Hoa triêu nhan TRONG THƠ HAIKU

HOA TRIÊU NHAN TRONG THƠ HAIKU

HOA TRIÊU NHAN TRONG THƠ HAIKU

Tuệ Anh

 

Hoa triêu nhan (tiếng Nhật: asagao) nghĩa là gương mặt ban mai. Người Việt gọi là hoa bìm bìm. Hoa bìm bìm của người Việt là một loại hoa ít được ai để ý tới (ngoài mấy vị thầy thuốc Đông y, vì cây hoa này chữa được một số bệnh). Dân gian ta có câu: “Giậu đổ bìm leo”, như một ám chỉ vô danh cho hoa triêu nhan. Cái tên triêu nhan cũng nói lên đặc điểm của hoa: Hoa chỉ nở nửa ngày và tàn lúc về chiều.

Đối lập với cái nhìn của người Việt, văn hóa Nhật Bản hết sức trân quý loài hoa này. Dân tộc Nhật Bản có một bản lĩnh phi thường ẩn chứa dưới những hình thức nhỏ bé nhất, cái gì cũng có thể nâng lên thành một nghi lễ: trà đạo, võ đạo, và cả hoa đạo. Người Nhật sống theo tinh thần của kinh Hoa nghiêm, “Tam thiên đại thiên thế giới chứa đựng trong một hạt bụi”. Hoa triêu nhan được nhân loại xem là biểu tượng của sự khiêm nhường và tính bền bỉ, điều này dường như hoàn toàn phù hợp với cá tính của người Nhật.

Nhắc đến Nhật Bản là nhắc đến xứ sở hoa anh đào, mặt trời mọc, áo kimono, nhắc đến một dân tộc thấm đẫm chất thiền, mà thơ Haiku như là một biểu trưng. Thơ Haiku (Hai cư,  Hài cú) là một thể thơ độc đáo của  Nhật Bản, ví như Đường luật của Trung Hoa hay Lục bát của Việt Nam, và được mệnh danh là thể thơ ngắn nhất thế giới . Nếu cho rằng thơ hay là thơ mà tác giả chỉ làm một nửa, còn một nửa dành cho người đọc, thì thơ Haiku là một đại biểu xuất sắc. Thi hào Tagor nhận xét, trong thơ Haiku, tác giả chỉ giới thiệu đề tài rồi tránh sang một bên, nhường chỗ cho trí tưởng tượng của người đọc. Với những người yêu văn hóa Nhật Bản và thậm chí cả những người chỉ có kiến thức phổ thông, thể thơ ba câu độc đáo này không còn xa lạ gì lắm nữa. Đã có rất nhiều những câu lạc bộ thơ Haiku ra đời ở Việt Nam.  

Đỉnh cao của thơ Haiku được đánh dấu bằng sự xuất hiện của nhà thơ Basho, người được cho là một thiền sư đã kiến tánh. Tiếng nước xao trong thơ Haiku của Basho quả thật đã làm chấn động cả văn đàn thế giới từ trước đến nay:

Ao cũ

Con ếch nhảy vào

Vang tiếng nước xao. (Con ếch)

Chúng ta biết rằng văn hóa không có cao hay thấp mà chỉ có sự khác biệt. Cũng vậy, hoa triêu nhan từ địa vị ăn nhờ ở đậu trong mắt người Việt, thì sang văn hóa Nhật Bản đã vươn lên ngôi nữ hoàng kiêu hãnh. Điều đó được chứng minh qua hàng loạt bài thơ Haiku. Hãy khoan nhắc đến những kiệt tác của thi sĩ Basho, bài thơ đặc sắc nhất gắn liền với hoa triêu nhan trong thơ Haiku có lẽ phải là bài thơ của nữ sĩ Chiyo:

A hoa triêu nhan

Dây gàu vương hoa bên giếng

Đành xin nước nhà bên.

Trong tinh thần của Thiên thai tông, không chỉ loài hữu tình mà ngay cả loài cây cỏ cũng có khả năng giác ngộ, tức là có Phật tánh. Bài thơ trên có thể được xem như một tuyên ngôn hùng hồn của lòng từ bi Phật giáo và phảng phất triết lý của tông Thiên thai. Nhà thơ nhìn thấy sự sống, nhìn thấy cái đẹp, nhìn thấy Phật tánh trong đóa triêu nhan nhỏ nhoi nhưng bền bỉ. Hoa triêu nhan vốn là một loại dây leo, đã quấn vào dây gàu để nở. Trước cái đẹp, trước sự sống, nhà thơ nâng niu, trân trọng, không nỡ làm tổn thương nên bà chọn giải pháp “xin nước nhà bên”, để sự sống và cái đẹp được hiện hữu. Một người lỗ mãng sẽ dễ dàng bứt nhánh triêu nhan để thuận lợi cho công việc múc nước của mình.  Thực tại được mô tả như nó chính là, không giải thích nhưng tự thân sự kiện đã nói nhiều hơn ba câu thơ ngắn ngủi. Đây chính là tinh thần ý tại ngôn ngoại, lại cũng chính là sự vô ngôn của Thiền và là tính nhân văn của Phật giáo. Cần phải có một nội tâm tĩnh lặng, một tính cách dịu dàng và hơn cả là một tình thương lớn, một tấm lòng trắc ẩn lớn mới có cách hành xử như vậy. Một đóa triêu nhan mỏng manh làm tỏa sáng một tình thương mênh mông và cảm động.

Ngày trước khi chúng tôi học về thơ Haiku, thầy giáo đọc cho chúng tôi nghe hai câu đầu của một bài thơ và yêu cầu chúng tôi làm nốt câu cuối. Hai câu đầu là:

Ruồi trên nón ta ơi

Hôm nay vào thành phố

Tất cả lũ học trò quê mùa chúng tôi đều tắc tị. Lẽ dĩ nhiên ai thuộc thơ của Issa mới có đáp án chính xác, ấy là:

Ruồi trên nón ta ơi

Hôm nay vào thành phố

Thành dân Edo rồi.

Dưới cái nhìn của Issa, chú ruồi bé nhỏ trở thành một phần của bao la nhân loại, cũng như khi chú chuột uống nước bên bờ sông là khoảnh khắc tiểu ngã hòa nhập với đại ngã:

Bên dòng Sumida

Chú chuột kia uống nước

Mưa mùa xuân pha. (Issa)

Trong thơ Haiku, những sự vật nhỏ nhất đều có sức nặng của nó. Thi sĩ Haiku Việt Nam Giác Tri (bút hiệu Huyền Tri) đã thể hiện  xuất sắc đặc tính “chỉ nêu đề tài” của thơ Haiku:

Cẩn trọng thay

Trong giờ độ ngọ

Ruồi chắp hai tay.

Để hiểu được bài Haiku trên, người đọc phải có hiểu biết về nguyên tắc tri ân và chánh niệm trong khi ăn của nhà Phật. “Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời, của muôn loài và công phu lao tác. Xin nguyện ăn trong chánh niệm và với lòng biết ơn để xứng đáng thọ nhận thức ăn này.” Dưới cái nhìn của người tu, con ruồi dường như cũng biết tu. Có những lúc phóng dật, lòng ta xấu hổ thấy mình không bằng một con ruồi. Hoa triêu nhan cũng là một sự vật tưởng như tầm thường, nhỏ nhoi,  nhưng vì sao lại có sức hút mãnh liệt như vậy đối với những nhà thơ Haiku Nhật Bản. Phải chăng vì triêu nhan cũng chính là Haiku (Lưu Đức Trung), hay vì sự hiện diện ngắn ngủi của hoa như thông điệp của vô thường:

Tôi yêu đời mình

Dẫu cho còn một thoáng

Như một nhánh bìm xanh. (Fusei)

Tuệ giác vô thường của đạo Phật là nguồn gốc bi cảm (mono no aware) trong văn học Nhật Bản. Bi cảm không chỉ là nỗi buồn trước vô thường, cao hơn, nó là sự xúc động sâu xa trước vô thường và từ đó giúp con người sống trọn vẹn với hiện tại. Nhánh bìm xanh ấy của thi sĩ Fusei giúp người ta thức tỉnh trước cái mong manh của vô thường, biết trân quý khoảnh khắc hiện tại vì ý thức được vô thường. Đời người ngắn ngủi là vậy, nên tôi hết sức trân trọng nó. Nếu trong thơ Chiyo, hoa triêu nhan là đối tượng của lòng từ bi vô lượng, thì ở đây lại là sứ giả của vô thường, lại cũng là sự tươi đẹp của cuộc đời.

 Cảm nhận được cái đẹp của hoa mới thấy được hoa đích thực là vị Bồ-tát. Xưa có vị thiền giả nhờ ngắm hoa anh đào nở mà ngộ đạo. Có ai đó nói rằng, hoa là nụ cười của đất. Hoa chỉ hiển lộ khi tâm ta thanh tịnh, ngược lại, hoa cũng giúp ta thanh lọc tâm hồn:

Đứng yên bên hàng dậu

Em mỉm nụ nhiệm màu

Lặng nhìn em kinh ngạc

Vừa thoáng nghe em hát

Lời ca em thiên thâu

Ta sụp lạy, cúi đầu. (Hoa thược dược - Quách Thoại)

Một biểu hiện nhiệm màu của hoa thược dược đủ để làm tâm hồn con người kính cẩn đến như thế. Như hoa anh đào của người Nhật. Hoa anh đào là biểu tượng của xứ sở mặt trời mọc nên dĩ nhiên thường xuất hiện trong thơ của người Nhật nói chung và thơ Haiku nói riêng:

Nước nóng tắm rồi

Vừa xong lạy Phật

Hoa đào ta ơi.

Thân thể ta là một hiện hữu bất tịnh. Tâm hồn ta là một khối trĩu nặng phiền não. Ta không biết mình đi đâu về đâu, như lục bình trôi riu ríu. May thay có ánh sáng của Đức Phật soi rọi cho ta. Trước khi lễ Phật, ta tẩy rửa thân thể. Nhưng Đức Phật thực sự trong bài thơ này không phải là pho tượng ta vừa lễ đâu. Nước làm sạch thân, lễ Phật làm sạch tâm. Ta tẩy rửa thân thể, ta tắm gội tâm hồn cho thanh sạch rồi mới tiếp xúc và lĩnh hội được cái đẹp, cái đẹp ở đây là hoa anh đào, được đặt ở vị trí tối tôn. Nhưng với ý nghĩa kiên trì và bền bỉ, đóa triêu nhan khiêm nhường mới hoàn toàn chiếm lĩnh linh hồn của Haiku:

Bên hoa triêu nhan

Gương mặt ai cũng

Dường như điêu tàn. (Issa)

Issa là một hành giả Tịnh độ. Cùng với Basho, ông là một trong những cây đại thụ Haiku. Sống đời sống đầy những chuỗi sự kiện đau buồn và bi kịch,  nhưng trước khi đi vào cõi tịch diệt, Issa đã để lại những dòng Haiku thanh thản:

Muôn phần tri ân

Chăn tôi đầy tuyết trắng

Từ Tịnh độ rơi sang.

Cho nên có lẽ hoa triêu nhan của Issa cũng là một thứ hoa Mạn-đà-la của thế giới Tây phương Cực Lạc, hoa của nội tâm thanh tịnh.

Còn Basho lại là một hành giả của Thiền tông. Sự nghiệp sáng tác của ông không chỉ có thơ. Tác phẩm “Con đường hẹp thiên lý” là một tuyệt tác văn xuôi xen lẫn những bài Haiku ghi lại cuộc lãng du cuối đời của Ba Tiêu ẩn sĩ - biệt danh ông tự gọi. Chuyến đi cuối cùng ấy kết thúc bằng bài Haiku này:

Đau yếu giữa hành trình

Chỉ còn mộng ta phiêu lãng

Trên những cánh đồng hoang.

Tên tuổi của Basho gắn liền với Haiku. Nhắc đến Haiku là nhắc đến Basho, nhắc đến thiền. Trong thời gian ở ẩn, Basho chỉ giao tế với hoa triêu nhan:

Hoa triêu nhan ơi

Suốt ngày cổng khóa

Chỉ còn em thôi.

Basho chọn hoa triêu nhan làm tri k, người để Basho gửi gắm tâm tình:

Hoa triêu nhan ơi

Đến em rồi cũng

Chẳng là bạn tôi. 

Nên Basho chỉ có vẻ cô đơn thôi mà k thật không hề cô đơn, vì lòng nhà thơ luôn hiện hữu một đóa triêu nhan bình dị thuỷ chung.

 Haiku gợi mà không tả. Sự kiện là như vậy, lĩnh hội thế nào tùy mỗi người. Như cành hoa sen huyền thoại Đức Phật đưa lên trong hội Linh Sơn. Ngày nay Haiku đã trở nên phổ biến, triêu nhan do đó cũng trở thành phổ cập, như thiền càng ngày càng phổ thông. Thiền không chỉ là pháp môn tu tập của Phật giáo mà còn trở thành phương tiện để chữa bệnh, những chứng bệnh thời đại của loài người, nhất là những bệnh tâm lý. Chúng ta lo âu, sợ hãi, căm ghét, oán hận, cùng những chứng căng thẳng và trầm cảm. Thành công của chúng ta phụ thuộc vào số của cải làm ra và địa vị, danh tiếng, quyền lực mà chúng ta có. Nên đã có những người mất phương hướng, thấy đời mình là những tháng ngày trống rỗng, mây đen mờ mịt. Khủng hoảng niềm tin và lý tưởng. Trong thế giới quay cuồng hỗn độn đó, cái thế giới làm Bùi Giáng phải thốt lên:

Trần gian đáng lẽ tuyệt vời

Về sau chẳng rõ muôn đời đảo điên.

Thì chỉ có một số người, rất ít người ưa tìm khoảng lặng. Đường đời chật hẹp người chen lấn, lối đạo thênh thang hiếm kẻ tìm, bởi vì Phật pháp là pháp khó tin, tế nhị, sâu kín, chỉ có người trí mới có thể chứng hiểu. Điều đó đã được Đức Phật dạy trong kinh điển Đại thừa cũng như kinh tạng Nguyên thủy. Thiền là một khoảng lặng chữa lành vết thương cho tâm hồn ta. Haiku cũng là một thứ khoảng lặng như thế. Nhật Chiêu, bậc thầy gạo cội về văn chương Nhật Bản có nói rằng, Haiku không phải là thơ quý tộc vì nó đơn sơ. Nó giản dị như một đóa triêu nhan thanh cao siêu thoát:

Ôi hoa triêu nhan

Giữa hồi kinh tụng

Nở ra huy hoàng. (Kyoroku)

Tiếng kinh tụng như làm cho hoa triêu nhan được cứu rỗi. Đó là hoa hay là tâm hồn nở hoa? Nếu nói như nhà thơ Huyền Tri, rằng “T một cuộc trải nghiệm tâm linh bùng vỡ thực tại”, thì đóa triêu nhan ở đây là hiện thân cho một cuộc bùng vỡ  thực tại rất đỗi nhiệm mầu.

Còn đóa triêu nhan trong thơ Basho có khi trở thành một công án:

Ai biết khóc hay cười

Khi đến thời khô héo

Cành triêu nhan của tôi.

Trịnh Công Sơn viết, làm sao em biết bia đá không đau. Làm sao biết được. Như người uống nước nóng lạnh tự biết. Ngoại đạo hỏi Đức Phật: Sa-môn Gautama, Ngài vui hay buồn? Đức Phật đáp, Ta được gì mà vui, Ta mất gì mà buồn. Con đường của Phật là con đường trung đạo. Phật tính của đóa triêu nhan có lẽ sẽ nói lên rằng, khi đến thời khô héo thì tôi không khóc cũng không cười. Vì các pháp là vậy. Dứt bặt các ý niệm.

Thiền lặng im.

Haiku lặng im.

Và triêu nhan cũng lặng im.

         Tài liệu tham khảo:

1.      Nhật Chiêu, Basho và thơ Haiku, NXB.Văn học, Nội, 1994.

2.      Nhật Chiêu, Như một nhánh bìm xanh, báo Giác Ngộ online.

3.      Nhật Chiêu, Thơ ca  Nhật Bản, NXB.Giáo dục, Nội, 1997.

4.      Nhật Chiêu, Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến 1868, NXB.Giáo dục, Nội, 2000.

5.      Lâm Minh Trí,  Phật tính trong thơ Haiku của Kobayasho Issa (nguồn Internet).

 

 

 

 

 

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle