự khác biệt này đã thu hẹp khi Phật giáo phát triển và được truyền đến nhiều vùng miền và quốc gia khác nhau. Và hiện nay, gần như không có sự khác biệt giữa phương pháp tu tập của người xuất gia và tại gia. Người Phật tử tại gia cũng được hướng dẫn và thực hành hầu hết các phương pháp tu tập, trong đó có phương pháp tu tập chỉ thích hợp với môi trường của người xuất gia. Như vậy, những sự thực hành này có mang lại lợi ích không?

Trước tiên, xin giải thích nhóm từ “phương pháp tu tập”. Ở đây, phương pháp tu tập hay pháp môn tu tập được hiểu trong nghĩa rộng, nghĩa là tất cả lời Phật dạy cho nhiều căn tánh và mục đích tu tập khác nhau. Đức Phật đã chỉ dạy nhiều phương pháp tu tập khác nhau. Có phương pháp tu tập để thành tựu Phật quả. Có phương pháp tu tập để thành tựu quả vị Thanh văn-Duyên giác. Có phương pháp tu tập để tái sanh về các cảnh giới của chư Thiên. Có phương pháp tu tập để có được hạnh phúc thế gian ngay trong đời này và tái sanh làm người với nhiều phước báo trong nhiều đời sau. Hay gọi cách khác, phương pháp tu tập là những lời Phật dạy về Phật thừa, Thanh văn-Duyên giác thừa, Thiên thừa và Nhân thừa[1]. Tuy có nhiều phương pháp tu tập, nhưng tất cả cũng đi về hướng thiện lành, hướng giải thoát. Thiện lành của cõi người và cõi trời[2]. Giải thoát của Thanh văn-Duyên giác và Phật.

Xin nói ngay là những phương pháp tu tập trên không dành riêng cho người xuất gia hay tại gia. Tất cả người con Phật, dù xuất gia hay tại gia, thực hành theo lời Phật dạy, đều đạt được kết quả như nhau. Hoặc tu tập Nhân-Thiên thừa để được phước báo nhân-thiên. Hoặc tu tập Thanh văn-Duyên giác thừa để giải thoát khổ đau ngay hiện tại và chấm dứt luân hồi sanh tử trong tương lai. Hoặc tu tập Phật thừa, thực hành Bồ-tát đạo để thành Phật quả. Tuy nhiên, nhìn chung, Đức Phật dạy người xuất gia tu tập theo Thanh văn-Duyên giác thừa và Phật thừa. Và vì nhiều hạn chế của người Phật tử tại gia và môi trường thế tục, Đức Phật, theo kinh tạng Nikāya và A-hàm, khuyên dạy người Phật tử tại gia sống tốt theo những chuẩn mực đạo đức thế gian bằng cách giữ gìn năm giới và một số điều khuyên dạy khác; phát triển những đức tính thiện lành và thương yêu bằng cách niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên, bố thí, cúng dường, v.v.. Trong một số trường hợp, Đức Phật khuyên người Phật tử tại gia quán niệm tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả; hoặc phát nguyện thọ trì tám giới Bát quan trai để gieo duyên xuất gia cho tương lai hoặc cho những kiếp sống trong tương lai. Thực hành theo những lời dạy này, tùy theo mục đích tu tập và sự tu tập của mỗi người, người Phật tử tại gia có được hạnh phúc thế gian ngay trong hiện tại; và tái sanh làm người với đầy đủ phước đức và trí tuệ thế gian, hoặc sanh về các cảnh giới của chư Thiên, hoặc dự vào Dòng Thánh, tức là chứng đắc quả vị Tu-đà-hoàn. Trong suốt lịch sử Phật giáo cổ đại đến cận đại, người Phật tử tại gia của những tông phái Phật giáo lập cứ trên giáo điển Nikāya và A-hàm đều thực hành những lời dạy này. Trong đó, có Trưởng giả Cấp Cô Độc và Đức vua A Dục. Về Trưởng giả Cấp Cô Độc. Vì nhiều ràng buộc gia duyên thế sự, ông chỉ có thể thực hành theo những lời dạy trên. Cho đến giờ phút ông sắp mạng chung, quán thấy nhân duyên đầy đủ, Tôn giả Xá Lợi Phất mới dạy ông phương pháp quán niệm sự vô thường, khổ và vô ngã của thân và tâm. Nhờ thực hành pháp quán này, ông đã chứng đắc trạng thái tâm hỷ lạc của bậc Thánh, chuyển hóa được những cảm giác đau đớn do sự tan rã khủng khiếp của thân và tâm ngay giây phút lâm chung. Sau khi mạng chung, ông tái sanh lên cung trời Đâu Suất (theo kinh Giáo giới Cấp Cô Độc, thuộc kinh Trung bộ). Về Đức vua A Dục. Vua A Dục chỉ mong được sanh thiên. Để sanh thiên, ông thực hành hạnh bố thí, cúng dường và hộ trì Tam bảo. Ngày nay, Phật giáo các nước Nam tông, truyền thống lập cứ trên kinh điển Nikāya, đã có những thay đổi trong pháp hành đối với Phật tử tại gia. Phật tử tại gia cũng được hướng dẫn và thực hành phương pháp quán niệm thân, thọ, tâm, pháp để đoạn trừ tham, sân, si và hướng đến mục đích giải thoát sanh tử. Đây là một điều đáng lưu ý để thấy có những chuyển biến trong việc tu tập của người Phật tử tại gia của quốc gia Phật giáo Nam tông.

Kinh điển Đại thừa nhấn mạnh đến Phật thừa, mục đích giải thoát cuối cùng là thành tựu Phật quả. Để thành tựu Phật quả, người con Phật, không phân biệt là tại gia hay xuất gia, phải phát tâm Bồ-đề, trải qua vô lượng kiếp hành Bồ-tát đạo. Phương pháp tu tập trong kinh điển Đại thừa hoàn toàn không có sự phân biệt giữa người xuất gia và tại gia. Tuy nhiên, lịch sử các tông phái lập cứ trên kinh điển Đại thừa cho thấy, từ Ấn Độ cho đến Trung Hoa và các nước theo truyền thống Đại thừa khác, những người con Phật hành theo Bồ-tát đạo phần nhiều là những người Phật tử xuất gia. Hầu hết người Phật tử tại gia theo truyền thống Đại thừa được lưu lại danh tánh trên những bia ký hay sử liệu, vẫn thường thực hành theo lời chỉ dạy của Đức Phật trong các kinh điển Nikāya và A-hàm. Việc tu tập chính của họ, ngoài việc giữ gìn năm giới, tụng kinh, niệm Phật, là bố thí, cúng dường và hộ trì Tam bảo.

Nói như vậy không có nghĩa là người Phật tử tại gia, nhất là Phật tử tại gia hiện nay với nhiều thuận duyên, không thể thực hành theo những phương pháp Thanh văn-Duyên giác hay Phật thừa. Người Phật tử tại gia, dù sống trong môi trường thế tục, nhưng nếu xác lập mục đích tu tập của mình và thiết lập môi trường thuận lợi, cũng có thể hành trì những phương pháp tu tập dành cho môi trường xuất gia. Trong lịch sử Phật giáo nói chung, người Phật tử tại gia, lúc này lúc khác cũng có những bậc đại sĩ, hành Bồ-tát đạo và sống giữa thế tục mà thoát tục. Và ngày nay, Phật tử tại gia của nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau trên thế giới cũng đang được hướng dẫn và hành trì những phương pháp tu tập cho mục đích xuất thế, trong đó có thiền quán xuất thế và hành trì mật chú. Một số Phật tử tại gia đang là những hành giả lỗi lạc. Tuy nhiên, cũng cần nói thêm, bên cạnh những lợi ích do sự thực hành các phương pháp tu tập xuất thế mang lại, sự phổ biến, thậm chí bình dân hóa những pháp hành xuất thế này đã và đang làm biến dạng những phương pháp xuất thế của Phật giáo. Điều này đã được một số vị Tăng sĩ cũng như cư sĩ Phật giáo lên tiếng cảnh giác.

Riêng về phương pháp tu tập của người Phật tử Việt Nam. Khoảng mười năm trở về trước, nhìn chung, Phật tử tại gia được khuyên giữ gìn năm giới, bố thí-cúng dường, về chùa tụng kinh-niệm Phật và nếu có thể phát nguyện mỗi tháng dành một ngày về chùa thọ Bát quan trai giới. Trong các thời khóa tụng niệm, thường tụng các kinh điển Đại thừa, niệm hồng danh chư Phật và Bồ-tát và trì các mật chú được phiên âm tiếng Việt. Các thời khóa tụng niệm có đủ tính chất Thiền, Tịnh và Mật. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngoài thực hành theo những phương pháp tu tập trên, nhiều Phật tử tại gia được hướng dẫn hành trì những phương pháp tu tập chuyên biệt. Hoặc chuyên trì niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà, hoặc chuyên tu tập thiền quán, hoặc chuyên hành trì mật chú. Trong mỗi pháp môn tu tập, người Phật tử tại gia cũng được hướng dẫn và hành trì theo nhiều phương cách tu tập khác nhau. Trong pháp môn trì niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà, có đạo tràng tu tập trì niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, hoặc “Nam mô A Mi Đà Phật”; có đạo tràng tu tập lược bỏ hai từ Nam mô, chỉ còn trì niệm “A Di Đà Phật”, hoặc “A Mi Đà Phật”. Trong pháp môn tu tập thiền quán, có phương pháp thuộc truyền thống Bắc tông, có phương pháp thuộc truyền thống Nam tông. Và trong phương pháp hành trì mật chú, có phương pháp thuộc truyền thống Mật tông Trung Hoa; có phương pháp thuộc truyền thống Mật tông Tây Tạng.

Phật tử có nhiều căn tánh khác nhau nên việc giảng dạy và hướng dẫn hành trì theo nhiều phương pháp tu tập khác nhau là điều rất cần thiết. Và đối với nhiều căn tánh, việc hành trì chuyên nhất một pháp môn mang lại nhiều lợi ích. Tuy nhiên, với sự đa dạng pháp hành như hiện nay, người Phật tử tại gia phải hiểu được tính xuyên suốt và nhất quán trong các pháp hành cũng như xác định rõ căn tánh và mục đích tu tập của mình để luôn giữ tâm tôn kính pháp môn tu tập của các truyền thống Phật giáo và chọn phương pháp tu tập phù hợp với căn tánh của mình. Trước tiên, phải xác định mục đích tu tập của mình. Nếu chúng ta chỉ tu tập để có phước báo nhân-thiên trong đời này và đời sau thì thực hành theo những lời Phật dạy liên quan đến việc tu tập và tích tạo phước đức nhân-thiên. Bên cạnh đó, chúng ta có thể thực hành theo một số phương pháp tu tập khác để chuyển hóa dần những tâm tiêu cực như tâm tham, sân, si..., và gieo nhân duyên xuất thế sau này. Khi tâm chúng ta ít tham, sân, si, chúng ta có thêm hạnh phúc, an lạc theo hướng thiện lành. Nếu chúng ta muốn giải thoát luân hồi sanh tử, thì trước phải xác định tại sao phải giải thoát sanh tử và giải thoát là giải thoát cái gì. Giải thoát sanh tử là giải thoát thống khổ của ba cõi, có thể ngay trong đời này hoặc nhiều đời sau. Không chỉ những khổ đau của địa ngục, ngạ quỹ và súc sanh, mà theo ý nghĩa tuyệt đối, cả những hạnh phúc thế gian và hạnh phúc của chư Thiên cũng là những hình thức của khổ đau. Hiểu được những nỗi thống khổ của ba cõi-sáu đường mà chúng ta, từ vô lượng kiếp cho đến bây giờ, đã và đang phải chịu đựng, thì mới sanh tâm nhàm chán và yểm ly ba cõi. Sau khi khởi tâm nhàm chán và yểm ly khổ đau trong ba cõi, chúng ta chọn cho mình một phương pháp tu tập phù hợp nhất để hành trì. Muốn chọn cho mình pháp môn phù hợp phải hiểu rõ căn tánh của mình. Cần phải hiểu rằng, chúng ta, từ vô lượng kiếp, đã tạo ra vô số nghiệp nhân sanh tử, nên để chuyển hóa nghiệp quả sanh tử của quá khứ và chấm dứt nghiệp nhân sanh tử trong hiện tại phải có nhiều thời gian tu tập và chuyển hóa. Với bậc thượng trí đã trồng căn lành từ nhiều đời, có vị chỉ nghe qua lời dạy của Phật, có thể chứng đắc Thánh quả A-la-hán; có vị tu tập vài ngày, có thể chứng đắc Thánh quả A-la-hán… Chúng ta phải tự biết căn tánh của mình để điều hòa trong sự tu tập. Sự tu tập để giải thoát sanh tử không chỉ một đời, mà có thể nhiều đời. Tuy nhiên, phương pháp tu tập xuất thế không phù hợp đối với phần nhiều Phật tử tại gia. Vì trong phương pháp tu tập xuất thế, việc đầu tiên là hành giả phải nhàm chán và yểm ly ba cõi, trong đó có nhàm chán và yểm ly những hạnh phúc gia đình và thế tục. Nếu chúng ta còn nhiều duyên nghiệp thế tục thì khó có thể thực hành theo phương pháp tu tập này. Hoặc nếu chúng ta chỉ muốn giải thoát sanh tử trong ý nghĩa là muốn giải thoát những khổ đau của khổ khổ hằng ngày như bệnh tật, già nua… nhưng vẫn bám chấp vào những hạnh phúc thế tục và cả những trạng thái hỷ lạc của các tầng thiền định, thì chúng ta vẫn chỉ mãi lang thang bên bờ sanh tử.

Phương pháp tu tập xuất thế của Thanh văn-Duyên giác thừa nhấn mạnh đến Tuệ giải thoát. Phải có tuệ giác giải thoát mới thấy được thực tướng của các pháp. Và chỉ khi nào thấy rõ thực tướng của các pháp, vượt qua nhị nguyên đối đãi, đi trên con đường trung đạo, thì khi ấy mới không còn bám chấp vào các pháp và không còn tạo nghiệp nhân sanh tử. Không còn tạo nghiệp nhân sanh tử thì sẽ không còn nghiệp quả sanh tử. Sự thấu rõ thật tướng của các pháp, theo kinh điển Nikāya và A-hàm, là thực chứng duyên sinh-vô ngã của các pháp, và theo kinh điển Đại thừa, là thực chứng Tánh không của các pháp. Phương pháp tu tập của Phật thừa nhấn mạnh đến Bồ-tát đạo. Tu hạnh Bồ-tát là tu tập trí tuệ và từ bi. Có trí huệ hay tuệ giải thoát, Bồ-tát thấy được thực tướng của các pháp, nên khi dấn thân vào đời, Bồ-tát không bị đắm nhiễm. Có từ bi, Bồ-tát không rời bỏ chúng sanh mà vào Niết-bàn. Từ bi của Bồ-tát là từ bi không còn phân biệt. Để có tâm vô phân biệt, Bồ-tát phải có tuệ giác. Đó là con đường nhập thế nhưng xuất thế của Phật-Bồ tát và Duyên giác-Thanh văn.

Dù có nhiều phương pháp tu tập khác nhau nhưng tất cả phương pháp tu tập xuất thế của các tông phái Phật giáo đều nhằm giúp hành giả đoạn trừ tham, sân, si bằng cách thấy rõ thật tướng duyên sinh, vô ngã của các pháp. Như thiền Minh sát tuệ. Phương pháp tu tập thiền quán này được thực hành phổ biến tại các nước Phật giáo Nam tông và đã được truyền đến Việt Nam. Thiền Minh sát tuệ sử dụng phương pháp chánh niệm-tỉnh giác trên thân và tâm. Theo kinh Tứ niệm xứ, chánh niệm-tỉnh giác là chánh niệm hay quán niệm trên thân, thọ, tâm, pháp. Trong mỗi pháp quán niệm, có nhiều đề mục để tu tập. Và để có chánh niệm trên các đề mục, có hành giả thực hành theo phương pháp tọa thiền, có hành giả thực hành theo phương pháp hành thiền. Tuy nhiên, chỉ cần chánh niệm thuần thiện trên một hay vài đề mục, hành giả có thể đoạn dần tham, sân, si và dần dần thấy biết được thực tướng của các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã. Hay như phương pháp hành trì mật chú và các nghi quỹ Mật tông theo truyền thống Tây Tạng. Mật tông Tây Tạng có nhiều phương pháp tu tập khác nhau, trong đó có phương pháp tu tập thiền quán về Tánh không. Ở đây, chỉ xin nói về phương pháp hành trì mật chú và nghi quỹ. Đối với những hành giả chân chánh, việc hành trì mật chú và các nghi quỹ cũng chỉ nhằm mục đích phát triển trí tuệ, cụ thể là trí tuệ về tánh không, và từ bi. Một câu hay bài mật chú thường liên hệ đến một Đức Phật hay một vị Bồ-tát. Ví dụ mật chú “Án-ma-ni-bát-di-hồng” là mật chú liên hệ đến Bồ-tát Quán Thế Âm. Khi hành trì mật chú này, hành giả quán tưởng bổn tôn và công hạnh của Bồ-tát Quán Thế Ấm. Bồ-tát Quán Thế Âm là Bồ-tát biểu tượng của lòng từ bi. Bồ-tát Quán Thế Âm cũng là Bồ-tát Quán Tự Tại. Bồ-tát Quán Tự Tại là Bồ-tát biểu tượng cho trí tuệ tánh không. Nên khi quán tưởng công hạnh của Ngài, hành giả luôn giữ tâm hướng đến từ bi và trí tuệ của Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhờ thường xuyên quán tưởng và tu tập theo công hạnh của Bồ-tát Quán Thế Âm, hành giả phát triển trí tuệ và từ bi. Về các nghi quỹ, ví dụ nghi quỹ cúng dường Mạn-đà-la. Có những nghi quỹ cúng dường Mạn-đà-la kéo dài nhiều ngày với sự tham dự của nhiều cao tăng Phật giáo, trong đó có Đức Đạt-lai lạt-ma. Trong nghĩ quỹ cúng dường Mạn-đà-la, có phần tôn tạo hình Mạn-đà-la. Mạn-đà-la được tôn tạo rất công phu, tỉ mỉ và đòi hỏi người tham gia phải có sự tập trung rất cao, nhưng khi phá hủy Mạn-đà-la, lại phá hủy rất nhanh và phá hủy một cách chẳng có gì phải lưu luyến. Bằng cách này, giúp hành giả ý thức rằng Mạn-đà-la này, dù được tôn tạo rất tỉ mỉ và đẹp, cũng chỉ là do duyên mà thành, tánh của nó vốn không, chẳng có gì đáng để phải bám víu. Nhờ vậy, giúp hành giả phát triển sự thấy biết về tính duyên khởi và tánh không của các pháp. Các phương pháp tu tập xuất thế khác của Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng cũng nhằm giúp hành giả phát triển trí tuệ và từ bi.

Như vậy, chúng ta thấy rằng tất cả những phương pháp tu tập của Phật giáo đều hướng đến sự thiện lành và giải thoát. Và các phương pháp tu tập xuất thế nhằm mục đích đoạn trừ tham, sân, si; thấy rõ thực tướng của các pháp và giải thoát sanh tử. Có thể nói rằng những phương pháp tu tập không có khả năng giúp hành giả đoạn trừ tham, sân, si, và thấy được thực tướng duyên sinh-vô ngã của các pháp thì phương pháp đó không phải là phương pháp tu tập xuất thế của Phật giáo. Đây là đặc tính nhất quán và xuyên suốt trong tất cả phương pháp tu tập xuất thế của Phật giáo.

Sở dĩ, chúng tôi trình bày nhiều về phương pháp tu tập xuất thế, mặc dù tiêu đề nói về phương pháp tu tập của người Phật tử tại gia, là tại vì chúng tôi nhận thấy hiện nay nhiều Phật tử tại gia muốn tu theo phương pháp để giải thoát sanh tử nhưng không hiểu hết ý nghĩa của việc giải thoát sanh tử. Chính vì không hiểu giải thoát sanh tử là giải thoát những gì nên mặc dù đang tu tập theo phương pháp để có phước báo nhân thiên mà cứ nghĩ mình đang tu tập theo phương pháp xuất ly ba cõi. Từ đó, những Phật tử này hay những đạo tràng tu tập này chỉ tu tập một thời gian ngắn và có được một số trạng thái an lạc, vội cho rằng mình đã tiến gần đến việc giải thoát hoặc đã giải thoát. Cách hiểu này làm hạ thấp giá trị của phương pháp tu tập xuất thế và mục đích xuất thế của Phật giáo. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng hiện nay, với sự đa dạng trong phương pháp tu tập, nhiều Phật tử tại gia không thấy được tính nhất quán và xuyên suốt trong các quán môn tu tập nên rất hoang mang khi phải chọn cho mình một pháp tu trong nhiều pháp tu. Bởi phương pháp nào cũng được nghe dạy là đúng nhất và cao nhất. Một số Phật tử khác lại rơi vào bám chấp cực đoan phương pháp tu tập của mình. Họ khăng khăng cho rằng phương pháp mình đang thực hành là phù hợp với tất cả mọi căn tánh, hoặc là con đường duy nhất đưa đến giác ngộ, giải thoát, rồi sanh tâm chê bai hoặc chỉ trích các pháp môn tu tập khác của Phật giáo. Một số Phật tử khác nữa, sau một thời gian tu tập, có được trạng thái hỷ lạc hay phước báo vật chất nhờ thiền định hay trì niệm mang lại, lại bám chấp vào những trạng thái hỷ lạc và phước báo này. Những biểu hiện này đều là những biểu hiện của trạng thái tâm tiêu cực hoặc chưa liên hệ với mục đích giải thoát sanh tử. Bởi vì tu tập là để đoạn dần tham, sân, si, chứ không phải tu tập để bám chấp vào pháp tu của mình và cho rằng pháp tu của mình là cao, là đúng, còn pháp tu kia là thấp, là sai. Và đã xác định mục đích giải thoát sanh tử, thì những trạng thái hỷ lạc hay phước báo đó chỉ thuộc phước báo và hạnh phúc thế gian hoặc ba cõi.

Tất cả phương pháp tu tập và sự tu tập chỉ là phương tiện và cách sử dụng phương tiện. Người hiểu rõ phương tiện và sử dụng đúng phương tiện thì sẽ đi đến nơi cần đến. Quan trọng là có đến được nơi cần đến hay không, chứ không phải sử dụng phương tiện nào và sử dụng phương tiện như thế nào. Người biết tu tập là người có thể “chuyển” được phương pháp tu tập, chứ không phải để phương pháp tu tập “chuyển” người tu. Như lời Lục tổ Huệ Năng dạy thầy Pháp Đạt, tụng kinh Pháp hoa là phải “chuyển” kinh Pháp hoa, chứ không phải bị kinh Pháp hoa “chuyển”. Bị Pháp hoa chuyển thì dù bảy năm chuyên ròng trì tụng kinh Pháp hoa như thầy Pháp Đạt, theo lời dạy của Lục tổ Huệ Năng, thì cũng chẳng có ích gì cho việc giải thoát sanh tử.

Kết luận

Những gì người viết trình bày ở trên không nhằm mục đích phân biệt cao thấp trong phương pháp tu tập của người xuất gia và tại gia. Người viết chỉ mong muốn chia sẻ một số suy nghĩ và hiểu biết về phương pháp tu tập của Phật giáo và một số phương pháp tu tập liên quan đến người Phật tử tại gia. Để từ đó, nếu Phật tử hữu duyên đọc được bài viết này có vài gợi ý để có cái nhìn xuyên suốt và nhất quán trong các phương pháp tu tập của Phật giáo, và để hiểu căn tánh cũng như duyên nghiệp của mình mà chọn phương pháp tu tập phù hợp nhất.

Thích Nguyên Lộc

* hình ảnh minh họa chùa hoằng pháp

[1] Kinh điển Nikāya và A-hàm không đề cập đến Phật thừa. Tuy nhiên, những thánh điển này và các tông phái lập cứ trên những kinh điển này đều thừa nhận có sự khác biệt trong sự giác ngộ giữa Đức Phật và các Thánh Thanh văn Tăng. Theo quan điểm của tất cả tông phái Phật giáo, Đức Phật đã trải qua vô lượng kiếp vì lợi ích cho tất cả chúng sanh mà hành Bồ-tát đạo. Tất cả chư Phật trong quá khứ và vị lai cũng đã, đang và sẽ hành Bồ-tát đạo cho mục đích thành tựu Phật quả. Như vậy, có sự khác biệt giữa Thanh văn-Duyên giác thừa và Phật thừa.

[2] Có quan điểm cho rằng sanh làm người với nhiều phước báo hoặc sanh lên các cõi trời chỉ lo hưởng thọ phước báo; vì vậy, những phước báo này làm chướng ngại việc tu tập. Thiết nghĩ, bên cạnh những chướng ngại do những phước báo này mang lại, chính những phước báo này cũng là điều kiện tốt cho việc tu tập. Thỉnh thoảng Đức Phật hay kinh sách Phật giáo có nói đến sự chướng ngại của phước báo nhân-thiên chỉ như là những lời cảnh giác. Nếu phước báo nhân-thiên hoàn toàn chỉ làm chướng ngại con đường thoát ly sanh tử thì Đức Phật đã không chỉ dạy phương pháp tu tập của Thiên thừa và Nhân thừa. Chúng ta thấy rằng nhiều cảnh giới chư Thiên vẫn có chư Bồ-tát và Thánh Thanh văn lưu trú và giảng đạo, như cõi trời Đâu Suất, nơi hành đạo của các Đại Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ và cõi Ngũ tịnh cư thiên, nơi lưu trú của các bậc Thánh A-na-hàm và trong thời Đức Phật, phần lớn Thánh Thanh văn Tăng đều xuất thân từ những gia đình quý tộc và giàu có. Nhờ có phước báo về trí tuệ và sống trong cảnh giàu sang, các ngài nhận thức được sự phù du của ngũ dục mà xuất gia tu đạo và sau khi xuất gia, nhờ có trí tuệ, các ngài dễ dàng lãnh ngộ lời dạy của Phật. Như vậy, những phước báo nhân-thiên, ở một góc độ nào đó, rất thuận lợi cho việc tu tập.

 

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle