(thể hiện lòng vị tha cho đến khi đạt
được quả vị Phật như một phương tiện làm lợi ích cho tất cả chúng
sinh), và Tính không (bản thể tối thượng của
tâm và pháp giới) đều luôn luôn cần phải được thông qua
tu tập. Tuy nhiên, để đạt đến tinh yếu của các pháp tu nầy, chi tiết
thứ yếu – như trình tự của phương pháp đang áp dụng, những khía cạnh
chi tiết của việc quán chiếu mà người ta đang ứng dụng – sẽ phải
được định hình rõ để xứng hợp với các dạng tinh thần khác nhau mà
con người đã được thọ bẩm.
Có nhiều sự khác nhau trong
phương pháp thực hành của Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Tây Tạng cổ
đại, nhưng tinh yếu của Bồ-đề tâm, cốt tủy của Phật giáo Đại thừa
thì đồng nhất. Sự khác nhau chỉ là bằng cách nào để Bồ-đề tâm được
biểu hiện mà thôi. Ngay cả đối với Ấn Độ, cũng đã có nhiều phương
pháp thể hiện. Chẳng hạn phương pháp »Chuyển hóa ngã ái bằng cách
yêu thương mọi người« được Tịch Thiên dạy trong tác phẩm quan
trọng của Ngài là Nhập Bồ-đề hành luận (bodhisattvacaryāvatāra)
và »Phương pháp lục nhân nhất quả« (the method of six causes to on
effect) được
A-đề-sa dạy trong tác phẩm Bồ-đề
đạo đăng – (Bodhipathapradīpa). Những kỹ thuật khác nhau nầy
nhắm đến sự thích hợp cho những căn cơ khác nhau, vừa nhắm đến sự
phát triển Bồ-đề tâm giống nhau, và toát yếu phương pháp thực hành
lục độ.
Thế nên, những chi tiết của
các phương pháp tu tập đa dạng có thể có sự khác nhau để phù hợp
với tâm hồn của người Tây phương, và không những chỉ phù hợp với tâm
hồn người Tây phương nói chung mà còn phải thích hợp với từng căn cơ
cá biệt của người tu tập.
Hỏi: Tất cả các bậc Đạo sư
lớn đều nhấn mạnh tầm quan trọng phải có một đạo sư tâm linh để giúp
người tu tránh được nhầm lẫn về mặt giáo pháp và cả về mặt kinh
nghiệm thiền quán. Không may, hiện nay có rất ít chân sư mà lại có rất
nhiều người muốn tu học. Những người nầy có nên đọc một cẩm nang về
thiền rồi theo đó tu tập là tốt hơn chăng?
Đạt-lại Lạt-ma:
Điều nầy có thể được. Đi sâu vào một pháp thiền nào đó cao hơn thì
rất nguy hiểm nếu không được một vị chân sư hướng dẫn, nhưng với pháp
thiền quán đơn giản, như quán chiếu sự vô thường, lòng từ và bi hay
nhằm phát huy định lực thì rất tốt.
Khi chưa gặp được chân sư,
tốt hơn hết là mình nên tự giới hạn trong các pháp thiền quán đơn
giản.
Hỏi: Nhiều người muốn dấn thân
vào việc tu tập nhưng cảm thấy ảnh hưởng đến thời gian và công việc
mưu sinh cho gia đình... Liệu có thể chuyển hóa sự bận tâm nầy vào
trong nguồn suối tâm linh?
Đạt-lại Lạt-ma:
Cách xử lý chính đáng cần phải thể hiện là lòng yêu thương và Bồ-đề
tâm. Rất khó giải thích Bồ-đề tâm một cách vắn tắt mà vẫn chính xác.
Có lẽ đó là động lực muốn cứu giúp chính mình bằng cách cứu giúp
những người khác. Phong cách xử sự độc đáo nầy được gọi là Bồ-đề
tâm, là cốt tủy của Phật giáo Đại thừa.
Để có được những biểu
hiện của đời sống tâm linh thường nhật, lòng từ bi phải được phối
hợp với mọi hoạt động trong đời sống hàng ngày. Có một số thiền
pháp không thể thực hành khi các bạn đang làm việc, chẳng hạn khi đang
làm trong xí nghiệp, nhưng thực tập từ bi quán thì có thể được. Nếu
các bạn nỗ lực một cách chân thành, thì Phật pháp luôn luôn được thể
hiện.
Hỏi: Phật pháp mà người
Tây Tạng tu tập liên quan nhiều đến pháp thiền quán về vô số biểu
tượng và thần linh. Ngài có thấy từ điều nầy sẽ phát sinh một số
vấn đề sẽ phải đối chiếu như quan niệm nhất thần giáo của người Tây
phương?
Đạt-lại Lạt-ma:
Điều nầy tùy thuộc vào đặc tính của từng cá nhân. Một số người rất
thích những vị thần nầy... (cười).
Mỗi người phải tự chiêm nghiệm giáo pháp nào khế hợp với mình nhất.
Hỏi: Một số người cho rằng nên
có sự thay đổi những biểu tượng và thần linh nầy để thích nghi với
truyền thống văn hóa của riêng họ.
Đạt-lại Lạt-ma:
Điều nầy không nên. Nếu các bạn đã hành trì theo Phật pháp, thì những
vị thần biểu tượng cho thiền định, chắc hẳn phải có ấn tượng mạnh
mẽ liên hệ với giáo lý Phật giáo Kim cang thừa. Họ không thể lập ra một
cách tùy tiện, cũng không thể pha trộn với những pháp tu khác. Điều
tốt nhất là hành trì một cách tinh tấn pháp môn thích hợp nhất đối
với các bạn. Nếu các bạn đã chọn Phật pháp, thì hãy thực hành một
cách thuần nhất. Rồi các bạn sẽ đạt được kết quả, thì đó là điều
rất tốt. Còn nếu các bạn pha trộn giáo lý nầy với truyền thống
khác trong khi tu tập, thì kết quả thế
nào, các bạn không nên đổ lỗi cho Phật pháp.
Trong Phật giáo, vị có năng
lực thiền định tối cao nhất là Đức Phật. Nếu các bạn thích những
truyền thống khác, thì hãy thử. Còn nếu không, đơn giản là hãy làm
Phật.
Hỏi: Có phải »sự ưa thích« nầy
như là một thiên hướng của nghiệp lực?
Đạt-lại Lạt-ma:
Để hiểu rõ về nghiệp, phải biết rõ nhiều điều. Có nhiều điều phải
hiểu về nghiệp lực. Đạo Phật nói về biểu nghiệp và vô biểu nghiệp,
thường kết hợp chung với ý thức, hoàn cảnh và đó là cách tạo nên
nghiệp lực của con người. Đây là những yếu tố chính quyết định con
đường mà ta nên theo.
Hỏi: Nhiều người Tây phương
dịch kinh từ tiếng Tây Tạng nhấn mạnh rất nhiều đến khía cạnh bên
ngoài hơn là những vấn đề nội tại của lĩnh vực huyền bí tâm linh.
Làm thế nào để tránh được khuynh hướng nầy trong văn học Phật giáo
Tây Tạng, khi kinh văn Mật tông lại được phiên dịch trực tiếp từ tiếng
Phạn (sanskrit) sang tiếng Tây Tạng?
Đạt-lại Lạt-ma:
Dường như điều nầy không phải là một vấn đề nổi cộm quá mức ở Tây
Tạng. Tuy nhiên, chắc chắn đã có nhiều người đã không vận dụng tương
ứng giáo pháp trong phong thái tinh thần. Trên thực tế, bất kỳ hành
giả Mật tông nào vận dụng phương pháp nầy vào những mục đích như
chống phá kẻ thù thì đó không phải hành giả tâm linh chân chính. Dù
muốn hay không, một người thực sự là hành giả tâm linh phải được xác
định bởi lợi lạc lâu dài do sự tu tập của họ mang lại, không phải do
ở phương pháp hành giả ấy sử dụng.
Phật giáo Kim cương thừa
truyền dạy Mật chú để giúp cho chúng sinh đạt được giác ngộ,
chứ không cung cấp cho họ một dụng cụ để hãm hại người khác. Đức
Phật luôn luôn nhấn mạnh rằng Mật tông là một giáo lý bí mật. Nếu
giáo lý nầy ở trong tay của những ai không có Bồ-đề tâm và không có
những phẩm tính khác thì có thể rất nguy hiểm và chẳng có lợi ích gì
cho ai cả.
Trong một luận giải về
»Văn-thù-sư-lợi nhất thiết chú, có một mẩu chuyện về
một người bà-la-môn tên là Kanaka, là một hành giả tu luyện Diệm ma
thần chú. Mặc dù ông ta là một
hành giả với định lực thiền quán rất mạnh mẽ, nhưng ông ta vẫn đọa
vào địa ngục. Khi thực hành, ông ta mong sẽ đạt đến sự giác ngộ,
nhưng ngược lại, ông đã bị tai họa. Trong một luận giải khác, Bí mật
tập hội tantra cũng nhấn mạnh vào điểm
nầy.
Bất cứ những sự kiện nào
xảy ra ở Tây Tạng theo ý nghĩa nầy đều không tốt và dù bất kỳ điều
gì mọi người khác ưa thích cũng không đúng.
Hành giả Mật tông chân chính
phải tự hứa là không bao giờ thi triển bất kỳ một pháp thuật nào mà
họ có được. Theo giới luật của người xuất gia, dù là một A-la-hán,
cũng không được tiết lộ cho người khác quả vị mình đã chứng đắc.
Trong Mật thừa cũng như vậy, nếu hành giả chỉ vì tiểu tiết mà thi
triển pháp thuật, dù hành giả ấy có đạt được một phẩm tính nào đó,
thì nền tảng tu tập của hành giả ấy sẽ bị thoái hóa dần.
Hỏi: Trong tất cả các phương
pháp tu tập của Phật giáo, Mật tông đã thu hút được người Tây phương
nhiều nhất, đó không còn là những pháp thực hành mật tông sơ cơ nữa,
mà rất cao cấp. Pháp thực tập »thành tựu vị« là pháp thiền quán về
những luân xa và đạo quản tương giao với nhau. Những
pháp được ưa thích nầy có điều gì lợi và bất lợi, và pháp thực hành
Mật tông sơ cơ là gì?
Đạt-lại Lạt-ma: Rất hay khi
người Tây phương có niềm say mê với pháp tu »Thành tựu vị«. Tuy nhiên,
áp dụng pháp tu nầy sẽ có ít hiệu quả nếu trước hết không có được
thành quả trong khi thực hành theo pháp »tạo tác vị« trong đó, cảnh giới thiền
định được phát huy và oai nghi của hành giả trong nghi quỹ mật chú đã
chín muồi qua các phương pháp thiền quán về sự huyền diệu của hệ
thống mạn-đà-la. Hơn thế nữa, điều quan tâm này nên được khởi phát từ
nền tảng là động cơ muốn làm lợi ích cho mọi chúng sinh. Đó là điều
tiên quyết khó khăn nhất. Nếu sự quan tâm đến pháp tu nầy chỉ phát
xuất từ sự hiếu kỳ tầm thường thì sẽ thiếu đi nền tảng phát tâm chân
chính.
Thiền quán về »Thành tựu
vị« trong Mật thừa có thể rất nguy hiểm, có thể dẫn đến bệnh tật
hoặc tử vong cho những hành giả yếu kém căn cơ. Y dược không thể nào
chữa trị được bệnh hoạn phát sinh do tu tập pháp nầy không đúng, chỉ
có chất hóa giải duy nhất là áp dụng chính xác một pháp thiền quán
đặc biệt.
Hỏi: Xin Ngài giải thích vắn
tắt điều khác nhau giữa Mật thừa Ấn Độ giáo và Mật thừa Phật giáo
Đạt-lại Lạt-ma:
Rất khó để hiểu được toàn vẹn sự khác nhau ấy. Tuy nhiên, nói vắn
tắt, có sự khác biệt về cả hai phương diện thực hành và triết lý.
Về mặt thực hành, Mật
thừa Phật giáo căn cứ trên động lực là Bồ-đề tâm (bodhicitta)
trong khi Mật thừa Ấn Độ giáo lại thiếu chất liệu đó.
Về phương diện triết lý,
Mật thừa Phật giáo lập nền tảng trên lý thuyết vô ngã (anātman),
trong khi Ấn Độ giáo căn cứ trên lý thuyết về một bản ngã tồn tại
thực sự. Những bài tập luyện
Du-già (yoga) khác, như luân xa (cakra) và đạo quản (nāḍī), thì có nhiều điểm tương
đồng, nhưng điểm khác nhau rất vi tế.
Hỏi: Vì ngã ái và ngã chấp
là những nghiệp lực mà ta đã tạo nên từ vô thỉ kiếp, khi tiến hành
một lộ trình tu tập tâm linh không cần phải phát triển một bản ngã
tiêu cực, liệu có thể dẫn đến tà kiến ngoại đạo không?
Đạt-lại Lạt-ma:
Để tránh điều ấy, cần thiết phải biết chắc rằng pháp bạn đang thực
hành thực sự là một pháp môn chân chính. Nếu được như vậy, dù tập
quán quen thuộc của bản ngã quá sâu nặng, thì ảnh hưởng của nó cũng
không lan tỏa đến đâu. Còn nếu các bạn học hỏi giáo pháp mà không
ứng dụng, thì những hoạt động tinh thần của bạn có thể được gọi là
dễ dàng trở nên hướng đến mục tiêu danh và lợi trong tình trạng chỉ
có tự ngã và những tính xấu như nóng giận, chấp trước và bè phái...
phát triển. Tuy nhiên, mỗi ý nghĩa của giáo pháp mà các bạn lĩnh
hội đều được dùng để đào luyện tâm linh, nên mỗi lời pháp đều mang
đến lợi lạc mà thôi, bất luận bạn lĩnh hội được nhiều ít. Hiểu được
càng nhiều, bạn sẽ không bao giờ có khuynh hướng phát triển tự ngã.
Điểm quan trọng nhất là
lúc sơ cơ, phải hết sức nghiêm túc trong động cơ tiếp nhận giáo lý để
hành trì. Nếu tinh thần nầy mạnh mẽ và chu đáo, sẽ hạn chế được nguy
hiểm.
Hỏi: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni
có dạy trong kinh rằng tà kiến sẽ tạo nên nghiệp còn nặng hơn cả
giết ngàn vị Phật. Tại sao như thế?
Đạt-lại Lạt-ma:
Mục đích tối hậu của chư Phật là dạy cho chúng sinh phương cách giải
trừ trạng thái mê muội của tâm thức và cả sự khổ đau. Đây cũng là
nguyên do mà chư Phật đã tu tập và đạt được giác ngộ. Chư Phật chỉ
có một động cơ duy nhất là làm lợi ích cho mọi chúng sinh, hoàn
thiệân thông qua giáo pháp của chư Phật, thế nên xem thường bất kỳ
giáo pháp nào của chư Phật được coi là còn tệ hơn cả phỉ báng chư
Phật. Điều nầy còn hàm ý khi đã theo một giáo pháp nầy rồi thì không
nên coi thường các truyền thống tu tập khác.
Hơn thế nữa, chính Đức Phật
rất tôn trọng các truyền thống của giáo lý khác. Thế nên đối với
chúng ta, không tôn trọng các truyền thống khác cũng có nghĩa là phỉ
báng chư Phật.
Có nhiều phương pháp để
chiêm nghiệm các trích dẫn từ kinh điển. Điều gì là ước nguyện bản
hoài của chư Phật? Chỉ là truyền dạy giáo pháp. Và đó cũng chính là
giáo pháp đã đưa chư Phật đến nơi chứng ngộ. Ngay trong Phật pháp,
chúng ta không chấp nhận lý thuyết có một Đấng sáng tạo (creator),
mà xem mọi pháp đều tùy thuộc vào chính mình. Chư Phật không thể trực
tiếp thành tựu ước nguyện cứu giúp chúng sinh mà các Ngài chỉ có
thể thực hiện được bản nguyện ấy thông qua giáo pháp. Chúng ta có
thể xem đó là một sự thiệt thòi. Do vậy, giáo pháp chư Phật ban cho
chúng sinh quý báu và quan trọng hơn chính các Ngài rất nhiều. Vì căn
cơ và thú hướng đa dạng của nhiều loài hữu tình khiến chư Phật phải
dùng nhiều phương pháp thực hành và triết lý khác nhau để truyền
dạy. Nếu chúng ta tu tập theo giáo pháp nầy rồi chê bai các giáo pháp
khác, đó là chúng ta đã phỉ báng pháp cũng như phỉ báng chư Phật
vậy.
Hỏi: Đức Đạt-lại Lạt-ma có
nghĩ rằng các tôn giáo khác nhau trên thế giới đều lập nên bởi sự lưu
xuất từ hiện thân của chư Phật để khế hợp với tâm thức của từng căn
cơ và cộng đồng riêng biệt hay không?
Đạt-lại Lạt-ma:
Điều nầy rất có thể. Người sáng lập một tôn giáo nào đó có thể là
một hóa thân của một đức Phật đặc biệt nào đó. Do vậy, rất hợp lý
khi chúng ta nhìn các tôn giáo khác với lòng kính trọng sâu sắc.
Hỏi: Thế tại sao các tôn giáo
nầy lại thường chống đối nhau?
Đạt-lại Lạt-ma:
Đây là một vấn đề khác, vì một tín đồ chân chính không bao giờ lập
cước trên sự bàn cãi hoặc tranh luận cả. Thực tế đã có cái gọi là
chiến tranh tôn giáo. Tuy nhiên, những người dính líu vào cuộc chiến
tranh nầy không phải là những người tu tập mà họ chỉ lợi dụng tôn
giáo như một thế lực. Động cơ của họ thực tế là ích kỷ, không phải
là tâm linh.
Chiến tranh tôn giáo không
phải là vấn đề mâu thuẫn giữa các tôn giáo chút nào cả. Hãy để qua
một bên sự khác biệt của giáo lý giữa các tôn giáo, có rất nhiều
điều có vẻ như là mâu thuẫn trong Phật pháp. Chẳng hạn, đối với
những người có căn cơ nào đó, Đức Phật dạy rằng không có tự ngã tồn
tại chân thực, trong khi đối với những căn cơ khác, Đức Phật lại bảo
rằng có (một tự ngã tồn tại chân thực). Thế nên cái gì là mục đích
lời dạy của Đức Phật? Đó chẳng phải là khoa trương, cũng chẳng biểu
lộ tầm hiểu biết của Ngài, mà chỉ để làm lợi ích cho chúng sinh.
Cũng thế, Đức Phật không chỉ quan tâm đến một lớp hậu duệ, mà quan
tâm đến vô số môn đệ cùng các hạng người khác nhau. Do vậy, giáo pháp
của Đức Phật chắc chắn phải có nhiều từng bậc ý nghĩa khác nhau,
nên thường thấy, một số giáo pháp dường như mâu thuẫn nhau. Biết vậy,
nên ta hiểu các cuộc tranh cãi, bài bác giữa các tôn giáo với nhau sẽ
không bao giờ có được một lý do chân chính.
Hỏi: Đức Lạt-ma Tông-khách-ba, người sáng lập tông phái
Cách-lỗ đã tham học với hơn 45 bậc
đạo sư biểu tượng cho tất cả truyền thừa Phật giáo Tây Tạng. Phải
chăng điều nầy có nghĩa là qua tông phái Cách-lỗ, chúng ta có thể tìm
thấy tất cả các pháp tu của các tông phái Phật giáo Tây Tạng? Nếu
không, điều gì là chuẩn mực trong việc truyền thừa?
Đạt-lại Lạt-ma: Về cơ bản, những gì Lạt-ma Tông-khách-ba
đã làm là chọn những hệ truyền thừa giá trị nhất trong số các tông
phái đang được mến mộ. Chẳng hạn, từ tông phái Ca-nhĩ-cư Ngài chọn »Bí mật tập hội
tan tra« và Na-rô lục pháp, từ phái Ninh-mã, Ngài chọn dòng truyền
thừa bởi Lạt-ma Lhodak Nam-kha Gyal-tzen, từ phái Tát-ca, ngài chọn sự truyền thừa
của Hô Kim Cương và Du-già Kim Cương...
Một đặc điểm nổi bật trong
giáo lý của Rinpoche Je (Tông-khách-ba) là những điều ngài đối chiếu
được giải thích trong các bộ luận của Ngài, như trong »Luận giải về Bí
mật tập hội« với nhiều hệ thống giáo lý khác nhau, như:
- Lượng thích học
- Giới luật học
- Trung quán luận
Cũng vậy, Ngài trình bày
vắn tắt các luận giải về những điểm trọng yếu và chi tiết hóa về
các luận giải ấy nên rất khó hiểu.
Hỏi: Có đặc điểm chung nhất nào về tông phái Cách-lỗ chăng?
Đạt-lại Lạt-ma: Không, tôi chỉ nói về Ngài Tông-khách-ba,
trên phương diện Ngài là vị sáng lập tông phái Cách-lỗ, qua 18 luận
giải Ngài sáng tác để lập thành tông phái của mình. Còn những giải
thích từ các môn đệ của Ngài chúng tôi đều không được biết.
Trường hợp tương tự cũng
tồn tại giữa các vị sáng lập và các môn đệ trong bốn tông phái chính
của Phật giáo Tây Tạng. Không có sự khác biệt
trong chiều sâu thẳm của giáo lý trong bốn tông phái kể trên, nhưng
trong giải thích của các nhóm môn đệ từ bốn tông phái đó thì có những
tranh luận không cùng tận.
Vị Ban Thiền Lạt-ma thứ
nhất có viết: »Dù những tông
phái có tên gọi khác nhau về mặt lý thuyết, như Đại Thành Tựu (the
great completion), Đại Thủ Ấn (the great seal),
Trung Đạo (the middle way), nhưng khi một hành giả có
kinh nghiệm, đạt được trí tuệ thâm hậu về tri thức kinh luận khảo sát
các pháp môn ấy, hành giả sẽ thấy chúng như một thực thể thống
nhất«
Hỏi: Trong kinh luận thường nói đến Tam Thừa. Tại sao Đức Phật dạy
có ba thừa như thế?
Đạt-lại Lạt-ma: Mặc dù kinh điển nói nhiều đến ba thừa:
Thanh văn thừa (hearer's vehicle), Độc giác thừa (solitary
realizer's vehicle) và Bồ tát thừa (bodhisattva vehicle)
– hai thừa trước được xem là một, là Tiểu thừa (hinayana). Còn
Bồ tát thừa, hay còn gọi là Đại thừa (mahayana), được phân làm
hai là »Nhân thừa thực hành Lục độ« và »Quả thừa thực hành Mật
chú«. Nên ở Tây Tạng, chúng ta thường đề cập đến hai thừa, Tiểu thừa
và Đại thừa.
Có nhiều cách nhìn khác
nhau về hai thừa nầy. Trước hết, chúng ta xem xét từ quan điểm thực
hành
Rất quan trọng phải có một
nền tảng khách quan khi khảo sát về giới luật (vinaya), chẳng
hạn như một loại giới luật dành cho giới xuất gia gồm Tăng, Ni, và
loại giới dành cho cư sĩ tại gia.
Đối với Tăng Ni, ba pháp
thực hành căn bản phải tuân theo là: an cư trong mùa mưa, sám hối, bố
tát nửa tháng một lần và cử hành lễ Tự tứ vào cuối mùa an cư. Đây
là những pháp thực hành theo giới luật Thanh văn.
Nữa, chư Tăng Ni cần phải
thực hành lòng từ bi, phát Bồ-đề tâm và tu tập Lục độ, đó là pháp
tu Nhân địa của Đại thừa.
Một người có thể tu tập
các pháp nầy để đạt được giác ngộ, họ không được cản trở người
khác cũng như không được gây ra sự cản trở đối với những người phát
tâm tu tập. Do vậy, hành giả có thể thực hành tất cả các pháp môn
mà không hề mâu thuẫn. Với sự tiếp cận căn bản giáo lý nầy, sẽ không
có sự phê phán giữa Tiểu thừa với Đại thừa, Đại thừa và Tiểu thừa,
Kinh thừa (sūtra school) phê phán Mật thừa... Đó là sự liên quan
giữa các thừa từ quan điểm thực hành.
Từ quan điểm triết học,
Phật pháp có thể chia thành bốn trường phái:
1. Tỳ-bà-sa bộ (vaibhāṣika)
2. Kinh lượng bộ (sautrāntrika)
3. Du-già hành tông hoặc Duy
thức tông (yogācāra)
4. Trung quán tông (madhyamaka)
Tất cả các trường phái
nầy đều xuất phát từ Ấn Độ. Nhìn từ một phía, những trường phái nầy
như thể không công nhận nhau. Tuy nhiên, chủ đích của các giáo lý như thể
chống trái nhau ấy lại nằm trong khuôn khổ của đạo Phật. Triết học
Phật giáo nhằm cung ứng phương cách tiếp cận dần dần với những tư
tưởng siêu tuyệt hơn, dẫn đến tầm mức cao cả hơn và cuối cùng đưa con
người đạt được trí tuệ siêu việt. Do vậy không có trường phái nào
trong bốn trường phái trên bị loại trừ.
Ở Tây Tạng, có bốn tông
phái chính: Ninh-mã, Tát-ca, Ca-nhĩ-cư và Cách-lỗ. Từ quan điểm thực
hành, các tông phái ấy đều là Đại thừa, thực hành theo sự phối hợp
thống nhất của Kinh thừa (sūtrayāna) và Mật thừa (tantrayāna),
như đã được mô tả ở trên.
Từ quan điểm triết học,
bốn tông phái trên đều theo Trung quán luận (tu tập để khế hợp với
bình diện triết học phát triển như đã nói ở trên). Các tông phái ấy
không có gì khác biệt giữa các quan điểm thực hành và triết học. Sự
khác biệt là do ở thời điểm các tông phái ấy du nhập vào Tây Tạng,
và do sự truyền thừa của các vị Lạt-ma khi các ngài lập tông. Khác
biệt là ở sự nhấn mạnh vào những phương diện
thực hành và thuật ngữ đa dạng mà mỗi giáo lý được trao truyền. Tất
cả bốn tông phái đều dẫn đến Phật quả. Do vậy, tuyệt đối sai lầm khi
nói tông phái nầy siêu hơn tông phái kia hoặc phê phán lẫn nhau.
Hỏi: Xin Ngài vui lòng giải thích về sự khác nhau giữa việc tụng
kinh trong đạo Phật–chẳng hạn như–với cầu nguyện của người Thiên Chúa
giáo. Cũng thế, có khác biệt gì giữa việc thờ phượng Thiên chúa và
thờ phượng chư Phật, chư Bồ-tát?
Đạt-lại Lạt-ma: Hầu hết những lời kinh chúng ta tụng
đều mang ý nghĩa bừng chiếu từ nội tâm. Tụng kinh không phải để van
xin hay cầu nguyện lòng từ bi của chư Phật mà đó là một phương pháp
của thiền quán; còn nội dung của lời kinh là đối tượng của thiền
quán.
Tuy nhiên, cũng có một dạng
tụng kinh là để cầu nguyện đến tâm từ bi của chư Phật. Sự khác nhau
giữa việc tụng kinh và thờ phượng Thượng đế tùy thuộc vào động cơ
và nhận thức về việc mình đang làm. Bất kỳ lúc nào một người Phật
tử theo truyền thống Đại thừa phát tâm cúng dường hay tụng kinh cầu
nguyện đến chư Phật, Bồ-tát, là họ đều ngưỡng mong sự dẫn dắt và trợ
lực cho họ đạt được giác ngộ vì lợi ích cho toàn thể chúng sinh.
Hỏi: Để kết thúc, xin Đức Đạt-lại Lạt-ma cho người Phật tử phương
Tây những lời khuyên thiết thực nhất.
Đạt-lại Lạt-ma: Điều quan trọng là cần suy nghĩ kỹ
trước khi theo một truyền thống tâm linh nào đó. Một khi các bạn đã
bước vào rồi, thì hãy kiên trì thực hành. Đừng như người đi nếm thức
ăn ở khắp các nhà hàng mà không bao giờ thực sự có được một bữa no.
Hãy suy nghĩ kỹ trước khi chọn lựa một pháp tu, rồi theo nó suốt
đời. Theo cách đó, bạn có được kết quả dù chỉ dành một ít thời gian
thực tập mỗi ngày. Thay vì vậy, nếu các bạn có nỗ lực đi theo tất
cả những con đường khác nhau, các bạn cũng không đến được đâu cả.
Cũng vậy, kiên nhẫn thực
hành những điều cần thiết. Trong thời đại cơ giới nầy, mọi thứ dường
như đều là tự động. Các bạn có thể nghĩ rằng Phật pháp cũng như
thế – chỉ cần bật nút lên là các bạn có thể được chứng ngộ. Hãy
kiên nhẫn! Sự bừng chiếu nội tâm chỉ cần ở thời gian.
Các bạn nên duy trì nỗ lực
thường xuyên tu tập. Thật vô ích khi hết sức nhọc công vài tháng, rồi
lơ là, rồi lại nỗ lực hết sức. Tốt nhất là tự ép mình vào một
phương pháp thường xuyên và đều đặn. Cách nầy rất quan trọng.
Nếu các bạn đã hiến mình
cho Phật pháp, thì các bạn không nên xem mình như là một người »Phật tử
vĩ đại« rồi tức khắc bắt tay vào những việc làm quái dị. Ngạn ngữ
Tây Tạng có câu: »Hãy chuyển hóa tâm mình, nhưng để mặc thân thể bình
thường«.
Trong tất cả tông phái Phật
giáo, đặc biệt là trong Phật giáo Đại thừa, việc làm lợi ích cho
người khác rất được chú trọng. Trong lĩnh vực nầy, ngài Tịch Thiên
có dạy trong »Nhập Bồ-đề hành luận« rằng:
»Trước hết chiêm nghiệm
những gì được mọi người (trong xã hội mình đang sống) chấp nhận và
điều gì họ không chấp nhận, rồi tránh những điều mà họ không chấp
nhận«.
Dĩ nhiên, các bạn phải xem
xét những điều chấp nhận và không chấp nhận là trong sự phủ nhận
với pháp (dharma). Nếu chuẩn mực xã hội không mâu thuẫn với
pháp, các bạn nên cố gắng sống hòa hợp với họ. Với cách nầy, mọi
người sẽ kính trọng các bạn. Điều này không phải có nghĩa các bạn
hành động xuất phát từ tính kiêu căng tự phụ mà để mang lại lợi ích
lớn nhất cho tất cả mọi người.
Khi thực hành Phật pháp,
điều cần thiết nhất là tấm lòng thương yêu dành cho mọi người, vì đây
là nền tảng của Bồ-đề tâm. Tình thương là một pháp thực hành đơn
giản, thế nên rất lợi lạc cho người thực hành cũng như cho cộng đồng
nơi họ đang sống, cho cả quốc gia và cả thế giới nữa. Lòng Từ và Bi
luôn luôn được hoan nghênh. Dù các bạn tin có sự tái sinh hay không, các
bạn cũng cần có tình thương ngay trong đời nầy. Nếu chúng ta có tình
yêu, mới hy vọng có được một gia đình chân thực, tình huynh đệ chân
thực, sự thanh thản chân thực, và hòa bình thực sự. Nếu lòng yêu
thương bị đánh mất, nếu các bạn tiếp tục nhìn người khác như kẻ thù,
thì bất luận bạn có tri thức phong phú hoặc được học hành nhiều đến
đâu, bất luận bạn có nhiều khả năng phát triển về vật chất, thì các
bạn chỉ gặt hái lấy khổ đau và khủng hoảng mà thôi. Các sinh vật
thường tiếp tục lừa gạt và lấn lướt lẫn nhau, cơ bản là mọi người
tồn tại trên bản chất của cái khổ vô cùng, thế nên lạm dụng hoặc
ngược đãi lẫn nhau là điều vô nghĩa. Nền tảng của mọi pháp tu tập
tâm linh là tình thương. Để cho các bạn thực hành được điều này tốt
đẹp, đó chính là ước nguyện của tôi. Dĩ nhiên, để có thể thực hành
được điều nầy trong mọi hoàn cảnh, cần phải có thời gian. Nhưng các
bạn đừng nên đánh mất lòng can đảm. Nếu chúng ta muốn đem hạnh phúc
đến cho nhân loại thì chỉ còn một con đường duy nhất nầy thôi.
NHỮNG ĐIỀU TRONG TÂM TƯỞNG
L.N.Đ:
Những cuộc phỏng vấn nầy
do Ron Gluckman tiến hành nhiều nơi trong thời gian Đức Đạt-lại Lạt-ma
sống lưu vong ở Dharmasala, (Ấn Độ) từ tháng 2 đến tháng 3 năm 1996.
Ron Gluckman là nhà báo
người Hoa Kỳ, đã đi rất nhiều nơi để viết về nhiều đề tài phong phú
và đa dạng. Những chi tiết từ loạt bài phỏng vấn nầy đã được đăng
tải trong các tạp chí Asiaweek: Good Weekend, Sydney Morning Herald, Dagens
Nyheter Manads Magasin và trong nhiều tạp chí khác. Sau khi loạt bài
phỏng vấn được đăng tải, thì Hồng Kông thuộc chủ quyền của Trung Hoa.
Ron Gluckman rời Á Châu, thực hiện những đề tài khác ở châu Mỹ La Tinh
và châu Phi. Trong khi đó, Đức Đạt-lại Lạt-ma vẫn ở lại Ấn Độ.
Đức Đạt-lại Lạt-ma bước
vào căn phòng, nhưng trước đó đã lâu, căn phòng đã tràn ngập phong
thái nhiệt tình, thanh thản và tư tưởng chân thực phát khởi từ thiện
tâm. Nhưng cũng ngay trước đó, căn phòng như nổi bồng lên bởi tiếng
cười của Ngài, vang dội thường xuyên sâu thẳm, giàu nội lực phấn
khích. Ngài làm mọi người rung động nhiều lần bởi tiếng cười của mình
và khuôn mặt hiếm khi thiếu vắng nụ cười dù chỉ trong giây phút ngắn
ngủi. Mắt Ngài, đặc biệt, lấp lánh sự linh động đầy sức thu hút, như
đôi mắt của trẻ thơ.
Và cuộc trao đổi bắt đầu.
Hỏi: Ngài có lạc quan về tình hình Tây Tạng?
Đạt-lại Lạt-ma: »Vâng, tôi rất lạc quan«. Ngài trả lời,
rồi giải thích: »Lạc quan, có nghĩa là trong vài tháng tới, sẽ có
một giải pháp. Khi tôi không có niềm hy vọng, thì ngay lúc ấy tôi không
phải là người lạc quan. Nhưng thời gian trôi qua, tôi nghĩ rằng mọi
chuyện sẽ đổi thay. Từ viễn cảnh nầy, tôi rất lạc quan...«
Rồi Ngài cười khúc khích
và nói thêm: »Và tôi đã lạc quan suốt 37 năm qua«.
Hỏi: Ngài sẽ trở lại Tây Tạng chứ?
Đạt-lại Lạt-ma: Chắc chắn (Đức Đạt-lại Lạt-ma trả lời
không chút do dự với giọng nói vút cao pha lẫn tính khí vui nhộn). Vâng,
tôi thấy rất chắc chắn, không nghi ngờ gì cả. Trước hết, tôi muốn nhìn
thấy những gì đang thực sự diễn biến. Điều tôi quan tâm chính là nền
văn hóa Tây Tạng. Tôi thường xem đó là nền văn hóa Phật giáo. Đó không
chỉ là một nền văn hóa cổ, mà nó rất có ích cho thời đại hiện
nay... Nền văn hóa ấy có thể làm phát sinh tình hữu nghị và hòa bình.
(Ngài lại cười). Nó thật là có ích, là rất tốt.
Ngay cả khi chúng ta tiếp
cận với những vấn đề khó khăn bằng một nụ cười, vấn đề sẽ trở nên
dễ chịu hơn. Chúng ta sẽ ít gặp rắc rối hơn. Nếu các bạn nghiêm trang
quá, các bạn chỉ đối diện với nhiều khó khăn hơn mà thôi.
Cuộc đời đôi khi cũng rất
nghiêm trang.
Hỏi: Ngài có khi nào hoài nghi và tiếc nuối không?
Đạt-lại Lạt-ma: »Hầu như không. Từ khi Trung Hoa đầu tiên
xâm chiếm Tây Tạng, (vào năm 1950) đến nay, nhìn lại suốt 44, 45 năm qua,
khi nghĩ về những quyết định cơ bản lớn lao, tôi vẫn không hối tiếc
điều gì và tôi không nhớ có lúc nào niềm tin hay tinh thần của mình
hoàn toàn biến mất hay dao động cả.
Phần mình, tôi suy nghĩ về
những vấn đề xuất phát từ nền văn hóa Phật giáo, thái độ đối với
cuộc đời, cuộc sống của chính mình đối với sinh mạng của toàn nhân
loại, sinh hoạt trên hành tinh này, dường như hoàn toàn có ích rất
nhiều cho sự hỗ trợ ý chí tinh thần«.
»Một điều quan trọng nữa
là, tôi hoàn toàn tin rằng mục đích của chính đời sống con người là
hạnh phúc. Hạnh phúc chân thực, hạnh phúc chân chính sẽ đến khi các
bạn thấy có chút lợi ích từ cuộc sống của mình mang lại. Thế nên các
bạn có chút hài lòng. Cuộc đời tôi, chính ngay cuộc đời nầy, vì nhiều
hoàn cảnh, và mặc dù khả năng của tôi hoàn toàn có hạn, tuy vậy, tôi
vẫn nghĩ rằng sự tồn tại của đời mình ít nhất cũng đem lại chút lợi
lạc cho sáu triệu dân Tây Tạng, cũng như những người Tây Tạng đang ở
trong tù và ngay cả những người sẽ bị tử hình... Đó là mục đích, đó
là cuộc sống.
»Không có một ai, chẳng có
một người nào không có phiền muộn«. (Cười lớn).
Những thứ rắc rối ấy luôn
luôn hiện hữu ở đó. Nhưng, nếu ngay trong những phiền muộn ấy, các
bạn tìm thấy những điều có ích, thì cũng đủ cho các bạn giữ vững tinh
thần rồi. (Cười lớn)
Nếu các bạn chỉ nhìn thấy
những khía cạnh tiêu cực, thì các bạn sẽ chỉ thấy những điều tệ hại.
Nhưng, cùng lúc đó, nếu các bạn biết nhìn vào khía cạnh tích cực, thì
chỉ thấy toàn những điều hay. Thế nên, bạn đã thấy rõ. Đó chính là
sự chọn lựa của mình. Dĩ nhiên, trên bình diện thực hành các bạn phải
rất thực tế. Nhưng trên bình diện tâm linh, tốt hơn là phải suy nghĩ
theo hướng tích cực và giữ vững ý chí của bạn. Dù các bạn có thành
công hay không cũng không phải là điều quan trọng. Về phương diện tâm
linh, chúng ta phải hoàn toàn giữ chất trong sáng. Nỗ lực, nỗ lực,
và nỗ lực. Với mọi nỗ lực, thì khi nhìn sự thất bại vẫn thấy không
có gì là đáng tiếc cả. Đó là triết lý của tôi.
Hỏi: Làm thế nào để nền độc lập của Tây Tạng có thể thành hiện
thực trên thế giới?
Đạt-lại Lạt-ma: Điều ấy quá xa. Theo quan điểm của tôi,
tôi hình dung tùy thuộc vào sự tiếp cận của tư tưởng Trung đạo: quy
luật tự thân vận động. Như về vấn đề kinh tế, Tây Tạng là quốc gia
khép kín, thế nên rất khó khăn để phát triển nhanh chóng. Một vấn đề
khó ở đây là khi tôi muốn Tây Tạng có thêm nhiều công xưởng hoặc xí
nghiệp, thì cùng lúc đó, ngay khi khởi đầu, điều rất quan trọng là
phải giữ cho được sự tinh khiết của môi trường, đặc biệt là trong sự
thăm dò và khai thác tài nguyên. Nếu chúng tôi chỉ nghĩ đến lợi
nhuận, điều đó thật là nguy hiểm.
Trong lĩnh vực kinh tế, tôi
không phải là chuyên gia. Ước nguyện của tôi là nêu lên vài ý niệm xã
hội liên quan đến tầm quan trọng về lợi ích của con người, đặc biệt
là cho những người có ít đặc quyền. Chúng ta sẽ cần đến một vài
loại trách nhiệm, quyền kiểm soát của nhà nước để chăm sóc những
người ít được hưởng quyền lợi nầy. Chúng ta sẽ cần có một nền kinh
tế quân bình, ổn định, một hệ thống kinh tế thị trường, nhưng cùng
lúc, vẫn duy trì những quan điểm về xã hội.
Trong nhiều năm qua, tôi muốn
có sự quan tâm nhiều hơn đến phúc lợi xã hội, đặc biệt là lãnh vực
giáo dục và sức khỏe của chư Tăng Ni Phật giáo, cũng như các huynh đệ
Thiên chúa giáo. Điều ấy rất quan trọng, mà chúng ta thì đang thiếu
rất nhiều.
Hỏi: Vai trò của Đạt-lại Lạt-ma trong tương lai sẽ là gì?
Đạt-lại Lạt-ma: Dù sao đi nữa, đến lúc nào đó, tôi sẽ
xin rút khỏi những trách nhiệm nầy. Tôi sẽ đem hết sức mình cống hiến
cho sự phát triển nâng cao nền văn hóa Phật giáo, đó là ước nguyện
chính của tôi, không chỉ riêng cho Tây Tạng, mà còn cho Trung Hoa, vùng
Bắc Ấn Độ và Mông Cổ. Và tôi cũng rất muốn giữ mối quan hệ mật
thiết với những người bạn ở Tây phương và các nơi khác trên khắp thế
giới. Chúng ta đã phát triển một tình bạn chân thực, cũng như tình
huynh đệ chân thành. Đó là tôi muốn mang đến sự hòa hợp chân thực và
thường xuyên giữa các dân tộc. Trên phương diện nầy, tôi cảm thấy có
chút hãnh diện là tôi đã tạo được sự chia sẻ giữa Phật giáo Tây
Tạng và các huynh đệ Thiên chúa giáo. Chúng tôi đã tạo được mối quan
hệ rất thân thiện và hiểu biết lẫn nhau.
Thế nên, trong tương lai, cho
đến ngày cuối cùng của đời mình, tôi mong được làm điều gì đó để
phát triển sự hòa hợp giữa con người của các truyền thống tôn giáo
khác nhau.
Tôi đơn cử, ví như luân lý
thế gian, đó là động lực chính của hạnh phúc cuộc đời, sự an vui của
gia đình, sự an ninh trong cộng đồng... mà không cần thiết phải là đức
tin tôn giáo... Để phát triển gia đình, xã hội, quốc gia mình, các bạn
cần phải có gia đình, đó là một trường hợp. Nếu lợi ích của mình
chẳng đem lại gì cho lợi ích của người khác, thì các bạn có thể xem
đó là chỉ nghĩ đến riêng mình nhưng thực tế thì không phải như vậy.
Trong hoàn cảnh chúng tôi,
để cho Tây Tạng phát triển thịnh vượng, hòa bình và cuối cùng, Tây
Tạng sẽ phát triển thành một vùng hòa bình. Để điều ấy xảy ra,
chúng ta phải quan tâm đến lợi ích của nước Ấn Độ, lợi ích của nước
Trung Hoa và lợi ích của các nước láng giềng khác. Đó là một trường
hợp. Ngay cả đại lục nầy đối với đại lục khác cũng tùy thuộc với
nhau rất nhiều. Đó là thực tế, hoàn toàn rõ ràng, cũng như trong nhân
loại, đặc biệt là trong tầng lớp lãnh đạo. Nhưng trong thực tế, quan
niệm về chúng ta và chúng nó, về căn bản, vẫn còn nhiều khác biệt.
Hỏi: Xin ngài nói về sự nóng giận.
Đạt-lại Lạt-ma:
Có lần tôi đã nổi nóng,
nhưng hôm nay thì không (Ngài dừng lại hồi lâu như hồi tưởng lại những
ngày đã qua). Ngày hôm kia, tôi có một cuộc họp với một nhân vật quan
trọng. Tôi thấy mình mắc phải chút sai lầm. Sao vậy? Đó là việc riêng
của tôi (Ngài nói rồi phá lên cười lớn).
Tranh giành quyền lực, Ngài
nói tiếp: Thật là xấu hổ cho trò chính trị nhỏ mọn. »Cảm giác bực
bội«. Ngài nói tiếp một cách nghiêm trang, »Thực ra nó không là gì cả.
Khi tôi nghe về sự đàn áp dã man, về sự kỳ thị với dân Tây Tạng, thì
dĩ nhiên, trong một thời gian ngắn, tôi thấy mình có chút cảm giác khó
chịu, chút nóng giận, nhưng cảm giác ấy đến rồi đi. Có thể giải
thích như thế nầy: Bản tâm ta ví như đại dương, thỉnh thoảng gợn lên vài
cơn sóng vọng tưởng, như cơn giận chẳng hạn, nó đến rồi đi. Nhưng sóng
vọng tưởng ấy chẳng ảnh hưởng gì đến bản tâm. Đó là nhờ tư tưởng
Phật giáo và nếp sống văn hóa Phật giáo.
Cuộc đời rất thanh thản...
Các bạn có thể đánh mất hy vọng... hoặc giữ vững được đời sống tâm
linh. Khi ấy, chất liệu tinh thần trở nên kiên định và rất bền vững.
Hỏi: Trong cương vị một nhà lãnh đạo với rất nhiều lễ nghi, Ngài
thấy như thế nào?
Đạt-lại Lạt-ma: Với cương vị một Đạt-lại Lạt-ma, có
thể rất có ích. Tôi có thể cống hiến được nhiều cho mọi người. Về
mặt khác, trong quá khứ, đã có quá nhiều lễ nghi. Điều ấy tôi không
thích, những ngày đó. Vì tôi thích sống tự nhiên hơn. Và tôi nghĩ rằng
tôi chỉ là một người dân Tây Tạng. Thế nên, tôi thường nói chuyện và
nhấn mạnh trên cơ sở nầy. Nhưng đôi khi người ta vẫn quá nghiêm trang.
Điều ấy thúc đẩy cho vấn đề tôi muốn trình bày.
»Tôi thích giao tiếp với mọi
người. Nhưng nếu mọi người đều quá nghiêm trang, họ sẽ bị bối rối
trước lời tôi nói, điều ấy sẽ gây nên sự nhầm lẫn. Một số người đã
vận dụng ý nghĩa lời nói của tôi. Họ đã quá nghiêm túc về những gì
mà Đạt-lại Lạt-ma nói. Điều đó quá nghiêm trọng.
Vì tôi là một Đạt-lại
Lạt-ma, đôi khi tôi cảm thấy có chút xa cách với mọi người. Về mặt
tinh thần, tôi luôn luôn đồng cảm với người bình dân. Nhưng vì vị trí của
một Đạt-lại Lạt-ma, các bạn thấy đó, một số yếu tố đóng khung cô
lập đến theo. Khi tôi còn trẻ, đôi khi tôi cũng có cảm giác hay mong
ước được theo đám bạn nhỏ chơi đùa. Khi tôi ở Potala, nơi tôi thường ở
qua mùa Đông, căn phòng của tôi thường là rất lạnh và tối.
Đặc biệt, vào lúc hoàng
hôn, tôi nhìn mặt trời lặn rồi nhìn xuống bóng mình, thấy nó trở nên
lớn hơn.
Đôi khi, tôi cũng thấy hơi
buồn. Đến nay, cảm giác ấy chỉ giúp cho tôi thêm cơ hội để ngồi
thiền. Nhưng vào lúc ấy, khi còn ở Potala vào mỗi lúc hoàng hôn,
những đứa trẻ từ đồng cỏ ca hát khi trở về nhà chúng. Lúc ấy tôi
nghĩ, thích thú biết bao khi được đi cùng các bạn ấy.
May mắn thay, lúc đó, tôi
có rất nhiều bạn tốt, mặc dù tuổi tác cách biệt nhau khá nhiều,
nhưng các bạn ấy vẫn chơi với tôi như bạn bè cùng trang lứa. Tôi thấy
thời thơ ấu của tôi rất hạnh phúc.
Hỏi: Ngài dùng thời gian nào để ngồi thiền?
Đạt-lại Lạt-ma: »Vào buổi sáng, dù lúc đi xa. Thường
vào lúc 4 hoặc 5 giờ sáng. Ở đây thường là vào 3 giờ 30 sáng, đôi khi
4 giờ. Khi tôi đi xa thì bắt đầu vào lúc 5 giờ sáng, nếu ngày hôm
trước bị trễ, thì tôi bắt đầu vào lúc 4 giờ 30. Thông thường, chương
trình làm việc trong ngày bắt đầu từ 8 giờ 30 hay 9 giờ sáng, thế nên
dành 3-4 giờ để ngồi thiền trong ngày là hợp lý.
»Đôi khi trong chuyến hành
trình dài bằng xe hơi, đó là thời gian tốt nhất để thiền quán. Trên
máy bay cũng thế, nếu không có điều gì làm xáo trộn. Nếu có quá
nhiều xáo trộn thì...” (Ha, ha, ha).
»Từ trước đến nay, tôi không
bao giờ ngủ khi đi máy bay. Tôi rất sợ. Khi tôi bước vào lòng máy bay
và họ đóng cửa lại, thì không còn một chọn lựa nào khác. (Ha, ha,
ha!)
Hỏi: Tình trạng sức khỏe của Ngài ra sao?
Đạt-lại Lạt-ma: Tôi lạy Phật hằng ngày. Tôi dành 10 phút
mỗi ngày tập thể dục bằng cách đạp xe, rồi tập nhảy. Nhưng theo kinh
nghiệm hạn hẹp của tôi, trạng thái an tĩnh của tâm dường như là một
yếu tố chính của sức khỏe. Một bác sĩ cho biết áp huyết của tôi
giống như áp huyết của trẻ thơ.
Trước đây, tôi đã bị bệnh
hoàng đản và loét bao tử. Ngay cả
trước khi sang định cư ở Ấn Độ cũng không được khỏe cho lắm. Nhưng
thời gian qua tôi đã sử dụng thuốc. Nay đã khá hơn nhiều. Bây giờ tôi
có thể dùng được thức uống lạnh, mà trước đây thì không thể, như nước
cam vắt, trước đây thì hoàn toàn không. Tôi bị những cơn mưa giông cùng
sấm sét... (Ha, ha, ha!) Sấm sét trong bao tử tôi... (Ha ha ha!)
Hỏi: Ngài có ý tưởng gì về những Đạt-lại Lạt-ma tiền nhiệm?
Đạt-lại Lạt-ma: Nhiều bậc đại sư xem Đức Đạt-lại Lạt-ma
thứ V như là hiện thân của một
vị thần trí tuệ. Nói cách khác, như là Đức Phật, hay là một người
đã đạt đến kinh nghiệm chứng ngộ tâm linh cao nhất. Người như thế có
thể thị hiện hằng triệu hóa thân cùng trong một lúc. Trong trường hợp
hóa thân của Đức Đạt-lại Lạt-ma thứ II, ngài biểu hiện 100 hóa
thân cùng một lúc. Cuối cùng, chỉ một đứa bé được công nhận là hóa
thân của Đạt-lại Lạt-ma... còn nhiều nữa...
Điều quan trọng là đảm
đương công việc mà vị Đạt-lại Lạt-ma trước đã đặt nền móng. Mục đích
chính của việc tái sinh trở lại đều với mục đích giống nhau, là để
tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm. Trường hợp tôi, có một giấc mơ
gặp gỡ vị Đạt-lại Lạt-ma thứ V và được nói chuyện với Ngài. Khi tôi
gặp Đức Đạt-lại Lạt-ma thứ V, tôi rất kính trọng. Khi tôi gặp Đức
Đạt-lại Lạt-ma thứ XIII trong mơ, tôi cũng có một niềm xúc cảm rất
lớn về Ngài. Có một lần trong giấc mơ, tôi hỏi tình trạng khó khăn
nhất mà Ngài đang gặp phải là gì? Câu trả lời, bất hạnh thay, không
được rõ ràng chút nào... (Ha ha ha!)
Hỏi: Ngài quan niệm như thế nào về sự tái sinh như là một phương
pháp chọn lựa người lãnh đạo?
Đạt-lại Lạt-ma: Từ trước đến nay, sự tái sinh rất là
huyền nhiệm. Nhưng trong tương lai, chúng tôi sẽ thực hiện rất rõ ràng,
người lãnh đạo, trong ý nghĩa nắm quyền lực điều hành đất nước nên
được chọn qua bầu cử. Chúng ta đã tiến hành việc đó lâu nay rồi«.
Nhưng người dân Tây Tạng
trong nước lại không đồng ý như thế. Họ không tán thành sự thay đổi
nầy và không bầu chọn Đạt-lại Lạt-ma. Vâng, thật vậy! Và đây là điều
nguy hiểm. Thời gian trôi qua, mọi việc đều tùy thuộc vào kinh nghiệm
của mình. Trong trường hợp nầy, cần phải có sự xác định rõ, nhưng
cũng có nhiều sự bất tiện đặc biệt.«
Suốt đời, tôi chỉ muốn làm
những việc thuộc về tâm linh, không muốn làm những việc hành chính và
quản lý. Việc ấy có thể được điều hành bởi những người được bầu
cử ra hơn là bởi tôi. Trong những lãnh vực khác, như làm tăng trưởng
giá trị nhân văn hay giá trị Phật pháp, tôi nghĩ là tôi có thể làm
được tốt hơn. Người được bầu cử ra không thể làm được việc nầy.
Tôi cảm thấy một vấn đề
nào đó, một lĩnh vực nào đó không thể được điều hành bởi những
người nào khác, vì đây là những trách nhiệm của tôi, cho đến khi tôi
chết, tôi sẽ tiếp tục tiến hành. Tôi không muốn người khác đối diện
với những chướng ngại của các vấn đề nếu tôi còn giữ cương vị lãnh
đạo chính phủ... Việc điều hành những việc hành chính sẽ được tốt hơn
bởi những người khác.«
Tự nhiên, trong giai đoạn
khởi đầu của nền dân chủ, chúng ta phải đối diện với một số vấn
đề. Thế nên trong giai đoạn nầy, nếu tôi ở Tây Tạng, nếu tôi còn sống,
sẽ như là nhân vật thứ 3, tôi có thể giúp xử lý mọi việc được êm
đẹp.
Hỏi: Có phải Ngài sẽ là vị Đạt-lại Lạt-ma cuối cùng không?
Đạt-lại Lạt-ma: Bây giờ, các bạn thấy đó, hiện thực là
tùy thuộc vào nhân dân Tây Tạng. Từ năm 1969, tôi đã đề cập trong phát
biểu chính thức vào ngày 10 tháng 3. Tôi nói rằng, dù việc lập ra một
Đạt-lại Lạt-ma có nên tiếp tục hay không là tùy thuộc người Tây Tạng.
Như đối với trách nhiệm của tôi, trách nhiệm chính trị. Còn đối với
vị Đạt-lại Lạt-ma tiếp theo, lúc ấy, tôi không biết nữa. Nếu dân Tây
Tạng muốn có một vị Đạt-lại Lạt-ma tiếp theo, và dù vị Đạt-lại
Lạt-ma ấy phải điều hành công việc chính trị, đó cũng là tùy vào
người dân Tây Tạng.
Như các bạn biết, nay tôi
đã 61 tuổi. Có lẽ chỉ vài năm nữa, nếu chúng ta có cơ hội để trở
về Tây Tạng, lúc ấy tôi đã 65 tuổi, rồi phần còn lại của đời mình,
tôi chân thực muốn hiến mình cho một số lĩnh vực khác nhau. Đến lúc
đó, tôi sẽ quyết định. Người Tây Tạng đang đòi hỏi ở tôi, nhưng tôi
cũng có quyền nầy.
Hỏi: Nhưng với quan điểm cá nhân, Ngài có tái sinh trở lại như một
Đạt-lại Lạt-ma nữa không?
Đạt-lại Lạt-ma: Không nhất thiết phải là Đạt-lại
Lạt-ma. Các bạn thấy đó, sự tái sinh của tôi là được rồi! Dĩ nhiên,
dù muốn hay không, tôi vẫn phải tái sinh (cười lớn với vẻ khôi hài).
Đó là luân hồi mà. Tôi không tự cho mình là người cao quý. Tôi vẫn còn
trong luân hồi (samsara). Thế nên tương lai tôi không nằm trong bàn
tay tôi. Tôi như một hành giả, tôi luôn luôn sống trong cầu nguyện...
Lời kinh tôi thích nhất là:
»Hư không thế giới vô tận, nỗi khổ đau của chúng sinh cũng vô tận. Con
nguyện hiện thân ở đây để đem lại sự an vui lợi ích cho tất cả mọi
loài«.
Bài kệ nầy ban cho tôi sức
mạnh. Thế nên, dù nếu tôi có vào Niết bàn, chẳng bao lâu cũng phải
tái sinh trở lại. Lúc ấy, hiện thân của tôi sẽ luôn luôn ở cõi nầy,
đó là quyết định của tôi.
Nếu tôi chết, dù trong vài
năm sắp đến, tôi vẫn nghĩ về người dân Tây Tạng... Trong trường hợp
nầy, người Tây Tạng sẽ muốn tôi có một thân tái sinh khác. Nếu tôi
còn sống 20-30 năm nữa, lúc ấy toàn bộ tình hình sẽ đổi khác, với
những cải tổ mới và tình hình trở nên bình thường và hòa dịu, lúc đó
có lẽ nhân dân Tây Tạng bây giờ sẽ không còn xem việc lập nên một
Đạt-lại Lạt-ma là quan trọng nữa. Lúc ấy, trong trường hợp đó. Tôi
sẽ là vị Đạt-lại Lạt-ma cuối cùng.
Nhưng sự tái sinh của tôi
sẽ chấm dứt chăng? Không, chắc chắn không. Cương vị Đạt-lại Lạt-ma vẫn
hiện hữu. Nhưng người dân Tây Tạng không còn muốn công cử một Đạt-lại
Lạt-ma nữa.
Nhưng vì câu hỏi của bạn,
nếu tôi sẽ chết trong một thời gian ngắn nữa, tất nhiên tôi sẽ có một
cuộc tái sinh chắc chắn trở lại để tranh đấu cho tự do của Tây Tạng.
Nhưng vì đây là cuộc đấu tranh của một quốc gia, không phải của một phe
nhóm hay của một uỷ ban nhỏ, dân tộc Tây Tạng vẫn còn đó với cuộc
đấu tranh chính nghĩa nên cuộc đấu tranh ấy sẽ tiếp tục.
Tệ hại thay, một số người
Trung Hoa nói rằng mọi việc đều tùy thuộc vào một cá nhân và người
ấy nay đã hơn 60 tuổi, thế nên khi ông ta xong đời, toàn dân sẽ mất hẳn
tương lai. Điều ấy hoàn toàn sai lầm. Loại mong muốn ấy hoàn toàn
thiển cận. Cuộc đấu tranh của nhân dân Tây Tạng sẽ luôn luôn tiếp diễn.
Một mối nguy hiểm thực tế
là, nếu nhân dân Tây Tạng trở thành một nhóm dân tộc thiểu số, ở
giữa hằng triệu dân Trung Hoa, thìđó là cái chết thực sự của dân Tây
Tạng. Mặc dù đó là một mối nguy khác, nhưng đó là lý do tôi muốn
nói. Đôi khi thời gian đã kề cận quá rồi.
Hỏi: Ngài nghĩ như thế nào về sự lan tỏa của Phật giáo Tây Tạng
ở phương Tây?
Đạt-lại Lạt-ma: Theo tôi, trong tình hình phương Tây, tôi cho
rằng sự lan tỏa nầy cần đặt trong bối cảnh của một quốc gia Thiên
Chúa giáo. Và tôi nghĩ điều tốt hơn là các bạn nên theo giá trị
truyền thống của riêng mình, bao gồm cả giá trị tâm linh riêng của các
bạn.
Có một vài cá nhân người
Tây phương quan niệm như thế về Tây Tạng, về phương diện lễ nghi tôn
giáo. Đôi khi tôi cảm thấy quá nhiều và thật nguy hiểm khi bỏ quên hay
đánh mất những điều thiết yếu trong khi tập trung vào những nghi thức
long trọng. Nhưng người bình dân lại thích những hình thức nầy hơn.
Các bạn cần phải có một
nỗ lực mạnh mẽ, tạo nên một lực chuyển biến thực sự. Điều nầy đòi
hỏi phải có thời gian. Những tín đồ thích lễ hội, điều đó quá dễ
dàng. Có một mối nguy thực sự ở đây là sẽ đánh mất ý nghĩa chân
thực, đánh mất trí tuệ, ảnh hưởng sâu sắc từ sự chuyển hóa tâm thức
và thay đổi phong cách sống.
Tôi để ý có một vài người
Tây phương cũng thích lễ nghi và những sinh hoạt dạng nầy. Tôi chắc
chắn điều nầy không kéo dài được lâu. Đó giống như thời trang, sự ưa
thích nầy, nó đến rồi đi. Sau một thời gian, họ sẽ nhận ra, thông qua
kinh nghiệm của mình, chẳng có ảnh hưởng gì cả... (Ha ha ha!)
Tôi nghĩ ở phương Tây hoặc
ở các nước đạo Phật chưa lưu hành, có hai dạng người: một dạng rất
hời hợt, chỉ bị hấp dẫn bởi các lễ nghi, màu sắc và mọi hình tướng
khác. Sự ưa thích đó không được dài lâu. Dạng người thứ hai có thể
thông tuệ hơn.
Tôi chỉ xem mình là một tăng
sĩ Phật giáo, nhưng một số lời giải thích về quan niệm của đạo Phật
về thế giới, không phải làm cho tôi tin ngay tất cả. Các bạn thấy
đấy, chúng ta phải có tự do suy nghĩ, tự do tham cứu. Rồi thông qua
tham cứu, mới nhận ra một số vấn đề, thấy nó trở nên rõ ràng hơn,
từ đó quý vị mới chấp nhận được. Nếu có điều gì trái nghịch, thì
các bạn có quyền tự do không chấp nhận lý thuyết kinh điển. Chính Đức
Phật đã nói rõ điểm nầy: »Các con không nên chỉ chấp nhận lời ta nói
qua sự tôn kính, mà đúng hơn là nên thông qua sự chiêm nghiệm của chính
mình.«
Hỏi: Nhưng tại sao đối với người Tây phương Ngài rất được ngưỡng mộ?
Đạt-lại Lạt-ma: Về tôn giáo, đối với người Tây phương,
tôi nghĩ là rất đa dạng. Có một số người rất thành tâm, một số khác
lại hiếu kỳ. Cũng vậy, nên khi nghĩ về Phật giáo ngày nay, tôi cho
rằng; điều quan trọng nhất là nắm giữ khía cạnh tâm linh và không chỉ
là văn hóa Phật giáo thôi. Mỗi quốc gia có một nền văn hóa khác nhau.
Rốt ráo, sẽ phải có một đạo Phật phương Tây, đạo Phật châu Âu, có
cùng một bản chất, nhưng biểu hiện qua những truyền thống văn hóa đa
dạng khác nhau.
Hỏi: Ngài muốn được mọi người nhớ đến mãi bằng cách nào?
Đạt-lại Lạt-ma: Tôi chẳng quan tâm. Các bạn biết đó, một
lần nữa, một số bạn bè tôi muốn viết tiểu sử tôi. Tôi nói với các
bạn rằng, những gì quan trọng là lúc tôi đang sống. Tôi sẽ đem hết sức
mình, mang sự hiện hữu sinh tồn của mình để dành cho cái thiện, cho sự
lợi ích của toàn thể mọi người. Điều ấy rất quan trọng. Đó là tôi
đã hoàn thành sứ mệnh. Lúc ấy, dù mọi người có nói tốt nói xấu
cũng chẳng thành vấn đề. Hãy để cho họ nói. Tôi chẳng mong muốn ghi
lại những gì tôi đã làm.
Khi tôi vào Niết bàn, tôi
sẽ nói cho mọi người biết. (Ha ha ha!...)
GIÁO LÝ SIÊU VIỆT:
SỰ HÒA GIẢI CHO THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI
L.N.Đ: Theo truyền thống
Phật giáo Tây Tạng, Đạt-lại Lạt-ma là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế
Âm (Avalokiteshvara). Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 TENZIN GYATSO sinh năm 1935, là
người lãnh đạo tinh thần của hằng triệu Phật tử, người Tây Tạng
(Tibetan) và Phật tử ở các quốc gia khác. Sau khi Trung Hoa chiếm đóng
lãnh thổ Tây Tạng năm 1950, buộc Ngài và hằng triệu dân Tây Tạng phải
sống lưu vong từ năm 1959. Ngài đã lập một chính phủ lưu vong tại vùng
Dharamsala, thuộc lãnh thổ Ấn Độ. Ngài đi khắp nơi trên thế giới để
truyền bá Phật pháp cũng như tìm kiếm sự ủng hộ tinh thần cho quốc
gia mình. Từ khi Trung Hoa bắt đầu đàn áp dân Tây Tạng, hơn 6000 tu viện
đã bị phá hủy và một triệu dân Tây Tạng bị giết chết.
Năm 1989, Đạt-lại Lạt-ma 14
được nhận giải Nobel Hòa Bình do nỗ lực cống hiến cho phong trào bất
bạo động và nhân quyền trên thế giới. Bài dịch nầy được thu thập từ
tập sách cuả Nhà xuất bản North Atlantic Books năm 1996, bao gồm những
cuộc phỏng vấn khi ngài viếng thăm nước Pháp vào cuối năm 1993. Để dễ
theo dõi, chúng tôi tạm sắp xếp theo từng chủ đề và cố gắng dịch
sát với nguyên tác, dùng lối văn ghi lại rất trung thực các cuộc
phỏng vấn. Những chú thích ở cuối trang là của người dịch.
SỰ CHẾT, AN LẠC VÀ MÔI
TRƯỜNG
Hỏi: Theo Ngài, phải chăng cái chết chỉ là một tiến trình sinh học,
một hiện tượng y khoa hay chỉ là sự biến
chuyển tâm linh của từng con người? Thực sự chúng ta có cần phải đem
hết sức cứu chữa để ít nhất, có thể kéo dài đời sống của nạn nhân?
Hay ngược lại, phải chăng không hợp lý khi liều lĩnh để cho thân nhân
của mình chịu đựng cái chết, trong khi có thể cứu chữa được nhờ kỹ
thuật y khoa tối tân, và bệnh nhân bị cách ly hẳn với gia đình, cùng
bạn bè thân thuộc?
Theo Ngài, cái chết tốt hay
xấu? Nói chung, có phải những nỗ lực của Tây y nhằm can thiệp vào
tiến trình cái chết dường như là một vấn đề khiến Ngài rất quan tâm?
Ngược lại, nếu như cái
chết chỉ là một sự kiện bình thường, nên để cho người thân trong gia
đình được biết và gần gũi, cho đến thời điểm nào thì sự can thiệp
của y khoa nên chấm dứt? Cần có sự trợ duyên nào để chúng ta thông
báo cho người thân biết họ không cần phải có tâm lý né tránh cái
chết nữa?
Trả lời: Trước hết, chúng ta nên có nhận thức rõ rằng
cái chết thực sự là một phần của cuộc sống, tự nó chẳng có gì xấu
cả. Trong Tử thư Tây Tạng (Tibetan
book of the dead) có nói: »Chết chỉ là một ý niệm«. Nói cách
khác chết chỉ là biểu hiện sự kết thúc của tâm thức trọng trược
nầy và sự chấm dứt của vật nâng đỡ tâm thức ấy – cái túi da hôi
thối. Tiến trình nầy xảy ra ở mức độ tập trung cao nhất của tâm thức.
Nhưng cả sinh lẫn tử ở mức độ vi tế của tâm thức đều chẳng phải là
cái được gọi là »cực quang tâm thức«.
Nói chung, dĩ nhiên chết là
một cái gì đó mà ta thường sợ hãi. Tuy vậy, chết – điều mà ta chẳng
muốn tiếp xúc với nó chút nào cả – lại không thể nào tránh được.
Đây là nguyên nhân rất quan trọng. Khi ta còn đang sống mà đã quen thuộc
với ý niệm chết, nên sẽ không phải là cú sốc khi biết cái chết sẽ
đến, không phải chúng ta thường suy niệm về cái chết để mong tiến
trình ấy đến nhanh hơn, ngược lại, cũng như mọi người khác, chúng ta
cũng muốn được sống lâu hơn. Vậy mà, ta không mời, cái chết vẫn đến.
Chúng ta nên tin rằng nếu bắt tay vào việc chuẩn bị cho tiến trình
chết của mình sớm hơn, thì đến khi ta tiếp xúc với tiến trình chết, ta
sẽ thoải mái chấp nhận nó hơn.
Theo tôi, chẳng có một quy
luật phổ quát nào được xem là sự quan tâm chu đáo thường dành cho
bệnh nhân để giúp họ kéo dài mạng sống. Đó là một vấn đề rất tế
nhị. Để khảo sát, chúng ta cần phải có rất nhiều yếu tố, tùy thuộc
vào nhiều trường hợp riêng biệt. Chẳng hạn, nếu chúng ta tìm cách kéo
dài sự sống của một người bệnh rất nặng nhưng tinh thần vẫn còn ổn
định, nghĩa là chúng ta giúp cho người ấy cơ hội để họ tiếp tục tư
duy về đạo lý mà chỉ loài người mới có được. Chúng ta cần phải xem
xét bệnh nhân có hưởng được lợi lạc gì không, khi cố gắng kéo dài
mạng sống? Ngược lại, bệnh nhân sẽ phải chịu một sự đau khổ tột
cùng về thể xác cũng như tinh thần, hoặc trải qua tâm lý cực kỳ sợ
hãi.
Nếu bệnh nhân đã nằm liệt
giường, lại là một vấn đề khác. Ước muốn của gia đình người bệnh
cũng phải được cứu xét kỹ lưỡng, cũng như sự chi tiêu một khoản tiền
lớn do việc trị liệu để kéo dài mạng sống.
Tôi nghĩ điều quan trọng
nhất là cố gắng hết mình để bảo đảm cho người chết ra đi một cách
thanh thản, trong sự trầm tĩnh và an lạc. Có sự khác biệt rất rõ
ràng trong tiến trình chết của một người có tu tập và một người chưa
có niềm tin tôn giáo. Bất luận trong trường hợp nào, dù người chết
có niềm tin tôn giáo hay không, tôi vẫn tin sự ra đi trong thanh thản và
an lạc là điều tốt nhất.
Hỏi: Vừa rồi có nhiều người thường đặt vấn đề với một vị tiến
sĩ, liệu sẽ có một ngày nào đó, con người không còn bị bệnh tật
nữa. Ngài có nghĩ rằng sau những trò lừa bịp ấy hoặc là sau hằng
trăm buổi hội thảo như thế nầy, ngày đó sẽ đến khi thế gian nầy thực
sự được gội nhuần trong niềm an lạc?
Đạt-lại Lat-ma: Tôi rất tin và tiếp tục hy vọng rằng chúng ta
sẽ đạt được sự bình an nơi thế gian nầy. Nhưng dĩ nhiên sẽ phải luôn
luôn có những vấn đề rắc rối nhỏ nhặt xảy ra.
Hỏi: Qua những ấn tượng rất đẹp trong phim »Tại sao Phật pháp đến
phương Đông?«, chúng tôi biết được sự an tĩnh của tâm thường gắn liền
với sự giác ngộ, và được vận hành trong sự tương quan mật thiết giữa
con người và môi trường họ đang sinh sống. Nhưng Phật giáo cũng thừa
nhận tính chất vô ngã của hiện tượng giới mà chúng tôi hiểu một cách
đơn giản là »bản thể«. Xin Ngài chỉ cho chúng tôi
rõ những lĩnh vực mà ý niệm về »không tự tính« chứa đầy trong kinh
luận Phật giáo và về cách nhận thức »tính không« của hiện tượng
giới như thế nào để có thể dẫn dắt chúng tôi thay đổi cách nhìn ngay
trong môi trường xã hội đương thời?
Đạt-lại
Lat-ma: Người ta cho rằng các vật thể vô tri (các loài vô tình)
thường không tồn tại trên cơ sở tự tính (inherent existence), mà
chỉ tồn tại trên quy ước (conventional existence). Điều nầy không
những đúng với các vật thể vô tri mà còn đúng đối với vạn vật hữu
tình, có nghĩa là chúng hiện hữu do tâm thức (thức biến). Trên phương
diện nầy, vật thể vô tri cơ bản là bình đẳng với sự hiện hữu của
pháp giới hữu tình. Xét trong mối tương quan giữa ngoại cảnh và nội
giới (tâm thức), theo một số trường phái triết học, đặc biệt là
trường phái Du-già hành tông (yogacara) – một hệ phái thuộc Trung
Quán Y tự khởi tông (svatantrika) và theo trường phái Duy thức (cittamatra),
thì thế giới khách quan không hề hiện hữu, mà tất cả sự hiện hữu
của pháp giới đều do ở tâm thức. Pháp giới không có sự hiện hữu trên
cơ sở tự tính hoặc là ï hiện hữu đích thực, mà tính chất của các
hiện tượng ấy chỉ là sự phân biệt được tạo nên bởi tâm (thức). Thế
giới khách quan hiện hữu tùy thuộc vào tâm (thức), vậy nên nó tồn
tại như một biểu hiện do tâm thức tạo ra. Do vậy, nó không tồn tại
một cách độc lập ngoài sự quy định của tâm (thức), cũng không tồn
tại độc lập trong tự tính của tâm. Do vậy, hiện tượng giới chỉ có
thể được xem là tồn tại một cách khách quan.
Nói chung, Phật giáo công
nhận thế giới này là tập hợp của rất nhiều vật thể cực vi – xem con
người là một phần trong tự nhiên giới và bởi yếu tố nầy – tất nhiên
có sự liên quan giữa kiếp người và môi trường chung quanh. Rõ ràng
hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc rất nhiều vào môi trường chung quanh.
Đây là lý do tại sao kinh luận Phật giáo dạy chúng ta nên có cái nhìn
chính xác về tự nhiên giới
Chẳng hạn như trong giới
luật tỷ-khưu có một điều cấm không được làm ô nhiễm hoặc hủy phá cây
cỏ và thảo mộc. Theo sự ghi chép về công hạnh của Đức Phật, dường như
có một sự liên hệ rất mật thiết với tự nhiên giới. Không phải Đức
Phật được sinh ra trong hoàng cung mà sinh ra trong công viên, dưới tàng
cây sa-la. Đức Phật hoàn toàn chứng ngộ dưới cội cây bồ-đề (bodhitree) và từ
giã thế gian, nhập niết-bàn giữa các tàng cây Sa-la. Dường như Đức Phật
rất yêu thích cây cỏ.
NHỮNG VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC VỀ
ĐẤNG SÁNG TẠO
Hỏi: Ngài thường nói rằng
theo triết học Phật giáo, không có một đấng sáng tạo, không có một
vị thần linh chủ tể sáng tạo ra thế giới, và điều nầy có thể vô
tình cản ngăn những người có niềm tin vào thần quyền (divine
principle). Xin Ngài giải thích rõ sự khác nhau giữa Kim Cang Trì.
Bản Sơ Phật và Đấng Thượng Đế sáng tạo?
Trả Lời: Theo tôi được
biết, Bản Sơ Phật (primordial
buddha) cũng được gọi là Đức Phật Phổ Hiền, là thực tại tối thượng,
biểu tượng cho Pháp thân – không tính – nơi mà tất cả mọi hiện tượng,
thanh tịnh và nhiễm ô đều được hóa giải. Đây là giáo lý được xiển
dương bởi cả Kinh thừa (sutra) và Mật thừa (tantra). Tuy
vậy, trong vấn đề mà ông đang quan tâm, thì chỉ có truyền thống Mật
tông mới giải thích Pháp thân (dharmakaya) theo thuật ngữ »cực quang
bản hữu« (inherent clear light), chính là tâm thể. Điều nầy như thể hàm ý
rằng tất cả các hiện tượng, luân hồi và niết bàn, đều sinh khởi từ
bản nguyên trong sáng chiếu diệu nầy.
Ngay cả trường phái Tân
dịch cũng có kết luận rằng »trạng thái an nghỉ« của một hành giả
Đại Du-già – trạng thái của một hành giả đã đạt được một cảnh giới
thiền định, khi có được cảm nhận vi tế nhất về cực quang từ bản tâm –
nghĩa là khi hành giả còn an trú trong cảnh giới vi diệu nầy, là hành
giả hoàn toàn tự tại thoát khỏi mọi thứ vi tế che mờ bản tâm, khi
ấy hành giả đã được gội nhuần trong trạng thái diệu lạc.
Vậy nên chúng ta có thể
nói rằng điểm linh quang chiếu diệu, cội nguồn uyên nguyên nầy, rất
gần với ý niệm về một Đấng sáng tạo, vì tất cả mọi hiện tượng, dù
nó thuộc về luận hồi hay niết bàn, đều lưu xuất từ cội nguồn nầy.
Nhưng chúng ta phải hết sức cẩn thận khi phát biểu về cội nguồn uyên
nguyên nầy, thì chúng ta mới khỏi bị dẫn đến chỗ sai lầm. Ở đây tôi
không có ý nói đến sự hiện hữu đâu đó một loại ánh sáng hỗn hợp,
tương tự như trong khái niệm về đấng Brahma của ngoại đạo, như một
nền tảng của mọi hiện hữu. Chúng ta đừng để bị nghiêng về khuynh
hướng thần thánh hóa cảnh giới ánh sáng chiếu diệu nầy. Chúng ta
phải hiểu rằng khi đề cập đến »điểm linh quang của tự tính« vi diệu
nầy, là đang nói trên bình diện của cá nhân con người.
Cũng thế, khi ta nói về
nghiệp như là nguyên nhân khởi đầu của pháp giới, chúng ta phải giải
trừ ý niệm về một thực thể độc nhất được gọi là nghiệp hiện hữu
hoàn toàn độc lập (với pháp giới). Đúng hơn, ý tưởng tổng thể về
nghiệp được tích lũy một cách cá biệt, là ở ngay khởi nguyên về sự
sáng tạo khô cứng của thế giới. Trong khi theo Mật thừa, chúng ta nói
rằng pháp giới lưu xuất từ điểm linh quang nầy, chúng ta không nhìn
khởi nguyên nầy như là một thực thể độc nhất, mà như là một ánh
sáng vi diệu tối thượng của từng sinh thể. Chúng ta cũng có thể nhận
ra từ bản tâm thanh tịnh nầy, điểm linh quang của tự tâm chính là Đức
Phật Bản sơ (primordial buddha). Tất cả mọi tầng bậc của
sự sống mà mọi sinh thể trải qua – chết: thân trung ấm – tái sinh –
đều chẳng biểu tượng cho một điều gì khác hơn là vô số biểu hiện của
cực quang ẩn mật nầy, cả về mặt tâm thức vi diệu nhất và năng lực
của tâm. Khi cực quang nầy càng giảm đi sự chiếu diệu, thì quý vị càng
cảm nhận sự nặng nề khó chịu.
Theo nghĩa nầy, sự chết và
giai đoạn trung gian là lúc mà những biểu hiện thô phù lưu xuất từ cực
quang được tái hấp thụ. Ngay khi chết, chúng ta trở về lại với cội
nguồn uyên nguyên nầy và từ đó, một dạng thể hơi thô trọng hiện lên
để tạo thành tiền đề cho thân tái sinh (thân trung ấm). Tại giai đoạn
tái sinh nầy, cực quang hiện thành một thân thể vật chất. Lúc chết, ta
cũng trở về lại nơi nguồn gốc nầy. Và cứ thế, năng lực nhận ra cực
quang vi diệu nầy, cũng được gọi là Đức Phật Bản sơ, tương tự như
trực nhận ra niết-bàn, còn khi không nhận ra được điểm linh quang từ bản
tâm, sẽ khiến chúng ta lang thang trong những cõi giới luân hồi.
Đây là cách tôi hiểu được
về Đức Phật Bản sơ. Sẽ nhầm lẫn nghiêm trọng khi hiểu về Đức Phật
Bản sơ như là một hiện hữu độc lập và tự hữu từ vô thủy. Nếu chúng
ta chấp nhận ý tưởng có một đấng sáng tạo độc lập, thì lời giải
thích trong Lượng thích luận của Pháp Xứng, và chương thứ 9 trong luận
giải của Tịch Thiên hoàn toàn bác bỏ lần lượt sự hiện hữu của tất
cả từng hiện tượng một, sẽ bị phủ nhận. Điều nầy, trở lại sẽ bác
bỏ luôn ý niệm về Đức Phật Bản sơ. Quan điểm của Phật giáo không
chấp nhận sự xác quyết hợp lý mà không đứng trên sự khảo sát chính
xác. Nếu kinh điển diễn tả Đức Phật Bản sơ như là một thực thể tự
có, thì lẽ ra chúng ta có thể phải giải thích sự quyết đoán nầy mà
không cần dùng những ẩn dụ.
Hỏi: Sự quan tâm về những khám phá trong ngành vật lý thiên văn và
lý thuyết »big-bang« làm khơi dậy cả hai vấn đề. Một là sự quan tâm
lớn lao đến vũ trụ và một là cuộc phỏng vấn thăm dò bởi những
thành viên trong thế hệ chúng ta về cội nguồn mà họ sinh ra, họ sẽ
về đâu và sự hiện hữu tồn sinh của họ. Lý thuyết »big-bang« đã có
một ảnh hưởng rất quan trọng trong cách nhìn vào vật chất và bản
thể; lý thuyết ấy đã giới thiệu một ý niệm mới có thể chấp nhận
được. Những tư liệu về cấu trúc vũ trụ, có tác dụng tương dung tương
nhiếp lẫn nhau và những khám phá mới tiếp tục được công bố, là một
nguồn thắc mắc vô tận. Giống như các truyền thống tâm linh khác, Phật
giáo cũng khảo cứu những huyền vi của vũ trụ. Nhưng Phật giáo lại
từ chối ý niệm về Đấng sáng tạo – Tại sao?
Phần nhiều các khoa học gia
Tây phương nghĩ rằng cuộc sống và tâm là một kết quả hoàn hảo trong
quá trình tiến hóa vật chất vũ trụ, thế nhưng họ chẳng biết vật
chất hình thành như thế nào và tại sao qua một phương pháp yếu tố cần
thiết để làm sinh khởi sự sống và tâm thức hoàn chỉnh như thế. Những
gì họ biết rành rẽ là những nhân duyên nầy vận hành rất sát sao. Tuy
nhiên, nó đã hoàn chỉnh trong vũ trụ nầy theo cái nhìn của vật lý
thiên văn. Ngài đã có một cái nhìn rất độc đáo và hoàn chỉnh về vấn
đề nầy. Xin Ngài hoan hỷ cho chúng tôi biết về tâm thức và mối tương
quan của nó với vũ trụ vật chất.
Đạt-lại Lat-ma: Vì sao Đạo Phật không chủ trương có một Đấng
sáng tạo? Đạo Phật cho rằng người ta không thể nào tìm thấy một sinh
thể từ khởi nguyên của vũ trụ bởi vì nguyên nhân chủ yếu tạo nên mọi
việc cũng không có sự khởi đầu. Nếu có một điểm khởi nguyên cho vũ
trụ nầy, ắt cũng phải có một khởi nguyên của tâm thức. Nếu chúng ta
chấp nhận tâm thức có điểm khởi đầu, thì... chúng ta cũng sẽ phải
chấp nhận nguyên nhân của nó cũng phải có một điểm khởi đầu, một
nguyên cớ ngẫu nhiên nào đó bỗng dưng tạo nên tâm thức, điều nầy sẽ
đưa đến rất nhiều vấn đề khác.
Nếu tâm thức phát khởi mà
không có nguyên nhân hoặc từ một nguyên nhân thường hằng, thì nguyên nhân
ấy sẽ phải tồn tại theo một nền tảng thường hằng, luôn luôn như vậy,
hoặc hoàn toàn không tồn tại. Thực ra một hiện tượng tồn tại dù chỉ
trong thoáng chốc cũng chứng minh nó tùy thuộc rất nhiều yếu tố nhân
duyên. Khi tất cả các duyên đã hội đủ, thì hiện tượng được sinh khởi.
Khi một trong những duyên nầy vắng mặt hoặc chưa hoàn chỉnh, thì hiện
tượng ấy không hiển bày. Khi những nguyên nhân được xem là vô thủy và
vô chung, thì sự có mặt của con người cũng được nhìn như là vô thủy vô
chung. Thế nên có một đấng sáng tạo là điều không thể chấp nhận.
Bây giờ chúng ta hãy xem
xét một hiện tượng đặc biệt, một tảng băng đang tan chẳng hạn; thực
vậy, nó có chỗ bắt đầu, nhưng nó được tạo ra như thế nào? Thế giới
hiện tượng trình hiện như là kết quả từ sự tạo tác của các sinh thể
sống trong thế giới nầy. Sự tạo tác hay nghiệp (karma), trở lại
làm sinh khởi những ý định hay hành động của những sinh thể nầy khi
không làm chủ được tâm thức của chính nó.
Đấng »sáng tạo ra thế
giới« cơ bản chính là tâm. Trong kinh luận, tâm được mô tả là tác nhân.
Kinh nói rằng tâm thức không có điểm khởi đầu. Nhưng ở đây chúng ta
phải phân biệt cho được giữa tâm thức thô trọng và tâm thức vi tế. Tâm
thức thô trọng phát sinh tùy thuộc vào hợp thể vật chất, tức thân
thể. Đây là chứng cớ khi các bạn xem xét hệ thống dây thần kinh và
chức năng của não bộ, nhưng nếu chỉ có những yếu tố vật chất tụ
hội lại thôi thì chưa có nghĩa đầy đủ để tạo thành sự nhận thức.
Để có được nhận thức, có
được chức năng quán chiếu và biết được một hiện tượng đang sinh khởi,
cần phải có một nguyên nhân hợp nhất hoàn chỉnh. Nguyên nhân hợp nhất
hoàn chỉnh cơ bản, có cùng một bản chất với kết quả, trong trường
hợp nầy, chính là tâm thức vi tế. Đó chính là tâm thức thô trọng hay
tâm thức vi tế đã siêu việt hẳn các tế bào do cha mẹ sinh ra ngay lúc
vừa khởi niệm. Tâm thức vi tế không có chỗ khởi đầu. Nếu có, cái tâm
được sinh ra từ một cái gì thì đó không phải là tâm. Thời luân Tan-tra (kalacakra
tantra) dạy rằng hành giả phải
quay trở lại với từng hạt lân hư trần để nhận ra được nguyên nhân hợp
nhất cơ bản của thế giới vật chất bên ngoài. Cũng như của thân thể
con người.
Vũ trụ luận Phật giáo
thiết lập vòng luân hồi của thế giới theo phương cách như sau: Đầu tiên
là thời kỳ hình thành (thành), kế đến là thời kỳ vũ trụ nầy tồn
tại (trụ), rồi đến giai đoạn bị tàn hoại (hoại), và tiếp theo là
giai đoạn tiêu trầm để rồi biến mất (không) và tái tạo nên một vũ
trụ mới. Trong cái không, tức các lân hư trần, từ các chất tử nầy mà
một vũ trụ mới lại được hình thành. Chính trong những chất tử nầy mà
nguyên nhân hợp nhất cơ bản của toàn thế giới vật chất được nhận
thức.
Nếu chúng ta muốn mô tả sự
hình thành của thế giới và thân thể vật lý của con người, mọi việc
cần làm là phân tích và hiểu rõ phương cách mà các tiềm thể của các
hóa chất và các phần tử mà vũ trụ có thể được cấu tạo thành hình
dạng bắt nguồn từ các lân hư trần nầy. Chính là trên cơ sở tiềm năng
đặc biệt của các chất tử nầy mà cấu trúc của vũ trụ và thân thể
con người được tạo dựng nên. Nhưng trước khi các phần tử hoàn thiện
thế giới bắt đầu tạo nên những kinh nghiệm khổ đau, hạnh phúc trong
các sinh thể, thì chúng tôi phải giới thiệu ý niệm về nghiệp (karma)
– đó là những hành vi thiện và bất thiện đã được thực thi và tích
lũy trong quá khứ.
Rất khó xác định đâu là
nơi mà sự biểu hiện tự nhiên từ tiềm thể của các yếu tố vật lý
chấm dứt và đâu là ảnh hưởng của nghiệp – nói cách khác, đâu là nơi
mà kết quả các hành vi quá khứ của chúng ta bắt đầu. Nếu các bạn
thắc mắc cái gì là mối quan hệ giữa nghiệp và môi trường ngoại giới
được hình thành bởi luật tự nhiên, thì đó chính là lúc để giải thích
nghiệp là gì.
Trước hết, nghiệp có nghĩa
là hành động (actions). Chúng ta phân biệt một loại nghiệp, gọi
là ý nghiệp (mental
karma), là yếu tố tinh thần từ sự dự tính hay tự nguyện thực
hiện.Ngoài ra, còn có thân nghiệp (physical karma), và khẩu
nghiệp (oral karma).
Để hiểu rõ sự liên quan giữa ba nghiệp,
thân, khẩu, ý, chúng ta phải liên hệ đến kinh luận của Mật thừa. Trong
Thời luân tan-tra (kalacakra
tantra), đặc biệt giải thích rằng từ trong thân thể của mình, có
thế tìm thấy được sự hình thành từ thô phù đến vi tế và cực kỳ vi
tế của năm đại chủng tạo nên bản chất vũ trụ
khách quan. Do vậy nên qua cuộc phỏng vấn nầy, tôi tin rằng chúng ta
phải quán chiếu kỹ mối liên quan giữa ba nghiệp thân khẩu ý của mình
và năm đại chủng (element).
LỜI KHUYÊN CHO PHẬT TỬ
PHƯƠNG TÂY
Hỏi: Thưa Ngài, xin Ngài cho
chúng tôi, những Phật tử đang tổ chức và phát triển các cộng đồng tu
học Phật pháp tại Tây phương, những lời khuyên.
Trả lời: Như tôi thường nói
với các đạo hữu của mình, nếu chúng ta muốn giữ truyền thống tốt
đẹp của Phật giáo đã được phát huy qua đời sống của người dân Tây
Tạng, thì việc đó hoàn toàn tùy thuộc vào sự tự do ở Tây Tạng. Vì
mục đích đó, các bạn đã cùng làm việc chung với nhau rồi, tôi mong
các bạn tiếp tục làm việc vì sự tự do của Tây Tạng như vừa qua các
bạn đã từng làm.
Chúng ta hãy cố gắng phân
biệt hai từ: »Tự do« và »độc lập«. Cách dùng từ »độc lập« có chút
tế nhị. Hiển nhiên là tôi đã cố gắng thiết lập sự quan hệ với chính
phủ Trung Hoa và bắt đầu có những cuộc đàm phán rất nghiêm túc. Trong
suốt 14 năm, tôi đã cố gắng hết sức mình, kiên trì trong cuộc tiếp xúc
nầy, và nỗ lực theo đuổi không ngừng để đưa các cuộc đàm phán nầy
đến kết quả tốt đẹp thông qua các cuộc thảo luận trực tiếp với chính
phủ Trung Hoa.
Tôi muốn chia sẻ một số suy
nghĩ của tôi với các bạn nam nữ Phật tử có mặt hôm nay. Trước hết,
Phật giáo luôn luôn hài hòa với truyền thống mới, Phật giáo là một
tôn giáo trước đây chưa có ở phương Tây. Do đó, rất bình thường khi các
Phật tử đã tiếp thu Phật giáo với tinh thần Tây Tạng cũng sẽ thích
thú khi được khuyến khích tiếp tục học tập theo một truyền thống tôn
giáo khác. Điều nầy hoàn toàn tự nhiên. Tuy vậy, những người đã suy
nghĩ rất nghiêm túc khi chuyển sang theo đạo Phật, đó là các bạn đã
thay đổi truyền thống tôn giáo, thì rất quan trọng khi nghe những lời
cảnh báo nầy. Việc ấy không thể do dự. Thực vậy, nếu một người
chuyển đạo mà không suy nghĩ chín chắn, thường sẽ có rất nhiều khó
khăn rắc rối dẫn đến sự rối loạn nội tâm. Thế nên tôi muốn khuyên
những ai muốn chuyển sang đạo Phật hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi
quyết định.
Thứ hai, khi một người tin
rằng Phật pháp thích hợp với khuynh hướng của người ấy hơn, tin rằng
Phật pháp có tác dụng với họ hơn, thì việc chọn lựa tôn giáo nầy
hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, tính cách của con người là sau các cuộc
thảo luận để phân định, những người nầy thường có khuynh hướng thích
phê phán tôn giáo trước đây mình đã theo. Điều nầy phải tránh với bất
kỳ giá nào. Cho dù tôn giáo cũ dường như không có gì hấp dẫn hoặc họ
có vẻ không yêu thích (đây là lý do để họ thay đổi tôn giáo), đây không
phải là lý do chính đáng để phê phán tôn giáo cũ, cho rằng chúng không
có tác dụng gì đối với tâm linh nhân loại. Tôn giáo tiếp tục mang đến
sự an lành vô biên cho hàng triệu con người. Bởi lý do nầy, là Phật
tử, chúng ta phải tôn trọng quyền của người khác, vì những tôn giáo
khác đã giúp đỡ rất nhiều cho hằng triệu người. Đặc biệt, chúng ta
đang ở trong tiến trình nỗ lực tạo lập và duy trì sự hài hòa toàn
diện trong các tôn giáo. Trong những trường hợp nầy, rất thiết yếu
phải biết yêu cầu tôn trọng các tôn giáo bạn.
Thứ ba, điểm then chốt trong
truyền thống Phật giáo Tây Tạng là luôn luôn đặt vào sự phối hợp
giữa học và tu. Dĩ nhiên, điều ấy xảy ra khi các bạn tự nguyện hiến
mình vào việc học nhiều hay ít. Có nhiều người theo đuổi việc học rất
nhiều, những người khác hài lòng với một tầm mức giới hạn trong
việc học. Bất kỳ trường hợp nào, cơ bản là các bạn không nên cách
biệt việc học với việc quán chiếu và thiền định. Các bạn cũng phải
hàm dưỡng truyền thống tu niệm, trong đó các việc học, việc quán
chiếu và thiền định không thể nào tách biệt nhau được.
Thứ tư, tôi muốn nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của tư tưởng không bè phái. Điều nầy đôi khi xảy ra,
người ta quy hướng sự phóng đại vào sự quan trọng của một hay nhiều
trường phái hay truyền thống khác nhau trong đạo Phật, điều nầy dẫn
đến một sự tích lũy vô số hành vi tiêu cực khi nhìn về Pháp (dharma).
Sự lợi ích của tư tưởng không giáo phái là sau khi thọ nhận lời khai
thị, hoặc lễ điểm đạo và những lời giải thích
hợp lý từ mỗi truyền thống tôn giáo khác nhau, chúng ta sẽ có sự
hiểu biết về những giáo lý đa dạng. Theo kinh nghiệm cá nhân tôi, về
điều nầy, khi không có tâm niệm nghi ngờ, thì thường có rất nhiều lợi
ích. Do đó, nếu ta duy trì tư tưởng không giáo phái, như khi ta thọ nhận
giáo lý từ nhiều truyền thống khác nhau, thì hãy suy niệm kỹ về các
giáo lý ấy, rồi đưa ra thực hành. Chắc chắn chúng ta sẽ được phát
triển sự hiểu biết về pháp. Đây là lý do tại sao tư tưởng không giáo
phái rất quan trọng.
Truyền thống Phật giáo Tây
Tạng có hai cách tiếp cận đã được nhiều học giả danh tiếng và các
đại thành tựu giả vận dụng. Thực vậy, trong
khi có người tập trung vào việc học và tu tập về truyền thống, về di
sản tâm linh của mình, thì có những người khác lại làm lan tỏa sở học
và kinh nghiệm tu tập Phật pháp của mình với quan niệm không giáo
phái. Truyền thống nầy đã tồn tại ở Tây Tạng trong số những bậc đại
sư, và tôi nghĩ rằng ngày nay, tư tưởng không giáo phái này cực kỳ
quan trọng và đó là phong cách Tây Tạng tuyệt diệu nhất để noi theo.
Điều thứ năm tôi muốn nói
là trong suốt hơn 30 năm qua, Phật giáo Tây Tạng đã được truyền bá
rộng rãi qua các lục địa khác nhau. Các vị Lama, Tulku và Geshe đã có nhiều nỗ lực vĩ
đại để gieo trồng cho loài hoa Phật giáo Tây Tạng nở rộ khắp thế
giới, và được hỗ trợ bởi hằng trăm ngàn môn đồ và học chúng. Trong
suốt thời kỳ đó, có một số trường hợp hơi thiếu lành mạnh đã sinh
khởi, dẫn đến một số rắc rối. Ban đầu là do niềm tin mù quáng ở
một số đệ tử và cũng do một số vị thầy đã lợi dụng sự non yếu
của các đệ tử. Đã có nhiều vụ tai tiếng về tài chính và lạm dụng
tình dục. Những thứ ấy rồi cũng xảy ra! Kết quả là tôi phải kêu gọi
ngay vào thời điểm ấy, rất cần thiết cả đệ tử lẫn thầy phải nhắm
đến mục đích tâm linh – hàm dưỡng diệu pháp thanh tịnh. Đó là trách
nhiệm của chúng ta, loại tất cả các hành vi bất tịnh nầy vào chỗ
cáo chung.
Đức Phật dạy bốn phương
pháp để cho môn đệ sống hòa hợp với nhau (tứ nhiếp pháp), bốn pháp
nầy bảo đảm cho sự hoàn thiện cho mọi thành viên trong đại chúng. Sáu
ba-la-mật(paramita) được thực hành để đạt đến sự hoàn thiện cho
cá nhân, còn Tứ nhiếp pháp nhằm đạt đến sự hoàn chỉnh cho toàn thể
đại chúng. Từ nhiếp pháp bao gồm trước hết là sự giúp đỡ về đời
sống vật chất (bố thí nhiếp), rồi dùng lời nói nhu hòa trong khi giao
tiếp (ái ngữ nhiếp), rồi giúp đỡ nhau trong cuộc sống (lợi hành
nhiếp) và cuối cùng là ứng dụng sự tương thích giữa lời nói và hành
động (đồng sự nhiếp). Trước hết, rất quan trọng khi duy trì điểm cuối
cùng (đồng sự) trong tâm mình. Nếu ta không tự chủ được tâm mình, thì
rất khó hướng dẫn được tâm ý của người khác. Chúng ta không biết có
thể điều khiển tâm ý của người khác hay không, nhưng đó lại là việc
ta muốn làm! Bất luận trường hợp nào, điểm thiết yếu cho những người
tuyên bố họ muốn giúp ích người khác là họ phải làm chủ được tâm
mình. Ngày nay, việc thực hành điều nầy rất quan trọng đối với những
bậc thầy, họ được nhắc nhở thường xuyên về giáo lý của Đức Phật,
về cách giúp đỡ người khác trong sự hài hòa giữa lời nói và việc
làm.
Xin trích dẫn câu ngạn ngữ
Tây Tạng. Một đệ tử không nên trao mạng mình cho một vị đạo sư tâm linh
»như con chó phó thác mình cho miếng thịt«. Người đệ tử không nên vội
vã đặt để niềm tin tức thì vào ngay vị đạo sư, mà nên cần có thời
gian quán chiếu sâu sắc và khảo nghiệm phẩm tính của bậc thầy trước
khi thiết lập sự an định tinh thần với thầy qua việc thọ nhận sự
truyền giáo của thầy. Lợi lạc hơn để tiếp nhận lời dạy của thầy khi
nhìn thấy trước và trên tất cả là một người bạn tinh thần. Chúng ta
không nên vội vã vừa nghe lời dạy của thầy đồng thời vừa thăm dò.
Dần dần, nếu qua việc quán sát, ta tin tưởng đó là một vị đạo sư
đích thực, hoàn thiện phẩm chất, xứng đáng tin tưởng, thì chúng ta có
thể làm theo lời chỉ giáo và xem đó chính là bậc đạo sư của mình.
Chúng ta phải đừng nên vội vã.
Điểm thứ sáu mà tôi muốn
đi vào trọng tâm của giáo pháp, có liên quan đến lời kinh chúng ta
tụng hằng ngày: »Nguyện cho mọi chúng sinh có được hạnh phúc và nhận
ra nguyên nhân tạo ra hạnh phúc nầy«. Đây là những điều chúng ta nên áp
dụng trực tiếp bằng cách làm một việc gì có ích cho xã hội, dấn thân
vào các hoạt động từ thiện trong cộng đồng, bằng cách nỗ lực giúp
đỡ những người gặp khó khăn, chẳng hạn như giúp những người tổn
thương tinh thần hay người gặp những nạn khác. Đây không có nghĩa nhất
thiết phải dạy cho họ Phật pháp, nhưng tốt hơn là chính mình dùng giáo
pháp để cứu giúp mọi người. Tôi nghĩ những hành động trực tiếp giúp
người khác là những điều chúng ta cần nên phát huy. Đó cũng là kết
quả tự nhiên xuất phát từ lời kinh hằng ngày khác: »Nguyện cho mọi
chúng sinh đạt được hạnh phúc và thoát khỏi mọi khổ đau«.
Theo nguyên tắc này, nếu
chúng ta mang đến điều thiện, dù chỉ cho một người, nghĩa là chúng ta
đang hoàn thành lời nguyện ta vừa phát ra. Hơn thế nữa, toàn thể đại
chúng trong những trung tâm Phật học nên tham dự vào các hoạt động xã
hội bằng cách giúp đỡ cho những người khác và tôi nghĩ đây là điều
rất quan trọng đối với vấn đề hoạt động của các trung tâm Phật giáo
nầy.
Đối với người Phật tử, ăn
chay không phải là sự cưỡng chế. Tuy vậy, đối với chúng ta, những
người theo truyền thống Đại thừa, thì rất quan trọng. Nhưng lời dạy
của Đức Phật về vấn đề nầy rất rộng rãi và uyển chuyển, các tham
dự viên có quyền chọn lựa trở thành người ăn chay hay không. Nhiều
cuộc hội họp lớn thỉnh thoảng được tổ chức ở các trung tâm Phật
giáo, khi có các cuộc lễ hội hay các buổi thuyết pháp, tôi nghĩ nếu
có nhiều người cần được phục vụ ăn uống thì việc chỉ phục vụ cho họ
thức ăn chay trong suốt thời kỳ lễ hội là rất quan trọng.
Điều thứ bảy: Chúng ta
thường tụng lời kinh: »Nguyện cho Phật pháp được truyền bá sâu rộng«.
Nếu Tây Tạng giành lại được tự do, điều nầy chắc hẳn sẽ giúp cho sự
hoằng truyền Phật pháp được sâu rộng, gồm cả Tiểu thừa, Đại thừa
cũng như cả Mật thừa. Cho nên có một sự liên hệ mật thiết giữa nền
tự do của Tây Tạng với sự hoằng truyền Phật pháp trên thế giới. Nếu
sự kiện nầy không phải là vấn đề, nếu vấn đề cơ bản, tự do của Tây
Tạng đơn giản chỉ là tiêu điểm chính trị, thì với tư cách là một tăng
sĩ, một đệ tử Phật, tôi chẳng có lý do gì để có sự liên hệ như thế.
Nhưng hai phương diện đều có sự liên kết rất chặt chẽ.
Dù ngay khi tôi tán trợ
việc giải trừ quân bị ở Tây Tạng, tạo thành khu vực hòa bình, mặc dù
thuật ngữ »giải trừ quân bị« chẳng phải là thuật ngữ Phật học, tuy
nhiên dự án đó liên hệ rất mật thiết với Phật pháp. Rất nhiều người
trong số các bạn ở đây là đại biểu và thành viên của nhiều trung tâm
Phật giáo, đều là trong số những người đã tham dự vào phong trào tự
do cho Tây Tạng. Tôi xin cảm ơn quý vị và mong quý vị tiếp tục nỗ
lực, giữ trong lòng sự liên quan giữa Phật pháp và sự tự do của Tây
Tạng, để ban tặng sự thực hành ý nguyện giáo pháp được hoằng truyền
và phát triển sâu rộng.
Mục đích cuối cùng của tôi:
các bạn phải giữ cho tâm mình an lạc và biết cách mỉm cười.
CƠ ĐỐC GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
MƯỜI HÀNH VI ĐẠO ĐỨC TRONG ĐẠO PHẬT
Ý NGHĨA SÁM HỐI
Hỏi: Thưa Ngài, vừa rồi Ngài viếng thăm các nơi thánh tích Thiên
chúa giáo. Ngài có mong một ngày nào đó, Ngài đến
Jerusalem hay Mecca hay không?
Đạt-lại Lat-ma: Tôi rất thích thú chuyến đi hôm nay, với tư cách
cá nhân, đến chiêm bái thánh tích tại Lộ-đức (Lourdes), trái tim của cuộc hành hương mà
tôi đã từng được nghe. Tôi rất xúc động. Dĩ nhiên tôi đang chú tâm vào
việc phụng sự và tham gia vào việc trao đổi sự hòa nhập các tôn giáo
trong một thời gian đã lâu. Trong suốt hai năm tôi hoạch định một chuyến
hành hương chủ yếu đến những thành tích tiêu biểu của các tôn giáo
khác nhau. Khi chúng tôi đến chiêm bái, chúng tôi cảm nhận được sự an
lạc từ bầu không khí ở nơi đó, chúng tôi đã cùng nhau cầu nguyện,
hoặc là chúng tôi chỉ ngồi thiền và cùng tạo nên sự cảm thông tư
tưởng với nhau trong im lặng. Chúng tôi đã thực hiện việc nầy ở Ấn
Độ, và nay lại có được sự an lạc lần nữa tại nơi đây. Tôi tin những
quang cảnh nầy sẽ đánh thức trong ta cảm giác dung thông và hiểu biết
sâu sắc hơn, đằm thắm hơn sự cảm nhận đơn giản qua tri thức. Tôi rất
thích được khởi đầu một cuộc hành hương như thế này đến Jerusalem và
Mecca, nhưng tôi chưa biết khi nào có được mọi điều kiện để cho phép
tôi đến đó.
Hỏi: Có phải Ngài và các đại biểu tôn giáo khác đã cùng thảo
luận những tiết mục về sự cải đạo từ tôn giáo nầy sang một tôn giáo
khác, đặc biệt là các hình thái khác nhau giữa đạo Tin lành, Cơ-đốc
giáo hoặc ngay cả Phật giáo ở nước Pháp?
Đạt-lại Lat-ma: Trong cuộc gặp gỡ riêng, với tôi, một người
Cơ-đốc giáo trích dẫn một đoạn văn
khắc trên đá của vua A-dục, nói về lòng khoan dung đối
với tín đồ tôn giáo bạn có thể hoán chuyển niềm tin tôn giáo của
riêng họ. Thực vậy, sự hưng thịnh của một tôn giáo là do sự quan tâm
đến lòng kính trọng các tôn giáo khác.
Hỏi: Ngài nghĩ gì về sự gắn bó vừa chớm nở giữa người Cơ Đốc
giáo phương Tây và Trung Hoa?
Đạt-lại Lat-ma: Tín đồ Cơ-đốc giáo thường không có nhiều ở Trung Hoa, và họ
cũng bị đau khổ như những giới khác. Hơn thế nữa, sự thiếu thông tin
do thể chế chính trị đôi khi hạn chế tầm nhìn của họ về cục diện thế
giới. Do đó, tôi nghĩ rằng bất kỳ một cuộc đối thoại nào đó được
thiết lập giữa những người Cơ-đốc giáo ở ngoài nước Trung Hoa đều có thể giúp
cho tâm thức của họ tự nhận ra được thực tại của thế giới.
Hỏi: Ngài có cho rằng một người có thể vừa theo Cơ-đốc giáo, vừa
là Phật tử trong cùng một lúc không?
Đạt-lại Lat-ma: Tôi... (trước
đây đã có nói – xem phần trước) xin nhắc lại vấn đề nầy một cách
gián tiếp, khi tôi nói rằng tin vào một đấng sáng tạo, là nên hiểu
trong sự tương quan với nhận thức về tính không. Tôi tin là có thể phát
huy đời sống tâm linh trong tinh thần hợp nhất Cơ-đốc giáo và đạo Phật. Nhưng một khi đạt được một
tầm mức nhận thức nhất định, thì việc chọn lựa giữa hai con đường sẽ
trở nên rất cần thiết. Tôi vừa giảng một loạt đề tài về kham nhẫn
và khoan dung ở Hoa Kỳ. Cuối khóa giảng là buổi lễ phát nguyện thọ
Bồ-tát giới. Một vị linh mục dự khóa giảng đã xin thọ giới Bồ-tát
trong dịp nầy. Tôi hỏi vị linh mục đã suy nghĩ chín chắn chưa. Ông ta
đáp: Rồi. Dĩ nhiên là vị linh mục ấy được thọ giới Bồ-tát
nhưng vẫn là một tín đồ Cơ-đốc
giáo.
Hỏi: Lời của Chúa Giê-su: »Hãy yêu thương đồng loại...« là thông
điệp dành cho chúng tôi, những người Cơ-đốc giáo. Còn thông điệp của
Ngài cho nhân loại khi Ngài tiếp xúc với mọi người là gì?
Đạt-lại Lat-ma: Yêu thương đồng loại của mình, lòng từ bi.
Những điều nầy, tôi tin đó là những yếu tố phổ quát và tinh yếu đều
được các tôn giáo thuyết giảng. Mặc dù có nhiều sự giao thoa của các
quan điểm triết học, nhưng chúng ta có thể thiết lập sự hài hòa giữa
những truyền thống tâm linh trên nền tảng đặc điểm chung về lòng Từ bi
và lòng khoan dung độ lượng. Tôi luôn luôn chú tâm vào tinh thần nầy và
nguyện đặt hết tâm lực vào đó. Hầu hết những vấn đề rắc rối giữa
các tôn giáo là do những người đã thất bại trong việc tự chuyển hóa
mình để có được sự an lạc nội tâm, không những họ chỉ ứng dụng niềm
tin cho riêng họ mà còn áp đặt mọi hoàn cảnh cho mọi người khác.
Hành vi tệ hại nầy làm khơi dậy những xung đột nghiêm trọng, mặc dù
tôi đã lưu ý hãy quan tâm đến việc tái tạo sự hòa hợp giữa các tôn
giáo, đặc biệt là giữa Phật giáo Tây Tạng và Cơ-đốc giáo. Chúng ta
phải thực sự lập một chương trình hữu ích, được trao đổi giữa giới tu
sĩ của hai tôn giáo.
Hỏi: Mười hành vi đạo đức trong Phật giáo là gì?
Đạt-lại Lat-ma: Ba điều liên quan đến thân: không được giết hại,
không trộm cắp và không tà hạnh dâm dục.
Bốn điều liên quan đến lời
nói: không được nói dối, không nói xấu để hạ uy tín người khác, không
nói lời thô lỗ, cộc cằn, gây nên chống trái; không nói những chuyện
phù phiếm, những chuyện liên quan đến mọi thứ được diễn đạt trong sự
ảnh hưởng của cảm xúc ái luyến.
Ba điểm cuối cùng là thuộc
về tâm ý: không phát triển lòng tham, không để cho sự mong muốn thôi
thúc hãm hại kẻ khác phát khởi và cuối cùng không được duy trì quan
điểm sai trái trong tâm, chẳng hạn như những quan niệm cực đoan, như chủ
nghĩa hư vô, đoạn diệt; hoàn toàn chối bỏ sự hoàn thiện tâm linh.
»Tà kiến« mà tôi nói đến
thường bao gồm cả những chủ trương cực đoan, thường kiến và chủ trương
đoạn diệt (đoạn kiến). Nhưng trong phạm trù 10 hành vi đạo đức Phật
giáo, chỉ có quan điểm hư vô đoạn diệt là được đề cập đến. Vậy nên
trên nền tảng đời sống giới luật đạo đức, người ta tránh xa việc vi
phạm các hành động xấu ác, tức là 10 hành vi đạo đức. Khi đối diện
với thực trạng có thể vi phạm những việc xấu ác nầy, các bạn mới
có ý thức kiêng cử để khỏi phạm vào. Một đời sống lập cước trên
nguyên tắc đạo đức đã tự có trong đó ý hướng khước từ 10 hành vi
bất thiện với khuynh hướng hành động trái ngược với điều bất thiện
ấy.
Hỏi: Nếu chúng ta phạm phải hành vi bất thiện nghiêm trọng, chúng
ta phải theo pháp sám hối như thế nào?
Đạt-lại Lat-ma: Trong trường
hợp như thế, thường có nguy cơ về mặc cảm tội lỗi và do vậy thường
gây nên sự chán nản. Quan điểm Phật giáo khuyên nên áp dụng một suy
nghĩ và hành vi nào đó để khơi dậy lại năng lực tự tin nơi mình. Một
người Phật tử sẽ quán chiếu vào bản tâm Phật, vào thể tính vốn
thanh tịnh của mình, và trong đó, vọng tưởng và các thứ tùy phiền
não đều mang một tính chất khác biệt. Vì những vọng tưởng phiền não
nầy đều là khách không mời mà đến, nên nó sẽ bị tiêu trừ. Quán
chiếu về năng lực tiềm ẩn sâu kín mênh mông bên trong tự tâm mình, mới
nhận ra được tự tính của tâm tuyệt đối thanh tịnh và từ bi. Trầm tư
vào cõi giới chiếu diệu của tâm, sẽ khiến ta phát triển tính tự tin
và lòng dũng cảm.
Đức Phật dạy rằng sự giác
ngộ hoàn toàn và con người toàn năng, mà chúng ta xem là Đấng siêu
việt, không phải từ trong lòng đất sinh ra, cũng chẳng từ trên trời rơi
xuống, mà là kết quả của sự thanh tịnh hóa tâm linh. Những vị ấy
cũng đã từng có một lần đau khổ phiền muộn như chúng ta bây giờ, các
vị cũng có những yếu đuối và cũng có những bất toàn của con người
phàm phu. Chính Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trước khi giác ngộ, đã trải qua
vô số lần thọ sinh trong những kiếp sống khổ nhọc hơn chúng ta hiện
nay rất nhiều. Nhận ra được điều nầy, với tất cả sự trân trọng, bản
tâm thanh tịnh viên mãn của mình chính là chất thuốc giải độc cho những
mặc cảm tội lỗi, cho sự hờn giận và sự thất vọng. Trong »Bảo hành
vương chính luận«, Bồ-tát Long Thọ nói rằng bi quan thất vọng không
bao giờ giúp ta tìm được giải pháp tốt để hóa giải mọi vấn đề.
Ngược lại, sự kiêu mạn chính là một thói xấu. Nhưng để phô bày nó như
một chất hóa giải cho phong cách khiêm tốn thì sẽ có khuynh hướng đẩy
đến tình trạng thiếu tự tin, mở cánh cửa cho sự chán nản và nhụt chí
di vào, chỉ làm chúng ta đi từ cực đoan nầy đến cực đoan khác.
Tôi muốn nói rõ một điều,
những ai muốn có một kỳ nhập thất ba năm với hy vọng và mong mỏi
rằng mình sẽ được chứng ngộ mà chẳng gặp chút khó nhọc gì cả, thì
điều nầy có thể biến thành tai họa, trừ phi các bạn tự xem đó là
một dự định nghiêm túc nhất. Nếu các bạn tự đánh giá quá cao sự
mong mỏi của mình và quá tự tin, thì các bạn sẽ phải đối đầu với
nỗi buồn do bất như ý và ảo tưởng bị phá vỡ. Khi các bạn quán
chiếu sâu vào những lời Đức Phật dạy – tính giác toàn mãn là kết
quả của sự thanh tịnh hóa tâm linh và do tích lũy thiện nghiệp cũng
như trí tuệ từ vô số kiếp – chắc chắn tính dũng mãnh và kiên định sẽ
đồng hành với các bạn trên con đường tu đạo.
NHỮNG VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC VỀ TÂM THỨC
Hỏi: Được biết trong tôn giáo của Ngài có một cảnh giới thanh tịnh
sáng suốt và có những tường thuật của những người đã chứng nghiệm
được cảnh giới thanh tịnh vi diệu của tâm. Câu hỏi của tôi gồm có hai
phần:
Thứ nhất, Ngài có nghĩ
rằng cảnh giới không thể nhận thức của tâm, có thể nào trên lý
thuyết, cảnh giới ấy được quán sát bởi các thiết bị bên ngoài chăng?
Chẳng hạn, nếu chúng ta đưa một thiền giả đã đạt đến cảnh giới thanh
tịnh sáng suốt của tâm vào trong một thiết bị máy móc hiện đại, do
sức xung động của lực hấp dẫn, dùng kỹ thuật tân tiến ghi lại sự
rung động của não (brain imaging), liệu chúng ta có thể thấy
được dấu hiệu nào đó về cảnh giới tâm vi diệu nầy không? Có lẽ
chúng tôi chưa biết làm sao để tiến hành thử nghiệm nầy, nhưng, trên
lý thuyết, Ngài có cho rằng cuộc thử nghiệm nầy có thể đạt kết quả
không? Nếu được vậy, theo Ngài, mối liên hệ giữa hai khía cạnh, thô
trọng và vi tế là gì trong phạm trù tương duyên (interdependence)?
Chúng tôi không muốn bị thuyết phục bởi một thuyết nhị nguyên mới về
ý niệm thô trọng và vi tế. Bản chất của sự tương quan nhân quả giữa
hai ý niệm nầy (thô trọng và vi tế) là gì?
Đạt-lại Lat-ma: Tôi cho rằng có lẽ khó mà đo được hoạt động
đặc biệt của tâm trong sự quán chiếu về tâm như một khách thể và
nhận biết về chúng. Nhưng khi những kinh nghiệm của tâm thức thô trọng
trình hiện trong xung động của não bộ thì do đó, có thể quan sát như
nó đang là. Đối với tôi, dường như điều ấy cũng cần phải có khả năng
nghiên cứu sự biểu hiện vật lý của cảnh giới tâm vi tế. Cảnh giới vi
diệu của tâm có liên quan đến thuật ngữ »điểm linh quang«, xuất hiện
trong những sinh thể khác ngay tại thời điểm chết. Những người đã
thực tập trạng thái nầy từ trước có thể duy trì trạng thái nầy vài
ngày sau khi chết, và trong suốt thời gian duy trì trạng thái vi diệu
ấy, thân thể họ không bị tan rã. Thiết bị khoa học hiện đại có thể
được dùng để quan sát hiện tượng nầy, và thực tế, việc nầy đã xảy
ra ở Ấn Độ. Mặc dù theo tôi, dường như khó có thể quan sát bản tâm vi
diệu khi dùng toàn thể phương pháp hiện đại nầy. Tôi nghĩ là tất cả
những sự kiện tương tự có lẽ sẽ cho chúng ta một ý kiến.
Để trả lời câu hỏi thứ
hai, liên quan giữa tâm thức thô trọng và tâm vi diệu, các bạn phải
biết rằng tầng mức vi tế của tâm sẽ tùy thuộc vào một phần trong
bình diện vi tế của thân và tùy thuộc vào quy luật riêng biệt của nhân
duyên, là sáu giác quan. Nhưng các căn đều được chia sẻ bởi toàn bộ
các nhận thức – quán sát vật thể và nhận biết về chúng lại đến từ
tâm vi tế. Theo cách nầy, có thể hiểu ra được mối liên hệ cơ bản tồn
tại giữa tâm vi tế và tâm thô trọng.
Giác quan và ý thức hiện
khởi tùy thuộc vào các quy luật của nhân duyên, đặc biệt, cho mỗi một
trong sáu căn: nhãn căn dẫn đến nhãn thức, ý căn dẫn đến ý thức... Vì
tính chất thô trọng của phần nương tựa của thức tâm lớn hơn, nên các
giác quan nhận thức có liên quan đến phần thô trọng được so sánh với
ý thức. Cũng vậy, tất cả đều có năng lực quán chiếu khách thể và
nhận biết về nó, một năng khiếu lưu xuất từ cơ sở ẩn tàng sâu kín,
đó là tâm vi diệu, là điểm linh quang. Kinh văn Phật giáo Mật thừa
luận giải nhiều về tính cách mà tâm trọng trược liên kết với vi diệu
tâm. Trong đó giải thích rằng có 80 trạng thái tâm thức tương ứng với
bốn giai đoạn hội nhập của tâm trọng trược vào tâm vi diệu, chẳng hạn
trong tiến trình chết. Sự liên kết giữa các tầng mức của tâm đã được
minh họa rõ qua kinh văn, nhưng đó là một chủ đề rất phức tạp khó có
thể thâm nhập đến trọng tâm được.
NHỮNG VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC VỀ THỰC TẠI
VÀ TÍNH TƯƠNG DUYÊN
Hỏi: Vài năm trở lại đây, tập thể các nhà vật lý đã bày tỏ sự
tăng cường quan tâm đến những vấn đề liên quan đến nhận thức về thực
tại, lĩnh vực dường như ngoài tầm tay của các nhà khoa học, cho dù
đã có sự chính xác và sức mạnh lớn lao về dự báo cho một lý
thuyết mới, như vật lý lượng tử (quantum physics).
Thông thường, một nhà vật
lý không chỉ tìm kiếm sự tường trình về việc xuất hiện và tương tục
nhân quả của một sự kiện, mà còn hoàn thiện một cách tri thức để
hiểu được cái gọi là »tự tính«. Sự sáng tạo của chúng ta dường như
tùy thuộc khá lớn vào điểm nầy. Để hoàn thiện sự hiểu biết nầy,
chúng ta tạo nên những biểu tượng thông qua những thuật ngữ: nguyên tử,
hạt, lực, năng lượng, không, thời...
Phật giáo bao gồm rất
nhiều kinh văn liên quan đến bản chất của hiện tượng giới, đề cập về
thực tại của các hạt nguyên tử, thể tính của không gian và thời gian.
Xin Ngài giảng giải cho chúng tôi biết tại sao giáo lý đạo Phật rất
chú trọng vấn đề nầy? Ngài có cảm thấy điều đó quan trọng đối với
các nhà khoa học trong quá trình khảo sát sự tương quan về những giải
thích được tìm thấy trong triết lý Trung đạo, bác bỏ sự tồn tại trên
cơ sở tự tính của hiện tượng không?
Đạt-lại Lat-ma: Đây là lý do tại sao các môn đệ của trường
phái nầy thường phát biểu những lời phủ định, họ bác bỏ những kết
luận xác định và chỉ thừa nhận những gợi ý phủ định. Môn đệ của
trường phái Kinh lượng bộ chủ trương rằng một hiện
tượng nào đó, chẳng hạn như sự phủ định, chỉ là sự quy ước, mô tả
về nhận thức không mạch lạc. Đây là trường hợp, ví dụ như không gian,
gồm hiện tượng kép tách biệt hẳn với sắc và tâm hay tách bạch hẳn
với cá nhân con người. Để nói rằng, ý nghĩa quy định ở đây với thuật
ngữ »mệnh danh« hoặc »quy ước« có khác biệt chút ít so với trường
phái Trung quán. Theo trường phái nầy, các hiện tượng chỉ tồn tại
chỉ bằng sự »mệnh danh« và »quy ước« mà thôi.
Theo trường phái Duy thức bất luận trong vấn đề
nào, khi ta nói về sự duy danh căn bản trên sự mô tả hay mệnh danh về
»sắc« áp dụng cho một vật thể, hoặc rốt ráo về ý niệm cơ bản của
nhận thức biểu tượng về sắc như là hình thể – sắc chất đã được biết
là không tự tồn tại độc lập, theo tính cách riêng biệt nội tại. Tuy
nhiên, nếu ta xem xét lại trong truyền thống Y tự khởi Trung quán tông trước đây, như ý niệm cơ
bản về nhận thức biểu tượng để hiểu được nó, được tồn tại bởi đặc
tính riêng của chính nó.
Đến mức nầy, các trường
phái Phật giáo đều chủ trương rằng các hiện tượng đều có một hiện
hữu tuyệt đối. Tuy nhiên, các môn đệ của Trung quán tông lại bác bỏ
sự hiện hữu tuyệt đối của các hiện tượng. Trong số môn đệ nầy,
thuộc hệ phái đầu tiên Y tự khởi Trung quán tông (svatantrika),
cho rằng các hiện tượng hiện hữu một cách quy ước, theo cách riêng
của nó. Một hệ phái khác, Ứng thành Trung quán tông (prasangika), chủ trương rằng ngay cả
các hiện tượng quy ước cũng không hiện hữu thông qua đặc tính riêng của
nó. Các trường phái đều chấp nhận vô ngã (non-self), nhưng phương
cách mà các hệ phái nhận thức ngày càng phát triển vi tế hơn.
Một vấn đề được đặt ra.
Nếu với »thực tại« (reality) mà ta nói đến, một khi ta đã tìm
cách định danh một vật thể, nó đã được an lập và tự thân nó đã
hoàn chỉnh, thế thì triết học Phật giáo từ chối sự hiện hữu như
thực tại chẳng hạn. »Thực tại« không hiện hữu, vậy mà nếu chúng ta
định nghĩa »thực tại« như là một cảnh giới, nơi mà, mặc dù chúng ta
không thể nhận ra ý niệm khách thể như khi ta tìm kiếm nó, tuy nhiên
chúng ta chấp nhận sự hiện hữu của »thực tại« ấy như một danh hiệu.
Trung quán luận của triết học Trung quán đặt một dấu ấn vĩ đại trên
sự hóa giải hai cực đoan nầy.
Những gì mà khoa học gọi
là không thể nhận thức được đều
có liên quan ít nhiều đến lĩnh vực có từng phần không định hình
được và hạn cuộc trong khái niệm. Vì chính giáo pháp cũng chưa đủ yếu tố
để khẳng định sự hiểu biết về ngã là sai lầm, và cái ngã tự động sẽ biến mất một khi
chúng ta hiểu được đối tượng của nhận thức sai lầm ấy không còn hiện
hữu nữa. Chúng ta phải giải trừ nhận thức sai lầm về bản ngã của
ta, đó là, sự hiểu biết về ngã,
và hoàn toàn vô ích khi nhận thức về ngã như là một định danh đơn thuần. Tại sao vấn đề lại dẫn
đến rắc rối như thế?
Như tôi đã giải thích vắn
tắt trong đoạn trước, từ nhận thức sai lầm nầy, một cái nhìn cường
điệu về bản ngã sẽ sinh khởi, cái bản ngã đã tách xa với »thực
tại«. Từ điểm đó, ta có thể phân chia thế giới thành hai: một bên là
mọi việc phải làm với bản ngã, và bên kia là những thứ khác. Chúng
ta cảm thấy nghiêng về phía thứ nhất và đối nghịch với phía thứ hai.
Rõ ràng là phải làm suy yếu sự vướng mắc và đối nghịch ấy đi trong
cố gắng hóa giải nhận thức sai lầm về bản ngã.
Trường phái Trung quán đưa ra
một nguyên lý để giải trừ hai cực đoan thường kiến và đoạn kiến (hư
vô chủ nghĩa). Nếu chúng ta không giải trừ được cực đoan thường kiến,
thì có nghĩa là ta không thể giải trừ được nhận thức sai lầm về bản
ngã. Ở cực đoan khác, đoạn kiến hoàn toàn từ chối sự hiện hữu của ngã. Nếu chúng ta không giải trừ cực
đoan ấy bằng cách chắc chắn đạt được sự nhìn nhận về các phương diện
thiện và ác của một hành vi và người tạo tác trên bình diện quy ước,
thì cũng vậy, chúng ta sẽ từ khước luật nhân quả, và đó là điều ta
không thể đồng hóa được. Bằng cách bác bỏ cực đoan đoạn diệt, ta mới
hiểu được bất kỳ tác nhân nào, nhất thiết đều phải nhận chịu kết
quả từ chính hành vi của nó. Bằng cách bác bỏ cực đoan thường kiến,
chúng ta tránh được hiểu biết cường điệu về bản ngã. Đây là luận
giải từ Trung quán luận của Trung quán tông. Tóm lại, chúng ta phải
nỗ lực giải trừ nhận thức sai lầm của bản ngã và tăng cường củng
cố quan niệm đúng đắn về ngã, không cần phải tự buộc mình vào giới
hạn nghiêm khắc trong thứ hiểu biết có tính chất tri thức về những ý
niệm nầy. Một khi chúng ta đã hiểu được điều nầy, chúng ta phải tiếp
tục quán chiếu và thiền định trên đề tài nầy để có thể làm hiện
khởi sự chuyển hóa thực sự ở nội tâm. Những ý niệm nầy sẽ rất lợi
lạc cho chúng ta, như bản tâm thanh tịnh sẽ dần dần trở nên quen thuộc
trong ý niệm đó.
Hỏi: Như Ngài vừa nói, cách đây vài phút, cảm xúc có thể là
nguồn gốc của khổ đau. Ngài có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về
bệnh tật, đặc biệt theo tinh thần Phật học không? Phải chăng bệnh tật
là dấu hiệu của sự bất thường trong con người? Đó là hành vi sinh
học hay tâm lý? Hay là một trục trặc về thân dẫn đến trục trặc tâm
lý? Phải chăng thông thường đến một thời điểm nào đó trong đời, người
ta sẽ trở nên bệnh hoạn? Và cách can thiệp của y khoa vào những
trường hợp nầy phải nên như thế nào? Có nên tìm cách lập lại sự bất
bình thường đó bằng mọi phương tiện có thể được để giúp cho con người
được sống không?
Đạt-lại Lat-ma: Với cái nhìn về các trạng thái của tâm như là
»cảm xúc«, chúng ta nên phân biệt hai trạng thái tích cực và tiêu cực.
Chẳng hạn, chúng ta gọi những tình cảm như lòng từ bi, tình yêu thương
là những cảm xúc tích cực. Nhưng điều nầy lại tương tự như khi nói về
bản tâm của chư Phật, vì bản tính bình đẳng lưu xuất từ tâm của các
ngài. Không nên nhầm lẫn điều nầy với sự xác lập mà chư Phật luôn
luôn quán chiếu trên tính không (emptiness). Một khi thể nhập vào
Phật tính, thì sẽ không còn bất kỳ một biểu tượng hay bất kỳ vọng
thức tản mạn nào nữa cả. Điều còn lại chỉ là điều trực nhận về
tính không. Nhưng khi các Ngài dùng trí tuệ quán chiếu về tính không
thì tất cả phẩm chất như tình thương và lòng từ bi đều được biểu hiện
từ tâm của chư Phật.
Còn về trạng thái tiêu cực
của tâm, chúng ta sẽ đề cập đến ba món độc chính yếu (kleśa)– những cảm
xúc gây nên tình trạng phiền nhiễu – nói đơn giản là những độc tố của
tâm), gồm tham, sân và si. Đứng trên phương diện tu tập của đạo Phật,
những yếu tố phiền não, hay độc tố tinh thần nầy chân thực là bệnh
hoạn tinh thần. Nhưng chúng ta không thể chữa trị tình trạng ốm yếu
nội tâm nầy cho đến khi ta có được tự do. Trước khi đạt được tự do, ta
vẫn có thể nói về bệnh hoạn ít nhất là trên bình diện vi tế.
Thông thường, xã hội chúng
ta xem một người hoàn toàn khỏe mạnh khi tâm của họ không bị phiền
muộn hay quấy nhiễu bởi ba dạng phiền não của tâm, ngay cả khi những
yếu tố tiêu cực nầy còn lưu giữ trong tâm thức người ấy. Tuy vậy,
phiền não vẫn xảy ra, dưới ảnh hưởng ba độc tố của tâm, tâm bị quấy
động dữ dội, rồi rơi vào mê muội. Đến đây ta có thể gọi tình trạng
đó là khủng hoảng tinh thần. Chúng ta phân biệt hai tầng mức khủng
hoảng tâm linh: thô và tế, cả hai đều có thể liên quan đến thân bệnh.
Bởi lý do nầy, y khoa Tây Tạng nhìn một bệnh nhân qua một thực thể
toàn diện. Đánh giá tình hình không chỉ vào thân mà cả về tâm của họ.
Đây là lý do có người đã chữa trị khủng hoảng tâm linh bằng cách
phối hợp phương pháp tâm lý trị liệu của phương Tây với phương pháp
của đạo Phật. Tôi cho rằng đây là một liệu pháp tuyệt hảo.
Bây giờ, ta nên có phản ứng
gì với bệnh tật? Hoàn toàn dĩ nhiên khi mọi chúng sinh đều ước nguyện
được hạnh phúc và họ có đủ mọi cách chính đáng để tìm kiếm sự hạnh
phúc ấy. Cùng một lúc, họ ước ao không bao giờ bị phiền nhiễu bởi
bệnh tật hay bất cứ dạng đau khổ nào. Chúng ta phải cố gắng ngăn
ngừa bệnh tật và trong hoàn cảnh nầy, tránh sự can thiệp của y khoa
là khôn ngoan nhất. Chúng ta phải cố gắng ngăn ngừa bệnh tật bằng mọi
cách. Nếu mặc dù ta đã cố gắng hết sức, nhưng một nhân duyên nào đó
dẫn ta đến đau khổ và bệnh tật, thì ta phải cố gắng quán chiếu rõ
ràng và không nên rước thêm nỗi lo âu vào nỗi đau của mình.
Hỏi: Chúng tôi có được cơ hội độc đáo để khảo sát cùng đức
Đạt-lại Lạt-ma những vấn đề liên quan đến trọng tâm của kỹ thuật
thực hành từ quan điểm về tương duyên (interdependence). Trước khi
vào cuộc thảo luận, xin Ngài giải thích sơ lược về tính tương duyên
trong triết học Phật giáo và điều gì Ngài hy vọng sẽ đạt được thông
qua cuộc hội thảo khoa học nầy?
Đạt-lại Lat-ma: Tôi đã học được rất nhiều điều khi tiếp xúc
với các nhà khoa học thuộc mọi ngành và được lợi lạc rất nhiều từ
cuộc gặp gỡ nầy. Chắc hẳn các luận giải Phật giáo cũng đã chứng
minh sự hữu ích nầy cho các nhà khoa học, một khi các vấn đề đó kích
thích họ quán sát các điểm đặc sắc từ các viễn cảnh khác. Hầu hết
quý vị, tôi tin rằng đều đã quá quen thuộc với lối tiếp cận Phật
học cơ bản, đặc biệt là với Phật giáo Đại thừa, truyền thống mà
khởi đầu ta nên có hoài nghi để rồi thăm dò, khảo sát các vấn đề,
và cuối cùng chấp nhận tư tưởng đó một khi đã tin tưởng sự xác thực
của tư tưởng ấy. Ngay cả chúng ta còn có được quyền, dĩ nhiên, vì
chúng ta là Phật tử, với lòng kính trọng cao nhất, để từ chối lời
dạy của đức Phật, nếu sự khám phá của mình tìm thấy có điều mâu
thuẫn. Như các bạn thấy, chúng ta, đều ở trong một tình thế tự do để
có ý thức phê phán, ngay với cả triết lý của riêng mình.
Với quan điểm đó, tôi thấy
chẳng có gì chướng ngại khi tham gia thảo luận với các nhà khoa học
hoặc ngay cả với các nhà duy vật cực đoan (radical materialists).
Mặt khác, đây là một sự kiện rất tuyệt. Thêm nữa, đó là, theo kinh
nghiệm của tôi, có một vài ý tưởng cần nên được thừa nhận. Kết quả
là tiến trình lý luận của ta vẫn còn chưa đủ. Những vấn đề phê phán
khiến chúng ta suy nghĩ về chủ đề liên quan, do vậy nên rất hữu ích.
Đối với những ai trưởng thành trong văn hóa Phật giáo, đã có một số
ý niệm rõ ràng về vấn đề nầy. Bởi vì đôi khi chúng ta quên bẵng việc
theo đuổi một mạch các lý luận phức tạp để dẫn đến kết luận. Đây
là lý do tại sao các vấn đề nảy sinh bởi các thành viên thuộc các
truyền thống triết học đa dạng, họ đã giúp chúng tôi mường tượng ra
những vấn đề nầy theo một phương cách mới.
Để bắt đầu, tôi sẽ trình
bày vắn tắt quan điểm Phật giáo về tính »tương duyên«. Chúng ta có thể
hiểu nguyên lý nầy, cũng còn được gọi là »sự sinh khởi tùy thuộc«,
ở tầm mức khác, bắt đầu với tương quan nhân quả. Tất cả bốn trường
phái triết học Phật giáo đều chấp nhận luật nhân
quả. Có một phương cách khác để hiểu nguyên lý nầy, đó là nhìn vào
mối liên quan với sự kiện mà toàn thể đều tùy thuộc vào từng phần
của chính nó. Thực vậy, bất kỳ một hiện hữu nào đều được xem như là
một toàn thể, đó là, hợp thể của nhiều bộ phận. Do vì nó cấu thành
bởi nhiều bộ phận, nên nó tùy thuộc vào các bộ phận ấy. Sự hiện
hữu của nó tùy thuộc vào từng bộ phận và nó không thể hiện hữu
trong tình trạng độc lập tự chủ được.
Để có một giảng giải rõ
hơn về nguyên lý tương duyên, chúng ta phải đặt nguyên lý ấy trong phạm
trù kinh luận Phật học về thực tại. Trước tiên, tất cả mọi hiện
tượng hiện hữu, hoặc là thường hoặc là vô thường, không thể có
trường hợp thứ ba. Trong hiện tượng vô thường, chúng ta thấy có hiện
tượng vật chất, cũng được gọi là »sắc- form«, và mặt khác,
phần hiện hữu phi vật chất, được gọi là hiện tượng về tâm (tâm pháp)
là hiện tượng trừu tượng, được gọi là »hiện tượng song trùng hợp
thể của sắc và tâm«. Tính tương duyên của hiện tượng vật chất được
xác định trong sự liên quan với không gian, hiện tượng như vậy tùy
thuộc vào nhiều chiều. Tính tương duyên của hiện tượng phi vật chất
được mường tượng trong sự tương quan với thời gian hoặc ngay cả tùy
thuộc vào chiều không gian. Tâm, chẳng hạn, là sự tương tục của nhiều
khoảnh khắc, chúng ta gọi đó là sự tương tục của niệm tưởng. Chúng ta
nói về hiện tượng song trùng bị tách rời giữa sắc và tâm, thì nó
vẫn tùy thuộc vào các chiều. Như chính không gian vốn không có cặp đối
lập, mà ta còn nói không gian phía Nam, không gian phía Đông...
Tôi vừa trình bày nguyên lý
tương duyên một cách tổng quát theo tư tưởng Trung quán thuộc trường phái Trung đạo, gồm hai
hệ phái, trong đó hệ phái Ứng
thành (consequentialists) thì cao cấp hơn. Trường phái nầy bổ sung giải thích vi tế hơn về sự
hiện hữu được hiểu là »sự sinh khởi tùy thuộc« – về cái »không thể
nhận thức được«, »không thể phát hiện ra được« của bất kỳ vật thể
nào tồn tại trên danh tướng. Nói cách khác, khi thông qua phương pháp
phân tích để tìm kiếm thế giới hiện tượng đằng sau sự trình hiện của
nó, thì đó là không thể nào tìm thấy được. Tuy nhiên, nếu nói rằng
những cái-đang-là đều không thể tìm thấy được sau khi được tìm tòi
thông qua tiến trình phân tích, thì liệu rằng chúng ta có nên kết luận
không tồn tại được không? Để từ bỏ quan điểm hư vô (đoạn diệt) nầy,
chúng ta sẽ trả lời với phạm trù »không«. Hiện tượng giới tồn tại
không phải bằng một cách độc lập, tự có riêng biệt, ngược lại, đúng
hơn là nó hiện hữu trong sự quan hệ tùy thuộc với những hiện tượng
khác, chẳng hạn như tên gọi mà nó được định danh. Đây là cách sâu sắc
nhất để hiểu được nguyên lý tương duyên. Vậy nên hiện tượng giới hiện
hữu là nhờ vào tên gọi. Nếu không thì chẳng có hiện tượng nào hiện
hữu cả. Tuy vậy, mọi vật đều có thể định danh bởi tâm thức mà không
cần thiết phải hiện hữu mới có.
Điều khó khăn nhất là sự
xác định, trong số những hiện tượng sinh khởi quy về do tâm, thì hiện
tượng nào hiện hữu và hiện tượng nào không hiện hữu. Ngay cả khi
chúng ta từ chối tình trạng hiện hữu độc lập và tự riêng nó của các
hiện tượng, chúng ta phải đừng để rơi vào cái bẫy của chủ nghĩa
cường điệu về tính tương quan khi xem mọi thứ được tâm biết đến đều như
có thực. Vấn đề bây giờ là xác định tiêu chuẩn nào sẽ giúp ta nhận
ra hiện tượng nào trong số các hiện tượng được định danh bởi tâm mà
thực sự được hiện hữu. Kinh, luận của Trung quán Ứng thành tông mô tả
có ba tiêu chuẩn: trước hết, một hiện tượng được nhận biết bởi tâm
được gọi là hiện hữu nếu nó được nhận biết một cách trực tiếp,
không qua suy luận lòng vòng. Thứ hai, được gọi là hiện hữu nếu nhận
thức trực tiếp nầy không mâu thuẫn với cái biết bằng tri giác đã
được quan sát trên bình diện quy ước. Thứ ba, được gọi là hiện hữu
nếu nó không phủ nhận sự tồn tại bằng sự phân tích của tâm thức khảo
sát đến trạng thái cực điểm sự tồn tại của các hiện tượng. Theo ba
tiêu chuẩn nầy, chúng ta có thể xác định một hiện tượng có tồn tại
trên bình diện quy ước hay không. Những tiêu chuẩn này chỉ liên quan đến
tâm nhận thức khách thể trong câu hỏi, và điều nầy nhắc nhở chúng ta
lại một lần nữa rằng, không có hiện tượng nào có thể hiện hữu độc
lập, ngoài tâm nhận thức về hiện tượng ấy.
Điều nầy khiến chúng ta ấn
định giới hạn ý niệm về tri giác. Vì tất cả các trường phái, ngoại
trừ trường phái Trung quán Ứng thành, thì cho rằng tri giác nhận thức
đối tượng của nó mà không có một chút sai lầm hoặc thiếu chính xác
nào cả. Những trường phái nầy không dung chứa các ý niệm thiếu chính
xác và bất toàn của tri giác, trong khi Trung quán Ứng thành tông xác
định rằng, dù tri giác không sai lầm trong sự công nhận về sự nhận
thức đối tượng, tuy nhiên một ý niệm bất toàn về vật thể có thể
hiện hữu. Chúng ta hãy lấy thí dụ trường hợp tri giác tản mạn về sự
bất thường của âm thanh, kinh nghiệm nầy chỉ xảy ra trong mối liên quan
với sự nhận biết về đối tượng – tức sự bất thường của hiện tượng
âm thanh – tuy nhiên, lại không chính xác với đệ tử của trường phái Ứng
thành, vì họ chủ trương các đối tượng đã được phú cho, hơn thế nữa,
một hiện hữu tuyệt đối, không tùy thuộc tất cả các trường phái khác
chấp nhận thực tại quy ước tồn tại trên cơ sở tự tính. Thế nên đối với họ, sự
nhận biết mà hiện tượng tồn tại theo cách này là không đúng, chỉ vì
tri giác lại xuất phát từ mọi khía cạnh sai lầm và không chính xác.
Theo trường phái Ứng thành
Trung quán, nhận thức hoàn chỉnh chính xác độc nhất là siêu việt mọi
hình thức và sai lầm, đó là kinh nghiệm trực tiếp và niềm tin vào
tính không – đó là, nhận thức tính biểu tượng từ bản thể tuyệt đối
của hiện tượng giới.
Đó là sự trình bày vắn tắt
về nguyên lý tương duyên.
CUỘC PHỎNG VẤN ĐỨC ĐẠT-LẠI LẠT-MA THỨ 14 TENZIN GYATSO
L.N.Đ: Cuộc phỏng vấn
nầy được thực hiện bởi Dawn Engle và Ivan Suvanjieff tại Dharamsala, trụ
xứ của đức Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 Tenzin Gyatso tại Ấn Độ vào ngày 22
tháng 5 năm 1995.
Hỏi: Có bao giờ Ngài nôn nóng không? Có khi nào Ngài nản lòng muốn
từ bỏ mục đích lý tưởng của mình không?
Đạt-lại Lạt-ma: Có lẽ ở mức độ xúc cảm, điều ấy đôi
khi có thể xảy ra. Nhưng, tôi tin rằng, là một con người, cảm xúc của
chúng ta phải song hành với trí khôn của con người.
Nếu các bạn không có cảm
xúc, thì con người sẽ trở nên khô khan, lạnh lùng. Thế nên cảm xúc
phải là một bộ phận trong cuộc sống con người.
Cảm xúc là một loại cảm
giác tự nhiên và mù quáng thế nên nó có thể vừa hữu ích vừa nguy
hại. Thế nên ở đây, trí tuệ và khôn ngoan của con người có trách nhiệm
ngăn ngừa những cảm xúc tiêu cực không có nguyên do cơ bản. Thực vậy,
một vài cảm xúc như lòng từ bi thường phát sinh từ một nguyên do căn
bản, và nó có thể song hành rất tốt với trí tuệ và sự khôn ngoan
của con người.
Đây là pháp thực hành và
niềm tin căn bản của tôi. Khi cảm giác chán nản, thất vọng phát sinh,
thì trí tuệ sẽ đến để giúp chuyển hóa. Đôi khi vì không rõ nguyên do,
các bạn liền có cảm giác tuyệt vọng đến ngay. Nhưng vì chúng ta là
người, chúng ta có phương pháp và phương tiện để đối phó với chúng.
Đó là quà tặng mà con người được ban cho. Vì loài vật thì không có
cảm xúc, nên khi gặp hoàn cảnh tuyệt vọng, thì loài vật không có cách
nào để thoát khỏi.
Đối với tôi, khi cảm xúc
sắp sửa đến, trí tuệ sẽ giúp tôi hóa giải, thế nên đó không phải là
vấn đề lớn.
Hỏi: Một thanh niên ở Chicago hỏi, phải làm gì với tình trạng
bạo động hiện nay. Anh ta nói rằng hằng ngày anh ta bị vây hãm bởi
trộm cướp và súng đạn, trên đường phố cũng như trong trường học. Anh
ta muốn đi theo đường lối bất bạo động, nhưng anh ta không biết nên thực
hành điều nầy ra sao trong khi vẫn sinh hoạt bình thường.
Đạt-lại Lạt-ma: Với tình trạng như thế, câu hỏi phát sinh
từ trường hợp đặc thù nầy, nên rất khó trả lời. Từ những hoàn cảnh
nầy, với một trường hợp ngoại lệ như thế, bạn có thể cần có một
hành động tương tự để phản đối sự bạo động nầy. Thật là đáng tiếc!
Tôi không muốn nói hành động tương tự là đúng. Tôi không thể nói điều
ấy. Nhưng câu trả lời thực tế là, chúng ta phải có một nỗ lực để
chuyển đổi mọi tình huống. Điều nầy luôn luôn là một vấn đề thực tế.
Suốt vài thập kỷ qua, tôi
nghĩ là chúng ta đã thờ ơ với nhiều điều. Thế nên bây giờ, ngày hôm
nay, một bối cảnh mới đã phát triển trong xã hội. Đường lối của nhân
loại là tạo một nỗ lực để chuyển hóa toàn bộ không khí thù hận và
bạo động. Nếu chúng ta có một hành động tương tự hay hành động phản
kháng với hoàn cảnh hiện thời, điều ấy có thể làm đẩy mạnh tình
trạng hiện thời hoặc có thể không, nhưng đó chỉ là giải pháp nhất
thời, đó không phải là vấn đề chuyển hóa toàn triệt, đó không phải
là câu trả lời thực sự.
Khi trình trạng tuyệt vọng
xảy đến, tôi chú tâm thật nhiều vào cách ngăn ngừa những việc như thế
xảy ra từ trong tương lai. Tình trạng hiện thời thật khủng khiếp, rất
khủng khiếp, nhưng chúng ta không làm được gì cả, chỉ biết chấp nhận.
Như tình hình Bosnia hiện nay – đôi khi có người hỏi tôi chúng ta nên làm
gì và tôi đáp, thực sự là chẳng có gì để làm cả. Đôi khi con người
hầu như trở nên nóng nảy với những cảm xúc tiêu cực. Trong những hoàn
cảnh ấy, chỉ vì để có thể đối phó với tình hình. Các bạn không thể
dùng trí khôn của loài người để phản ứng những cảm xúc tiêu cực trong
những hoàn cảnh cực đoan như thế. Nó quá trễ, quá trễ!
Nhưng chúng ta không nên cảm
thấy thất vọng, điều ấy sẽ sai lầm. Chúng ta phải hành động để ngăn
ngừa những việc như vậy trong suốt thời gian dài ở tương lai, đó là
phương thức tốt nhất của con người mà ta có thể hành động. Đó là
vấn đề của chúng ta, dù nó không xảy ra trong suốt cuộc đời mình.
Nhưng chúng ta phải làm việc nầy cho thế hệ tương lai.
Thế nên điều đó luôn luôn
giúp cho tôi hy vọng. Vâng, tình trạng hiện nay thì vô vọng và không xoay
xở gì được. Nhưng không có nghĩa là vô vọng trong tương lai. Vì có sự
quyết định làm điều gì đó cho tương lai, nên luôn luôn có niềm hy vọng
dài hạn. Với vấn đề đặc biệt nầy, trong một hoàn cảnh đặc thù, tôi
không biết trả lời sao. Nếu người ấy là tôi, với tất cả áp lực đặt
vào tôi, như khẩu súng chĩa vào tôi, tôi không biết phải làm gì nữa.
Có lẽ tôi sẽ làm như thế nầy (cười và giấu mặt vào sau hai bàn tay),
hoặc có khi tôi sẽ làm như thế nầy (ra dấu cú đấm tưởng tượng bằng
nắm tay), cũng sẽ là bạo động luôn (cười dài và lớn). Thực vậy, tôi
không biết tôi phải làm gì nữa!
Hỏi: Nếu Ngài còn trẻ, chắc không có ai lắng nghe những điều Ngài
nói. Làm sao để tôi có thể khiến mọi người chấp nhận tôi và chấp
nhận mọi ý tưởng của tôi nghiêm túc hơn.
Đạt-lại Lạt-ma: (suy nghĩ, rồi cười) Tôi không biết nữa.
Tôi cảm thấy đôi khi, trong kinh nghiệm của tôi, tôi có vài ý tưởng và
tôi không bao giờ nghĩ đó là điên rồ, nhưng nó thực sự là một ý
tưởng điên rồ. Nhưng tôi cho rằng đó là một ý tưởng vĩ đại và tôi cố
gắng thuyết phục người khác tin ý tưởng ấy vĩ đại biết bao. Rồi sau
đó, các bạn mới hiểu ra cái điên rồ của ý tưởng ấy là gì. Lúc đó,
sự phản ứng về ý tưởng của bạn sẽ không phải là tích cực, nhưng các
bạn đã có sự tin tưởng rằng ý kiến của mình là rất vĩ đại. Cũng
thế, những người lớn tuổi đôi khi họ nghe một ý kiến từ lớp trẻ, họ
nghĩ rằng: »Ồ! Chẳng có kinh nghiệm«. Và họ thực sự chẳng thèm nghe.
Trường hợp ấy hoàn toàn có xảy ra. Thế nên đôi khi, bản chất của con
người là thường dựa vào người nói hơn là căn cứ vào bản chất của ý
kiến được nói. Nếu một ý kiến được đưa ra từ người nào đó rất quý
phái hoặc quan trọng, thì không cần phải suy nghĩ gì nhiều về ý kiến
ấy, người ta vẫn có khuynh hướng chấp nhận ý kiến ấy. Tôi nghĩ rằng
đây là một trong những giáo lý quan trọng của đạo Phật. Chúng ta phải
nương tựa vào bản chất của ý tưởng, hơn là dựa vào quyền hạn của
người đưa ra ý kiến.
Thế nên nếu ý kiến phát
xuất từ giới trẻ mà có giá trị thực sự, thì chúng ta nên chấp nhận.
Còn nếu đó là ý kiến điên rồ do hoàng đế hoặc thủ tướng nước Thụy
Điển đưa ra thì cũng không chấp nhận. Chúng ta cần chú tâm vào nội
dung, không phải vào người đưa ra nội dung ấy. Nếu chúng ta tuân thủ
thái độ nầy, thì ngay với người rất trẻ, chúng ta vẫn có thể lắng
nghe và chấp nhận ý kiến của họ.
Tôi cảm thấy đôi khi từ
những người trẻ, tâm thức họ chưa được đào luyện, nên họ đặt mọi
việc vào trong một lề lối khác hẳn. Họ rất tự nhiên và ngẫu hứng.
Những người lớn có sự đào luyện tâm linh nhiều hơn và có khuynh hướng
ảnh hưởng bởi xã hội và bản tính nghiêng về trí tuệ. Lớp trẻ thì ngây
thơ hơn. Phẩm chất cơ bản của bản tính con người, bản chất toàn thiện
bẩm sinh có sẵn trong mỗi người chúng ta, thì rất trong sáng. Những
người lớn có khuynh hướng ít ngẫu hứng, và nhiều thuần thục (cười).
Nhưng, tôi cũng không biết nữa.
Hỏi: Ở trường, chúng tôi đã được học về sự quan trọng của mưa
rừng và sự bảo dưỡng môi trường. Ngài cảm thấy thế nào khi thấy sự
ô nhiễm rác thải, bụi không khí và rừng bị khai thác?
Đạt-lại Lạt-ma: Hiện nay, sự ô nhiễm là vấn đề nổi
cộm. Cũng vậy, người ta dùng tài nguyên thiên nhiên đến mức cạn kiệt,
điều đó cũng góp phần tạo nên vấn đề. Trong trường hợp cá nhân tôi,
khi còn ở Tây Tạng, là một vùng đất mênh mông và ít dân cư, khí hậu
lạnh và khô, nên ngay dù chúng tôi không quan tâm nhiều đến môi trường,
nhưng thiên nhiên tự bảo quản lấy nhau nên chúng tôi được ở trong một
môi trường bình lặng. Bây giờ, trở nên rất rõ ràng rằng môi trường rất
quan trọng và nhiều việc cần phải làm hằng ngày bởi mọi người để
bảo vệ môi trường. Khi các bạn ra khỏi phòng làm việc, hãy tắt điện,
chế biến lại rác thải, điều này rất dễ, nó trở thành một phần
cuộc sống hằng ngày của bạn và mỗi cá nhân có thể trợ giúp rất
nhiều. Tương tự, nếu 1, 10, 100, 1000 người không chú tâm, ảnh hưởng sẽ
rất tồi tệ.
Mỗi cá nhân phải thực hiện
một số kỷ luật nầy trong đời sống hằng ngày, để chúng ta cùng nhau
tạo nên một tác động mạnh vào xã hội. Giáo dục cũng rất lợi ích,
nhưng điều quan trọng nhất là những thực tập đơn giản nầy trở thành
một phần của sinh hoạt hằng ngày.
Hỏi: Các kênh truyền hình tin tức, giải trí và phim ảnh đã trình bày
và đề cao bạo động. Ngài có nghĩ rằng những điều nầy làm cho xã
hội chúng ta nhiều bạo động hơn?
Đạt-lại Lạt-ma: Tôi nghĩ như thế. Tôi cho là như vậy, đặc
biệt đối với những người không chịu quán chiếu sâu vào nội tâm, đặc
biệt những thành phần nầy, sự ảnh hưởng của bên trong tạo nên một
tác động mạnh vào nội tâm của họ. Nếu có một ai thường thiền định
và quán chiếu vào nội tâm theo một nền tảng thường xuyên, thì tôi nghĩ
rằng ảnh hưởng của ngoại giới sẽ ít đi.
Trong xã hội ngày nay, đặc
biệt đối với giới trẻ, phương tiện truyền thông có một trách nhiệm
thật lớn. Tôi luôn luôn tin rằng trên hành tinh nầy, chúng ta là một gia
đình nhân loại. Và bây giờ, vì nhiều sự kiện mới ngày nay, ý niệm về
»họ« và »chúng ta« nên được giải trừ. Chúng ta phải nghĩ về toàn thể
loài người là »chúng ta«. Sẽ không còn »điều tôi quan tâm« hoặc »điều
các bạn quan tâm« nữa, tất cả những điều chúng ta quan tâm đều liên hệ
đến toàn thể thế giới, đến toàn thể mọi người – bao gồm cả phương
tiện truyền thông. Chúng ta bây giờ là một gia đình vũ trụ, thế nên khi
có một vấn đề hay một mối đe dọa đến một người trong chúng ta, tất
cả chúng ta đều đau khổ. Không có cách nào thoát ra khỏi được. Tất
cả chúng ta đều có trách nhiệm chăm sóc thế giới.
Bây giờ thế giới đã trở
nên một nơi quá chật hẹp, tùy thuộc rất nhiều vào mỗi người chúng
ta. Để tiến về phía trước một cách tích cực, cần yếu tố chính là tâm
thức nhân loại. Thế nên ở đây, ý thức cam kết vì mục đích tương lai thế
giới tốt đẹp hơn, dạng ý thức trách nhiệm đó, là hy vọng thực sự
của chúng ta. Tất cả các ngành chuyên môn đều đóng góp phần của mình:
giới truyền thông, khoa học, các nhà lãnh đạo tôn giáo, kinh tế gia,
và dĩ nhiên cả chính trị gia. Tất cả đều có những hoạt động khác
nhau, nhưng tất cả đều vì lòng nhân từ, vì hiện nay khi nói về lòng
nhân từ, ta không nên tạo ra sự kỳ thị giữa các phía chống trái nhau.
Nên dĩ nhiên, phương tiện truyền thông có trách nhiệm rất lớn lao.
Cơ bản, tôi tin rằng bản
chất con người là trong sáng, bản chất cơ bản của con người là lòng
từ bi. Nhưng thế mà, não bộ của con người, như tôi đã đề cập từ
trước, cũng có phần ảnh hưởng đến sự thi tác, và vì thế, cũng góp
phần tạo nên cảm xúc của con người.
Tôi luôn luôn tin tưởng rằng
thân thể con người mà ta đang thọ báo, trong phần cấu trúc thân thể ấy
được bao bọc bởi môi trường nhuốm đầy phiền não, thân thể ấy sẽ mạnh
khỏe, tỉnh lại hơn và các chức năng vật lý của thân sẽ hoạt động
một cách chính xác hơn. Nếu thân thể nầy ở trong bầu khí căng thẳng và
bị stress, thì sự phản ứng từ thân sẽ rất tiêu cực. Thế nên điều rất
tự nhiên đối với thân thể là nó làm việc tốt nhất khi nó được vây
bọc chung quanh bởi phiền não của con người. Nó cần có sự phiền não
ấy. Nếu trạng thái tâm lý của con người rất mẫn cảm, giàu lòng từ
bi, và ít sợ hãi, ít giận dữ, ít căng thẳng, thì kết quả áp lực máu
trong thân sẽ hạ xuống... Sợ hãi, sân hận, là những điều rất xấu đối
với thân. Vì những lý do nầy, tôi tin rằng bản chất cơ bản của con
người là rất trong sáng. Nhưng các bạn sẽ hỏi, thế thì tại sao lại
có một số người quá kiêu mạn và hung hãn? Cơ bản là, tôi tin rằng đó
là do suy nghĩ của từng người. Trí tuệ cho chúng ta sự tùy chọn. Tính
thiện sẽ được thắng phục và trí tuệ con người cung cấp nhiên liệu cho
những cảm xúc tiêu cực. Thế nên ngày nay, tôi tin rằng khi tính chất
phá hoại của xã hội hiện thời đe dọa sự tồn tại của toàn nhân loại
thế giới, thì trí tuệ con người có nhiều việc cần phải hóa giải.
Phương cách để vượt qua khổ
đau của toàn nhân loại cũng là thông qua trí tuệ của con người. Ngày
nay, nói chung, tôi nghĩ rằng người ta mắc phải ấn tượng là bản tính
con người trở nên tiêu cực hơn. Đó là khi những câu chuyện tiêu cực trở
thành thông tin bởi vì nó muốn khủng bố chúng ta, và nó đánh vào tâm
thức chúng ta vì nó là một thứ gì đó không tự nhiên. Khi ta nghe một
người nào đó quan tâm đến một ai đó, ta nghĩ rằng, đó là điều tự
nhiên. Thế nên tôi nghĩ rằng sự biểu lộ ấy chính là lòng từ bi, chúng
ta thể hiện bởi lòng khoan dung. Sự giết hại và thảm sát, đây là
điều không tự nhiên đối với con người, thế mà những thứ ấy lại trở
thành tin tức, chúng ta luôn luôn bị bao bọc bởi những tin tức xấu.
Thế nên rốt cục chúng ta cảm thấy con người là tiêu cực và tạo ra sự
thù hận về phía chính mình.
Phương tiện truyền thông có
trách nhiệm thực sự tạo nên một toàn cảnh chân xác về bản chất thực
tại của nhân loại. Và tôi cảm thấy điều nầy rất là quan trọng vì nó
ảnh hưởng đến tâm thức con người và tác động đến quyết định tạo lập
một tương lai tốt đẹp hơn cho chúng ta. Nếu chúng ta không tin chính mình
và không tin vào bản tính toàn thiện của mình, thì làm sao ta tin được
rằng mình có thể tạo lập một tương lai tốt đẹp hơn? Sự tự tin rất là
quan trọng. Thế nên nếu phương tiện truyền thông luôn luôn truyền đi
những tin tức tiêu cực, làm cho tình hình có vẻ tuyệt vọng, nó sẽ làm
xói mòn phẩm chất căn bản của con người.
Hỏi: Nếu một ngày nào đó Ngài có khả năng tàng hình, hoàn toàn
tàng hình chỉ trong một ngày thì Ngài sẽ làm gì?
Đạt-lại Lạt-ma: Thực ra, theo quan điểm đạo Phật, cũng
có những lúc như thế. Đến lúc ấy, sẽ có những trách nhiệm mới,
những việc mới phải làm. Nhưng bản tâm của các bạn vẫn như nhau, và
mục tiêu vẫn là giúp đỡ mọi người khác. Dù trong thân tàng hình hay
với hiện thân thì công việc cơ bản của các bạn vẫn như nhau. Các bạn
vẫn sẽ có những cảm nhận như nhau, vẫn muốn hạnh phúc như nhau và
đều không muốn bị đau khổ. Dù thân bạn ẩn tàng hay hiện hình, không
phải là vấn đề, vẫn như nhau thôi. Còn tôi cho rằng nếu tôi tàng hình
được, tôi sẽ dễ dàng hơn để dò thám người khác (cười). Đó sẽ là
một cơ hội mới, một dịp rất tốt (cười dài và lớn).
Hỏi: Phải làm gì khi bị cảm giác thất vọng toàn ngập? Tại sao
chúng ta phải tiếp tục sống trong khi tất cả mọi thứ dường như vô ích,
và có rất ít hy vọng?
Đạt-lại Lạt-ma: Tôi nghĩ loại nhận thức như vậy hoàn
toàn sai lầm. Dĩ nhiên, luôn luôn có nhiều rắc rối trong đời sống,
nhưng cũng vậy, luôn luôn có những niềm hy vọng. Nếu các bạn có được
ý niệm nầy thì sẽ có sức mạnh. Thế nên luôn luôn có một cơ hội tốt
lành và niềm hy vọng luôn luôn nằm trong đó.
Hỏi: Ngài là một người vĩ đại, còn tôi là một người rất nhỏ bé.
Bằng cách nào để tôi có thể làm được mọi điều trên thế gian?
Đạt-lại Lạt-ma: Tôi không cho rằng mình là điều gì đó đặc
biệt. Tôi luôn luôn cho rằng tất cả mọi người đều đặc biệt, dù họ có
học hay không được học, họ đều có tình người và tâm linh của con
người, và đó là điều quan trọng nhất.
Thế nên bây giờ vấn đề là
các bạn có dùng tiềm năng của con người thể hiện qua tính tự tin hay
không? Đó là vấn đề. Mọi người đều có cùng một năng lực tiềm ẩn như
nhau, không đánh mất niềm tự tin, và với sự quyết đoán mạnh mẽ. Các
bạn cần phải cố gắng. Sự tu học rất quan trọng để nhận ra bản chất
hoàn thiện của con người, tôi tin rằng sự huân tập rất cần thiết.
Hỏi: Chúng ta còn bao nhiêu thời gian để phải từ bỏ hành tinh nầy,
sau khi môi trường bị phá hủy và mọi thảm trạng mà ta đã gieo vào
trái đất? Có chăng niềm hy vọng để hồi sinh lại hành tinh nầy?
Đạt-lại Lạt-ma: Mặc dù có quá nhiều vấn đề, quá nhiều
đau khổ, nhiều tình huống bi kịch, tôi vẫn tin loài người có năng lực
hồi sinh hành tinh nầy, và không chỉ hồi sinh, mà tôi còn nghĩ rằng,
do kinh nghiệm của chúng ta từ những thế kỷ vừa qua, chúng ta đã học
hỏi được rất nhiều. Có lẽ như là kết quả từ kinh nghiệm của chúng
ta từ những giai đoạn phức tạp, khó khăn này, tôi nghĩ rằng nhân loại
nói chung đang trở nên chín chắn hơn. Thế nên nếu chúng ta thực sự tập
trung nhiều nỗ lực hơn, với cái nhìn trong sáng hơn về tương lai, tôi
nghĩ thế kỷ đến chắc chắn là một thế kỷ hạnh phúc hơn.
Tương lai đang ở trên vai của
chính mình. Nếu chúng ta gặp thất bại, ta lại tạo một nỗ lực khác.
Gặp thất bại, càng cố gắng. Càng thất bại, càng cố gắng hơn. Luôn
luôn có khả năng để có một tương lai tốt đẹp hơn. Nếu chúng ta từ bỏ
hy vọng và từ bỏ nỗ lực thì chúng ta sẽ rước lấy sự tàn phá và
hủy hoại.
Hỏi: Có bao giờ Ngài lúng túng bởi những sự cung kính người ta dành
cho ngài. Tôi muốn được trở thành một nhà lãnh đạo, nhưng tôi không
biết cách rèn luyện mình như thế nào để đạt được và vẫn chưa biết
cách duy trì tính khiêm cung?
Đạt-lại Lạt-ma: Thường thường, thái độ của tôi là thấy
rằng mình chỉ là một con người, tiếp xúc với một con người khác. Trên
bình diện đó, không có gì khác nhau nhiều lắm. Dĩ nhiên, trên bình diện
khác, có nhiều vị trí, tướng trạng và danh xưng khác nhau... Nhưng đây
là những điều thứ yếu. Nếu các bạn xem những thứ nầy là quan trọng
thì thực sự, nó sẽ trở thành một chướng ngại khi tiếp xúc với những
người khác. Nếu các bạn ở trên bình diện cơ bản của con người, thì sẽ
không có một rào chắn nào cả.
Loại thái độ ấy rất có
ích cho tôi. Theo cách đó, khi tôi tiếp xúc với một nguyên thủ quốc gia
hay người ăn xin, đối với tôi, có rất ít khác biệt. Miễn là đối với
người đối diện, mình có một nụ cười chân thật, lòng thông cảm chân
thành thì việc tiếp xúc sẽ thoải mái. Đó là giá trị chân thật và
cảm xúc chân thật của con người, ước nguyện chia sẻ nỗi khổ hay hạnh
phúc của người khác như anh chị em của mình.
Hỏi: Có niềm hy vọng gì cho Tây Tạng không? Chúng tôi có thể làm gì
để giúp cho người dân Tây Tạng và chính nghĩa của họ? Ngài có thực
sự cho rằng chủ trương bất bạo động có thể áp dụng để cứu vãn cho
tình hình Tây Tạng?
Đạt-lại Lat-ma: Mặc dù bản chất của mọi vấn đề đang diễn
biến ở Tây Tạng hàng ngày là rất nghiêm trọng, gay gắt, nhưng về cơ
bản, tôi vẫn rất hy vọng, vì bối cảnh toàn cầu của thế giới, những
chính sách chuyên chế độc đoán sẽ không còn nữa. Và ở Trung Hoa, các
phong trào dân chủ không những được hồi phục mà hiện nay rất sôi động.
Cũng thế, kinh tế phát triển, đã mang đến tự do trong chính trị.
Trong lúc đó, tinh thần của
nhân dân Tây Tạng rất cao, rất mạnh, đặc biệt trong thế hệ trẻ. Cũng
vậy, sự hiểu biết về tình hình Tây Tạng đã gia tăng khắp thế giới qua
từng năm và kết quả là, cảm giác cảm thông, gắn bó cũng gia tăng
theo. Thế nên nhờ những yếu tố này, cho một mục tiêu lâu dài, tôi rất
lạc quan.
Trong khi chờ đợi, tôi thành
tâm kêu gọi các huynh đệ trên thế giới hãy lắng nghe chúng tôi. Trong
quá khứ, Tây Tạng quá xa xôi và bị cô lập. Ngày nay, cục diện thế
giới đã thay đổi rất nhiều, đặc biệt là tình hình Tây Tạng, nhờ vào
môn học địa lý.
Nếu Tây Tạng trở thành một
quốc gia hòa bình, sẽ có sự đóng góp rất lớn cho tình trạng hòa bình
ở châu Á, vì Trung Hoa và Nhật Bản là hai quốc gia có dân số đông nhất
trên thế giới và chắc hẳn sẽ đóng góp rất nhiều cho hòa bình thế
giới. Thế mà văn hóa Tây Tạng, văn hóa Phật giáo và lối sống (không
riêng Phật giáo, mà còn có Hồi giáo Tây Tạng, tôi đang nhấn mạnh về
văn hóa, về phong cách sống), hôm nay cũng đang đối diện với sự hủy
diệt. Nền văn hóa nầy cũng là một tiềm năng lớn để tạo nên một sự
can thiệp mạnh mẽ cho sự bình an của tâm thức không chỉ cho sáu triệu
dân Tây Tạng, mà còn cho tất cả loài người trên thế giới, và còn
giúp đỡ rất nhiều cho hàng triệu thanh niên Trung Hoa nữa.
Tán trợ và khuyến khích
mọi người gìn giữ, bảo vệ nước Tây Tạng và văn hóa Tây Tạng sẽ là
một sự ủng hộ lớn lao, được hoan nghênh nhất. Tôi chân thành thỉnh cầu
sự quan tâm của các huynh đệ khắp nơi trên hành tinh xinh đẹp này.
Hỏi: Nếu Ngài có một điều để nói với giới trẻ khắp nơi trên thế
giới, điều ấy là gì?
Đạt-lại Lạt-ma: Các huynh đệ thân mến, là con người sống
trên hành tinh nhỏ nầy, thời gian luôn luôn thay đổi, luôn luôn chuyển
biến. Trong một cách nào đó, phương thức vạn vật chuyển biến là rất
tốt, vì nếu vạn vật không thay đổi, thì mọi hiện tượng tiêu cực vẫn
còn đó. Vì mọi chuyện đều luôn luôn thay đổi, nên luôn luôn có niềm hy
vọng.
Bây giờ, điều tôi muốn chia
sẻ với các bạn là luôn luôn có khả năng cho vạn vật chuyển biến và
thay đổi tốt hơn. Sự thay đổi chứa đầy giá trị con người. Tôi nghĩ
rằng đó là mục đích của chúng ta. Chúng ta có dịp may – đặc biệt là
các bạn, những người trẻ tuổi – các bạn là nhân vật chính mang trên
vai trách nhiệm tạo lập nên tương lai tốt đẹp trong lâu dài. Các bạn
là hạt giống để phát triển thành một thế giới thịnh vượng, giàu
có, thân thiện, hòa hợp và an lạc. Thế nên mọi việc đều tùy thuộc
rất nhiều vào các bạn. Sự giáo dục rất quan trọng, nhưng chỉ giáo
dục một mình thôi chưa đủ. Sự giáo dục cho bộ não và sự phát triển
tâm linh hoàn thiện – hai điều nầy phải đi cùng với nhau. Con tim thánh
thiện cho các bạn tính can đảm, sự tự tin và tính quả quyết. Đây là
những động cơ thiết yếu cho một tương lai tốt đẹp. Và bộ não, giống
như một thiết bị, có thể hóa giải mọi vấn đề. Nên với một thiết bị
hoàn hảo được điều khiển bởi một con tim thánh thiện, thì sẽ có hy
vọng chân thực. Sẽ có một tương lai hoàn thiện thực sự. Nên các bạn
phải hiểu rằng, phần nhiều đều tùy thuộc vào bàn tay và sự gánh
vác trên vai các bạn. Chúng ta hãy cố gắng tạo lập được một thế
giới hạnh phúc an lạc. Vâng – chắc chắn đó là một hy vọng tốt đẹp,
đó là một tiềm năng diệu kỳ. Rất quan trọng khi có niềm tự tin vững
mạnh và dứt khoát hướng đến thế giới an vui đó.
Với niềm lạc quan, dù sự
việc khó khăn mấy vẫn có thể vượt qua được. Nếu các bạn đánh mất
niềm hy vọng và giữ mãi thái độ bi quan, thì ngay cả những việc dễ
thành tựu, các bạn cũng sẽ không bao giờ đạt được. Vậy nên, phần
nhiều là tùy thuộc vào phong thái tâm linh của các bạn. Đó là những
gì tôi thực sự muốn chia sẻ với các bạn.
CUỘC THẢO LUẬN VỚI ROBERT THURMAN
L.G.T: Robert A.F.Thurman
là một Tăng sĩ Phật giáo, thọ giới tỷ-khưu năm 1964. Hiện nay là Giáo sư phân khoa
Nghiên cứu Phật giáo Đông phương và Phật giáo Tây Tạng thuộc Đại học
Columbia, Hoa Kỳ. Ông là một học giả có uy tín và chuyên dịch thuật
kinh luận từ tiếng Tây Tạng và Sanskrit, là
tác giả của các tập khảo luận:
- Essential Tibetan Buddhism –
1996.
- Innet Revolution: The
Politics of Enlightenment – 1998.
Ông cũng là người đồng
sáng lập và là Chủ tịch của Văn phòng Tây Tạng tại Nữu Ước, ông
hoạt động bên cạnh đức Đạt-lại Lạt-ma để hoằng truyền Phật giáo
khắp nước Mỹ và hướng dẫn cho người Tây phương biết rõ hơn về Phật
giáo Tây Tạng.
Cuộc thảo luận nầy diễn ra
tại trú xứ của Đức Đạt-lại Lạt-ma ở Dharamsala, Ấn Độ, vào tháng 8.
1997.
Robert Thurman:
Có điều gì đó về xã hội
Hoa Kỳ làm cho rất nhiều người tìm đến và tu tập theo đạo Phật?
Đạt-lại Lạt-ma: Tôi không biết nữa. Tại sao ông lại quan
tâm đến thế? (cười) Không! Thật đấy! Tôi thấy người Mỹ rất quan tâm
đến đạo Phật vì họ có tâm hồn cởi mở. Họ thụ bẩm một nền giáo dục
dạy họ phải tự mình tìm hiểu tại sao sự vật biểu hiện theo phương
cách của nó. Những người đó có tấm lòng cởi mở có khuynh hướng quan
tâm đến đạo Phật vì đức Phật đã từng khuyến khích mọi người hãy tự
khảo nghiệm lấy sự kiện, chứ đức Phật không ép buộc họ phải tin.
Cũng vậy, nền giáo dục ở
nước bạn có khuynh hướng phát triển bộ não trong khi thờ ơ với nội
tâm, thế nên bạn có ao ước về một giáo lý nhằm phát huy và làm lớn
mạnh thiện tâm Cơ-đốc giáo cũng có một giáo lý hay, đẹp về con
người, nhưng bạn không biết hoàn chỉnh về giáo lý ấy. Thế nên bạn
chuyển sự quan tâm vào Phật giáo (cười). Đôi khi giáo lý đạo Phật
dường như ít tính chất tôn giáo và có vẻ kỹ thuật hơn, như ngành tâm
lý học, nên giáo lý nầy giới bình dân rất dễ áp dụng.
Thurman:
Có người cho rằng Ngài đã theo một tôn giáo phát xuất từ nền văn hóa
của chính Ngài. Việc chấp nhận một tôn giáo hay một pháp tu tập tâm
linh của nước ngoài vào trong sinh hoạt văn hóa của riêng mình, có phải
đó thực sự là một ý kiến đúng đắn chăng?
Đạt-lại Lạt-ma: Tôi luôn luôn nói rằng con người không nên
vội vàng thay đổi tôn giáo. Có một giá trị đích thực khi thâm nhập
vào nguồn cội tâm linh mà các bạn cần phải có từ tôn giáo gốc của
mình. Ngay cả giới bình dân cũng có cội nguồn tâm linh phong phú của
riêng họ, điều ấy đến với tôi hầu như là một tôn giáo. Tất cả các
tôn giáo đều cố gắng làm lợi lạc cho con người, với một thông điệp cơ
bản giống nhau về nhu cầu, về lòng từ bi, về chân lý, sự trung thực,
và về lòng bao dung. Thế nên chỉ thay đổi dạng thức một tôn giáo mới
sáp nhập thường sẽ chẳng giúp ích được gì nhiều cho mình. Mặt khác,
trong một xã hội dân chủ, đa nguyên, có quyền tự do theo một tôn giáo
mà bạn thích. Điều này rất hay. Điều này khiến những người hiếu kỳ
như ông chạy quanh tìm kiếm một cách thoải mái (cười).
Thurman:
Ngài nói rằng trong tương lai, khi Tây Tạng được tự do, Ngài sẽ không
giữ chức lãnh đạo chính phủ Tây Tạng nữa. Có phải vì Ngài muốn giới
thiệu nguyên tắc dân chủ khi tách rời giáo hội và nhà nước ở quốc
gia của Ngài?
Đạt-lại Lạt-ma: Tôi rất tin thể chế dân chủ rất cần
thiết và rất quan trọng, và nếu tôi còn giữ vai trò lãnh đạo chính
phủ, sẽ là một trở ngại cho việc thực thi dân chủ. Cũng vậy, nếu khi
tôi còn lãnh đạo, tôi phải tham gia một trong các đảng phái. Nếu một
vị Đạt-lại Lạt-ma gia nhập đảng phái, thì điều ấy rất khó cho việc
điều hành guồng máy.
Từ trước đến nay, sự chia
xẻ của tôi với cuộc đấu tranh tự do của nhân dân Tây Tạng đã là một
phần của phép thực hành tâm linh của tôi, vì vấn đề làm sống dậy
giáo lý Phật pháp và sự tự do của Tây Tạng có liên quan với nhau rất
nhiều. Trong cuộc đấu tranh đặc biệt nầy, không có vấn đề tham gia của
các Tăng, Ni, gồm cả tôi trong đó. Nhưng khi tiến hành một đảng chính
trị dân chủ, tôi không thích Tăng và Ni tham dự vào đó – để bảo đảm sự
thực thi dân chủ chính đáng – một vị Đạt-lại Lạt-ma cũng không nên là
một thành viên trong Đảng, mà nên duy trì chức năng trước đây.
Cuối cùng, riêng tôi thực
sự chẳng muốn đảm nhận một nhiệm vụ gì trong đảng, cũng chẳng muốn
đảm nhiệm một chức vụ nào trong nhà nước cả.
Thurman:
Nhưng nếu Ngài tham gia như vua Thụy Điển hay nữ hoàng Anh – như một
hiến pháp của Đạt-lại Lạt-ma thì sao? Là một nhà lãnh đạo tôn giáo,
đảm nhiệm một vai trò hợp nhất, Ngài có quan tâm đến điều nầy không,
nếu mọi người thỉnh cầu?
Đạt-lại Lạt-ma: (cười thân mật) Tôi không nghĩ như thế.
Tôi không muốn trở thành tù nhân trong cung điện, sống theo một lối
nghiêm ngặt quá chặt chẽ như thế! Dĩ nhiên, nếu thực sự có một hậu
quả nghiêm trọng nếu tôi không chấp nhận vai trò đó, thì chắc tôi làm
bất kỳ một điều gì đó cần thiết. Nhưng nói chung, tôi thực sự thích
tự do hơn. Có lẽ, chỉ là có lẽ, tôi thích trở thành một đạo sư tâm
linh, một Lama thích hoạt động!
Thurman:
Ngài vừa phát biểu rằng Ngài có một »tấm lòng tốt hơn như hiện nay«
là nhờ vào cuộc sống lưu đày. Cuộc đời lưu đày đã giúp Ngài điều
gì?
Đạt-lại Lạt-ma: Khi chúng ta gặp bi kịch thực sự trong
đời sống, chúng ta có thể phản ứng theo hai cách – hoặc là đánh mất
hy vọng và rơi vào thói quen tự hủy hoại, hoặc là dùng sự thử thách
ấy để tìm ra một nội lực tâm linh. Nhờ vào giáo lý của đức Phật, tôi
thường chọn cách thứ nhì. Tôi đã tìm thấy giá trị lớn lao của đạo
Phật vì tôi không thể cho rằng cuộc sống lưu đày ở đây là hợp lý.
Chúng tôi đã có một nỗ lực rất lớn để duy trì mọi trình độ trong nền
giáo dục Phật giáo, điều ấy thực sự đã giúp cho chúng tôi một dạng
của sự phục hưng.
Thurman:
Trong cuộc tranh đấu hiện thời của Srilanca chủ yếu là giữa Phật giáo
và thành phần ly khai Ấn Độ giáo Hổ Tamil – một cuộc đấu tranh lôi
kéo theo hàng ngàn người từ khi bắt đầu cách đây 14 năm – có rất
nhiều phương pháp được tìm kiếm để bào chữa cho sự tham gia của Phật
giáo, bao gồm cả giới tăng lữ trong cuộc bạo động nầy. Chủ yếu, lý
lẽ về chủ trương hòa bình mà Ngài đang theo đuổi không hợp với thực
trạng tình hình thế giới, và điều ấy đã khiến cho phía đối nghịch phá
hủy tượng Phật, chùa chiền và giết hại Phật tử khi họ không cần
kháng cự lại, đơn giản đó là điều không thể tha thứ được.
Sự mất chủ quyền quốc gia
của ngài được xem như một ví dụ về sự vô ích của đường lối bất bạo
động và lòng khoan dung. Đến khi nào mới có được sự phản ứng thiết
thực?
Đạt-lại Lạt-ma: Điều nầy rất khó trả lời, riêng trong
trường hợp của mình, chúng tôi không xem việc mất mát tự viện hay một
công trình Phật giáo là sự chấm dứt toàn bộ phương cách sống của
chúng tôi. Nếu một tu viện bị phá hủy, điều ấy đôi khi xảy ra, nhưng
chúng tôi không cần phải phản ứng bằng sự bạo động tuyệt vọng cho dù
dưới nhiều hoàn cảnh đặc biệt. Phương thức bạo động – bất kỳ phương
thức nào – đều có thể bị phê phán, tuy nhiên một khi các bạn đã tiến
hành một cuộc bạo động, thì cuộc bạo động đối kháng sẽ phản ứng
lại. Cũng thế, nếu các bạn chấp nhận phương thức bạo động vì đối
phương đã phá hủy tu viện của bạn, chẳng hạn, thì các bạn không những
chỉ mất tu viện của mình thôi, mà còn mất luôn truyền thống tu tập
đặc biệt của Phật giáo về sự chấp trước, và lòng từ bi.
Tuy nhiên, nếu tình trạng
đến nổi chỉ còn một vị Lạt-ma thông tuệ hoặc một hành giả chân chính
đang sống, người mà cái chết của họ sẽ khiến cho toàn dân Tây Tạng
đánh mất hy vọng gìn giữ được đời sống Phật giáo, thì có thể chấp
nhận rằng để bảo vệ người đó, có thể đánh đổi một hoặc mười đối
thủ phải bị giải trừ – nếu không có một phương thức nào khác. Tôi
chỉ sẽ bào chữa tính bạo động trong trường hợp cùng cực này mà thôi,
mục đích là để cứu vớt sự tồn tại của chính huệ mạng Phật pháp.
Đối với người Tây Tạng,
sức mạnh thực sự từ cuộc tranh đấu là sự chân thực – không ầm ĩ,
không tiền bạc, không tinh khôn.
Chúng tôi đặt toàn bộ niềm tin của mình trên chân lý và chính nghĩa.
Từ khi chúng tôi trở thành
quốc gia Phật giáo, chúng tôi đã sống hòa bình . Chúng tôi không xâm
lấn lãnh thổ. Chúng tôi không thích ai xâm lăng đất nước chúng tôi.
Chúng tôi không bao giờ tuyên bố chiến tranh với ai. Chúng tôi chỉ có
một vấn đề: để yên cho chúng tôi sống an bình, để cho chúng tôi hưởng
được tự do bản nhiên. Tôi chỉ rời bỏ Tây Tạng vì e ngại nhân dân nước
tôi sẽ phát động cuộc bạo động tuyệt vọng nếu Trung Hoa cầm tù tôi.
Thurman:
Làm sao có thể hóa giải bạo động mà không bằng sự ghét bỏ, hoặc sân
hận?
Đạt-lại Lạt-ma: Chất hóa giải sân hận trong tâm, cội
nguồn của bạo động, là lòng khoan dung. Khoan dung là một đức tính quan
trọng của Bồ tát (những bậc đại sĩ đã giác ngộ) – đức tính ấy
khiến các bạn tránh được sự phản ứng giận dữ từ sự hãm hại các
bạn bởi những người khác. Các bạn có thể gọi phương pháp thực tập
nầy là »giải trừ đối kháng nội tâm«, trong đó, sự phát triển lòng
khoan dung cao độ sẽ khiến cho bạn thoát khỏi sự thúc giục phải phản
công lại người khác. Cùng một lý do đó, chúng ta cũng gọi lòng khoan
dung là »áo giáp tốt nhất«, vì nó bảo hộ cho bạn khỏi bị chinh phục
bởi sân hận của chính mình.
Có lẽ dường như thiếu thực
tế khi nghĩ rằng chúng ta có thể tránh khỏi ngay cả sân hận, nhưng
những người Phật tử đã có những phương pháp mang tính hệ thống để
dần dần phát triển năng lực khoan dung đủ để tạo nên sự tự do như
vậy. Nếu không có lòng khoan dung lẫn nhau giữa hai bên khởi dậy như
một nền tảng chung thì những tình trạng khủng hoảng như ở Tây Tạng và
Srilanca, Bosnia và Rwanda sẽ không bao giờ có được hiệu quả tiến bộ
cả.
đến sự thỏa hiệp. Do vậy,
tôi nói đến sự “tự trị« chân chính, chớ không phải là nói đến độc
lập.
...
Vì sự quan tâm chính của tôi
là nền văn hóa Phật giáo Tây Tạng, không chỉ là độc lập chính trị,
tôi không thể tìm kiếm sự »tự trị« cho vùng Trung nguyên Tây Tạng và
loại trừ 4 triệu dân Tây Tạng ở hai tỉnh phía Đông gồm Amdo và Kham
(một phần thuộc nước Tây Tạng độc lập, tỉnh Amdo bây giờ thuộc Trung
Hoa, được gọi là Qinghai, tỉnh Kham được chia thành các tỉnh của Trung
Hoa, gọi là Gansu, Sichuan và Yunnan.
Tôi đã trình bày rõ ràng
quan điểm của mình trong thời gian khá dài. Chúng tôi bây giờ đang tiến
hành một cuộc trưng cầu dân ý trong thể chế của chúng tôi từ các
cộng đồng người Tây Tạng lưu vong và trong nước, để xem xét lại những
tư tưởng chủ yếu mà chúng tôi đang theo đuổi là gì. Tôi là người có
niềm tin chắc chắn vào tầm quan trọng của thể chế dân chủ, đó không
chỉ là mục tiêu tối hậu, mà cũng là một phần thiết yếu của toàn
bộ tiến trình.
Thurman:
Ngài nói về cách đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào sự truy tìm hợp lý
về chân lý. »Đức Phật chỉ dạy cho các đệ tử hãy chiêm nghiệm một
cách sâu sắc lời dạy của Ngài trước khi ứng dụng. Ngài luôn luôn chủ
trương dùng suy luận để vượt qua niềm tin mù quáng«. Đến cuối thế kỷ
XX, niềm tin ấy không phải thực sự là chân lý, mà chỉ là chân lý
ngẫu nhiên, làm sao chúng tôi hình dung
ra được điều gì có nghĩa là chân lý mà Đức Phật đề cập đến trong
thuật ngữ đương thời?
Đạt-lại Lạt-ma: Đức Phật nói về thực tại. Thực tại
chỉ là một, trong thể tính sâu mầâu nhất của nó, nhưng Đức Phật cũng
xác định rằng tất cả những tuyên bố về thực tại chỉ là ngẫu nhiên.
Thực tại vượt thoát bất kỳ mọi biểu tượng có thể nắm bắt được dù
chỉ bằng một ý niệm – đó là những gì Đức Phật diễn đạt qua »tính
không«. Do vậy, Phật giáo mạnh
mẽ bác bỏ niềm tin mù quáng và sự cuồng tín.
Dĩ nhiên, có nhiều chân lý
khác nhau trên nhiều bình diện khác nhau. Các pháp đều thực sự tương
quan với các pháp khác: »dài« và »ngắn« có tương quan với nhau; »cao«
và »thấp« cũng vậy. Nhưng có chân lý tuyệt đối hay không? Có điều gì
thực sự đầy đủ, độc lập trong tự thân các pháp. Tôi không cho là như
vậy.
Trong đạo Phật, chúng ta có
ý niệm »chân lý không thể nghĩ bàn«, đó là giáo pháp thiết thực và
hợp lý cho mọi dạng người và trong mọi hoàn cảnh. Chính đức Phật đã
dạy nhiều giáo lý khác nhau cho nhiều hạng người khác nhau qua nhiều
hoàn cảnh khác nhau. Đối với một số người, niềm tin của họ đặt vào
một Đấng sáng tạo. Đối với một số người khác, lại tin không có Đấng
sáng thế. Chỉ có »chân lý tối hậu« trong đạo Phật là sự phủ nhận
tuyệt đối về bất cứ một chân lý nào như là »chân lý tối hậu«.
Thurman:
Phải chăng do vì rất nguy hiểm khi một tôn giáo tự cho mình là tôn giáo
độc nhất có chân lý?
Đạt-lại Lạt-ma: Đúng vậy, tôi luôn luôn kêu gọi nên theo
tinh thần đa nguyên – ý niệm về nhiều tôn giáo, nhiều chân lý cùng tồn
tại. Nhưng chúng ta phải cẩn thận đừng trở thành hư vô đoạn diệt.
Thurman:
Ngài cảm nhận như thế nào về tình hình thế giới khi chúng ta tiến dần
vào thế kỷ XXI?
Đạt-lại Lạt-ma: Cơ bản là tôi rất lạc quan. Và tôi thấy
có 4 lý do cho niềm lạc quan nầy. Trước hết, vào lúc khởi đầu thế
kỷ, con người không còn bao giờ đặt vấn đề ảnh hưởng của chiến tranh
nữa, không bao giờ nghĩ sẽ có một nền hòa bình thực sự nữa. Vì bây
giờ người ta đã chán chiến tranh và thấy chiến tranh thật vô dụng
trong việc hóa giải mọi vấn đề.
Thứ hai, cách đây không lâu,
con người tin vào ý thức hệ, hệ thống và sự tổ chức để cứu vãn
toàn xã hội. Ngày nay, họ đã từ bỏ hy vọng như vậy và quay trở về
nương tựa vào chính mình, vào tự do cá nhân, vào sáng kiến và sáng
tạo của cá nhân.
Thứ ba, có một thời con
người xem rằng tôn giáo đã lỗi thời và khoa học vật chất sẽ giải
quyết mọi vấn đề của con người. Bây giờ, họ đã vỡ mộng với chủ
nghĩa duy vật và cơ giới, họ đã nhận thức được rằng khoa học tâm linh
cũng không thể thiếu được cho sự thịnh vượng của nhân loại.
Cuối cùng, trong thời gian
trước của thế kỷ nầy, người ta đã sử dụng quá tải tài nguyên thiên
nhiên và xả chất phế thải như thể mọi thứ không hề cạn kiệt. Trong
khi ngày nay, ngay đứa trẻ nhỏ nhất cũng có sự quan hệ chân thực với
phẩm chất của không khí, nước, rừng cây và với sinh vật.
Bốn phương diện nầy, là
một nhận thức mới cho thế giới, một cảm nhận mới về thực tại. Căn
cứ vào đó, tôi tin tưởng rằng thế kỷ sắp đến sẽ tốt hơn thế kỷ
nầy.
Thurman:
Ngài có cho rằng Tây Tạng là một thành viên của thế kỷ mới ấy?
Đạt-lại Lạt-ma: Dĩ nhiên, dĩ nhiên. Chúng ta đang làm
việc hết sức mình như chúng tôi có thể làm. Chúng tôi đang chuẩn bị
nghiêm túc cho chính mình, chúng tôi dự tính toàn diện để tham gia vào
tình hình thế giới trong thế kỷ tới.
LÒNG TỪ BI LÀ BIỂU HIỆN CHÂN THỰC CỦA
TINH THẦN BẤT BẠO ĐỘNG
Bài giảng của Đức Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 ở Ấn Độ.
Ý tưởng của tôi về trách nhiệm toàn cầu có mối liên quan
với truyền thống tôn giáo cổ đại Ấn Độ. Là một tăng sĩ Phật giáo,
nên toàn bộ công phu tu tập của tôi có cội nguồn xuất phát từ nền văn
hóa của quốc gia vĩ đại nầy. Ông Morarji Desai, viết trong một lá thư
gởi cho tôi, mô tả một hình ảnh rất đẹp: »Cây Bồ-đề có hai nhánh, một
nhánh là Ấn Độ, và nhánh kia là Tây Tạng«. Từ quan điểm văn hóa và
tâm linh, chúng ta giống như là một thực thể. Về mặt cảm tính, tôi
cũng cảm thấy rất gần gũi với đất nước nầy. Trong thời cổ đại, từ
Ấn Độ đã xuất sinh nhiều nhà tư tưởng vĩ đại. Trí tuệ của các ngài
đã ban tặng rất nhiều cho sự tiến bộ tâm linh nhân loại. Ngay cả ngày
hôm nay, Ấn Độ là một niềm khích lệ vì tiếp cận được với nhiều lợi
thế lớn lao cho một nền dân chủ thịnh vượng.
Tư tưởng bất hại hay bất bạo động (non violence) là một tư tưởng mạnh
mẽ đã được Mahatma Gandhi phổ biến rộng rãi khắp cả thế giới. Bất
bạo động còn mang một điều gì có ý nghĩa hơn, tích cực hơn như thế
nữa. Biểu hiện chân thực của tinh thần bất bạo động là lòng từ bi.
Một số người dường như cho rằng lòng từ bi chỉ là một lối cảm xúc
thụ động được đáp ứng thay vì tác nhân kích thích hợp lý đến hành
động. Để trải nghiệm lòng từ bi chân thực, là phải có sự phát huy
cảm giác thân mật với người khác, kết hợp với ý thức trách nhiệm
đối với lợi lạc của họ. Lòng từ bi chân chính phát triển khi chính
chúng ta có ước nguyện đem sự an lạc đến và giải trừ khổ đau cho
người khác, và nhận thức rằng mọi người có quyền theo đuổi mục tiêu
nầy.
Lòng từ bi thúc giục chúng ta tiếp xúc với tất cả các loài
hữu tình, gồm cả giới được gọi là kẻ thù, những người gây rối và
não hại chúng ta. Bất chấp những gì họ đã gây nên cho các bạn, nếu
như các bạn nghĩ rằng mọi chúng sinh như bạn đều chỉ có một nỗ lực
để được sống an vui, thì các bạn sẽ tìm ra được phương cách dễ dàng
hơn nhiều để phát triển lòng từ bi về phía họ. Ý thức về lòng từ bi
thường thường bị hạn cuộc và thiên vị. Chúng ta chỉ ban rãi tình cảm
nầy đến cho gia đình và bạn bè ta, hoặc những người giúp đỡ mình
nhiều hơn. Người mà ta xem như kẻ thù và những người xa lạ là chúng
ta có sự phân biệt ngay và gạt ra khỏi mối quan tâm của ta. Đó không
phải là lòng từ bi chân chính. Lòng từ bi chân thực là phổ quát trong
cả không gian. Nó được đồng hành bởi cảm giác trách nhiệm. Để thực
hành hạnh lợi tha, không chỉ quan tâm đến lợi hại của người khác, với
tính không vị kỷ hoặc động cơ kín đáo, chính là xác định một ý thức
trách nhiệm về toàn thể.
Là một tăng sĩ Phật giáo, sự tu dưỡng tâm từ bi là một phần
quan trọng trong công phu hàng ngày. Thiền quán, một dạng công phu chỉ
liên quan đến việc ngồi tĩnh tâm ở trong phòng, công phu ấy rất tốt và
lợi ích, nhưng mục tiêu chân chính của tu dưỡng lòng từ bi là phát huy
nỗ lực nghĩ đến tha nhân và làm gì đó lợi lạc cho họ. Chẳng hạn, là
một Đạt-lại Lạt-ma, tôi có trách nhiệm đối với đồng bào Phật tử
của tôi, một số đang sống lưu vong và một số còn sống trong nước Tây
Tạng. Trách nhiệm nầy có nghĩa là tôi phải đương đầu và giải quyết
rất nhiều vấn đề.
Chắc chắn là thiền quán thì dễ hơn thực sự làm điều gì đó
cho mọi người. Đôi khi tôi thấy rằng chỉ quán chiếu về lòng từ bi là
chọn lựa một phương pháp thụ động. Công phu thiền quán của chúng ta
nên phát xuất từ nền tảng của hành động, là nắm bắt cơ hội để thực
hành. Động cơ của thiền giả; ý thức trách nhiệm toàn cầu, nên được
biểu hiện thực sự. Dù chúng ta là người giàu hay nghèo, có học hay
mê muội, bất luận quốc tịch, sắc tộc, hay tình trạng xã hội, hay ý
thức hệ nào, thì mục đích của đời sống chúng ta là mong ước được
hạnh phúc. Do điều nầy, sự phát triển vật chất đóng một vai trò quan
trọng để gieo trồng một sự phát triển trong tương quan nội tại. Trừ
phi tâm ta được vững chãi và an tịnh, thì bất luận mọi điều kiện
thuận lợi về vật chất nào có lẽ đều sẽ mang đến cho ta những điều
không an lạc. Do vậy, chìa khóa của cuộc sống hạnh phúc, cho bây giờ
và tương lai, là phát triển tâm an lạc.
Một trong những cảm giác quấy nhiễu tâm an tịnh là lòng thù
hận. Chất hóa giải là lòng từ bi. Chúng ta đừng nên nghĩ về lòng từ
bi chỉ hiện hữu trong phạm vi thần bí hoặc tôn giáo. Đó là một trong
những phẩm chất cơ bản của con người. Bản tính của loài người chủ
yếu là yêu thương và hòa dịu. Tôi không đồng ý với những người cho
rằng loài người có bản tính hung hãn, cho dù sự biểu lộ khá phổ
biến của tình trạng chống đối và thù hận nhau khắp trên thế giới.
Ngay từ thuở mới sinh ra, chúng ta đã cần có tình thương và sự trìu
mến. Đây là sự thật đối với tất cả chúng ta, ngay cho đến ngày chúng
ta từ giã cõi đời. Không có tình thương, chúng ta không thể sống còn.
Loài người là một sinh vật có tính xã hội và mối tương quan lẫn nhau
là tính chất rất căn bản của đời sống hợp quần. Nếu chúng ta dừng
lại để suy nghĩ, so sánh vô số hành vi từ ái mà ta tùy thuận và
những hành vi từ ái mà ta xem là đương nhiên, ta sẽ thấy được những
hành động thù nghịch tương đối ít. Để thấy được chân lý nầy, chúng ta
chỉ cần quan sát tình thương và lòng trìu mến từ cha mẹ thổ lộ qua con
cái và những hành vi yêu thương và chăm sóc mà ta xem là đương nhiên.
Sự nôn nóng có vẻ như ban tặng một lực đẩy để thực hiện
mọi việc, nhưng nhận thức như thế về toàn cảnh thế giới thì rất lầm
lạc. Chỉ có điều chắc chắn là, sự nóng giận và thù hằn đó là sự
phá hủy, không có điều thiện nào đến từ nóng giận và hận thù. Nếu
chúng ta tiếp tục sống một cuộc đời được điều động bởi hằn thù và
nóng giận, ngay cả thể lực của ta cũng bị xấu đi. Mặt khác, những
người duy trì được sự tĩnh tâm và lòng bao dung, xuất phát bởi lòng
từ bi thì tâm họ thoát khỏi mọi lo âu và thể chất được mạnh khỏe.
Lúc mà mọi người đều chú tâm vào việc duy trì thể chất được
mạnh khỏe bằng cách ăn kiêng, tập thể dục... nó cũng tạo nên ý thức
cố gắng vun trồng vị trí tương quan với phong thái tâm linh.
Từ lâu tôi đã đề cập đến quan điểm tích cực có thể ảnh
hưởng đến một cá nhân. Đó cũng là sự thực khi một xã hội càng thấm
nhuần lòng từ bi, thì những thành viên trong đó càng có hạnh phúc hơn.
Sự phát triển xã hội con người hoàn toàn căn cứ vào sự giúp đỡ lẫn
nhau giữa mọi người. Mỗi cá nhân có trách nhiệm giúp đỡ, hướng dẫn
cộng đồng theo chiều hướng tốt và chúng ta phải thừa nhận trách
nhiệm đó của mỗi thành viên. Nếu chúng ta đánh mất yếu tính nhân bản
nầy như chính là nền tảng của chúng ta, thì toàn thể xã hội sẽ suy
sụp.
Thế từ quan điểm nào mà ta theo đuổi sự phát triển vật chất
và chúng ta đòi hỏi nhân quyền với ai? Hành động xuất phát từ lòng
từ bi và trách nhiệm rốt ráo sẽ mang đến kết quả tốt. Nóng giận và
đố kỵ sẽ có ảnh hưởng chỉ trong thời gian ngắn, nhưng rốt cục chỉ
mang đến cho ta sự ưu phiền.
Sợ hãi là một chướng ngại chính khác đối với sự phát triển
tâm linh nội tại. Sợ hãi sinh khởi khi chúng ta nhìn mọi người khác
với sự ngờ vực. Chính lòng từ bi tạo nên ý thức về sự tin cậy cho
phép chúng ta cởi mở với người khác và tiết lộ mọi vấn nạn, nghi
ngờ và do dự. Không có lòng từ bi, chúng ta không thể cộng thông với
mỗi người một cách chân thực và cởi mở. Do vậy, phát triển lòng từ
bi là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để giảm trừ sợ hãi.
Từ bi là phẩm chất cơ bản của con người, thế nên sự phát
triển của nó không giới hạn trong những người tu tập. Tuy nhiên, truyền
thống tôn giáo có một vai trò đặc biệt để khuyến khích cho sự phát
triển nầy. Yếu tố chung trong các tôn giáo là, dù có bất kỳ sự khác
biệt nào về triết học, sự tương quan chủ yếu vẫn là sự trợ giúp cho
tín đồ của mình trở thành con người hoàn thiện hơn. Theo đó, mọi tôn
giáo đều khuyến khích thực hành lòng từ bi, lòng bao dung và quan tâm
đến người khác. Đây là lý do tôi nhận thấy những cuộc đấu tranh xuất
phát từ sự kỳ thị tôn giáo là đáng buồn và vô nghĩa.
Niềm tin của tôi, và nói chung của cả thế giới, là xem lòng
từ bi quan trọng hơn »tín ngưỡng«. Dân số trên hành tinh chúng ta có hơn
năm tỷ người. Trong số này, có lẽ có một tỷ người thực hành và có
lòng tin chí thành vào một nghi thức tôn giáo. Bốn tỷ còn lại không
phải là những tín đồ với ý nghĩa chân chính. Nếu chúng ta xem sự phát
huy lòng từ bi và những phẩm chất tốt lành khác không như là công
việc riêng của tôn giáo, thì hơn bốn tỷ người kia (chiếm đa số), sẽ bị
loại trừ. Chúng ta như là huynh đệ của nhau, là thành viên của một gia
đình vĩ đại, mỗi người trong cộng đồng nầy đều có tiềm năng để làm
tăng trưởng bởi nhu cầu của lòng từ bi được phát triển và nuôi lớn
mà không cần phải theo một tôn giáo nào hay cần phải thực hành một
pháp tu đặc biệt nào cả. Ngày hôm nay, chúng ta phải đối diện với
những vấn đề toàn cầu như nghèo đói, thặng dư dân số. Và sự phá hủy
môi trường. Đây là những vấn đề mà chúng ta phải cùng nhau trao đổi,
không có một cộng đồng đơn độc hoặc một quốc gia riêng lẻ nào có thể
hy vọng giải quyết riêng các vấn đề ấy được. Điều nầy biểu hiện
phương cách mà thế giới chúng ta trở nên tương duyên với nhau hơn. Nền
kinh tế toàn cầu cũng trở nên hợp nhất một cách mạnh mẽ hơn, đến
nỗi kết quả cuộc bầu cử của một quốc gia cũng có thể ảnh hưởng
đến thị trường chứng khoán của các nước khác.
Thời cổ đại, mỗi làng nhiều ít đều có tính chất tự túc và
độc lập. Không có nhu cầu cũng như không có mong muốn hợp tác với
những đơn vị khác bên ngoài làng của mình. Họ sống bằng cách làm
những điều mình cần. Tình thế ngày nay đã hoàn toàn đổi khác. Chỉ
nghĩ về những điều thuộc về riêng quốc gia hay quê hương mình thì cũng
đã trở nên lạc hậu, đừng nói gì đến làng mình. Trách nhiệm toàn thể
là chìa khóa chân thực để vượt qua mọi vấn đề của chúng ta hiện nay.
Nước Ấn Độ tân tiến đang đương đầu với rất nhiều vấn đề. Những sáng
kiến và ý tưởng mới sẽ đánh giá cao tầm mức và di sản của đất
nước. Ấn Độ không những có trách nhiệm bảo đảm hạnh phúc tương lai
cho dân tộc của riêng mình, mà còn cung ứng những nhà lãnh đạo tinh
thần cho thế giới nữa. Khi Ấn Độ đấu tranh giành tự do thì những cá
nhân thực sự quan tâm đến hạnh phúc của loài người sẽ tìm đến bằng
sự hy sinh cá nhân to lớn để đón nhận sự dẫn dắt tâm linh. Họ đã có
sẵn tinh thần can đảm và quả quyết để đương đầu với gian nguy. Ngày
nay, có lẽ có nhiều hơn trong quá khứ, có một nhu cầu lớn lao về
loại người chân chính và sẵn sàng dâng hiến như vậy. Đây không phải là
thời của những con người đắm mình trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc hẹp
hòi riêng tư. Ấn Độ cần những con người có thể hợp nhất di sản tâm
linh phong phú của mình với thế giới hiện đại, và cần những người can
đảm từ bỏ tức khắc những mối bận tâm riêng tư để hướng về sự toàn
thiện vĩ đại. Đây chính là biểu tượng chính xác nhất về tính trách
nhiệm toàn cầu.
NHÂN DUYÊN SINH
L.G.T: Bài giảng nầy gồm hai đề tài: »Nhân duyên sinh«
(Depending Arising) và »Tam độc« (The Three Poisons) được đức Đạt-lại
Lạt-ma thứ 14 Tenzin Gyalso trình bày bằng tiếng Tây Tạng, Giáo sư
Jeffrey Hopkins thuộc viện đại học Virginia, Hoa Kỳ dịch sang tiếng Anh
và được Nhà xuất bản Wisdom Publications ấn hành năm 1992.
Nhân duyên sinh là
triết học phổ thông trong tất cả các hệ thống Phật học, mặc dù có
rất nhiều cách giải thích khác nhau về nó. Trong thuật ngữ Sanskrit,
pratītyasamutpāda được chỉ cho »nhân duyên sinh«. Trong đó, chữ pratiya có
ba nghĩa khác nhau: gặp gỡ, dựa vào và tùy thuộc – nhưng trong cả ba
nghĩa ấy, trong phạm trù ý nghĩa căn bản, thì nó có nghĩa là tùy
thuộc. Samutpada có nghĩa là sinh khởi. Bởi vậy, ý nghĩa của
Pratītyasamutpāda là sự sinh khởi tùy thuộc vào những điều kiện, nhờ
vào nhiều điều kiện và thông qua lực tác động của các điều kiện
khác nhau. Trên bình diện vi tế, đó là sự giải thích lý do chính tại
sao các hiện tượng không tồn tại trên cơ sở tự tính.
Khi đức Phật đưa ra thuyết 12 nhân duyên, là Ngài nói từ cái
nhìn siêu tuyệt và với ý nghĩa vô cùng rộng lớn. Ngài dạy 12 nhân
duyên trong kinh Đạo can rất chi tiết, vì
trong các bài pháp khác, trong bối cảnh đức Phật trả lời khi có thính
chúng đặt vấn đề. Trong kinh nầy, đức Phật nói về nhân duyên sinh trong
ba cách:
Do sự hiện hữu của cái nầy, mà cái kia sinh khởi
Do sự sinh ra của cái nầy, nên cái kia được sinh ra.
Có nghĩa như thế nầy: Do vô minh
mà có hành (hành động tạo
tác), do hành nên có thức, do thức nên có
danh sắc, do danh sắc nên
có lục nhập, do lục nhập nên
có xúc, do xúc nên có
thọ, do thọ nên có
ái, do ái nên sinh
thủ, do thủ nên sinh
ra hữu (bình diện tiềm
ẩn của nghiệp), do có hữu nên có sinh và do có sinh nên
có lão tử.
Trong dòng đầu tiên, đức Phật nói: »Do sự hiện hữu của cái
nầy mà cái kia sinh khởi«. Đức Phật muốn xác định rằng vòng sinh
khởi luân hồi của các hiện tượng không thông qua một lực siêu nhiên bởi
một vị thần thường hằng vĩnh cửu mà do một chuỗi những điều kiện
đặc biệt. Chỉ do sự hiện hữu của các nhân và duyên đặc biệt nầy mà
có sự sinh khởi thành các kết quả đặc biệt.
Trong dòng thứ hai, khi đức Phật nói:
»Do sự sinh ra của cái nầy nên cái kia được sinh ra«
Đức Phật nhằm xác định rằng một hiện tượng thường tại,
không sinh khởi như một bản chất chung như tư tưởng mà hệ phái Số luận chủ trương thì
không thể lập nên một chức năng tạo ra kết quả (là cái kia) được.
Đúng hơn, vòng triển chuyển luân hồi của các hiện tượng sinh khởi từ
nhân duyên vốn là vô thường từ trong bản chất.
Như thế sẽ phát sinh một vấn đề: nếu vòng triển chuyển luân
hồi của các hiện tượng được sinh ra từ các điều kiện mang tính vô
thường, liệu các hiện tượng ấy có được sinh ra chỉ từ bất kỳ yếu
tố vô thường nào đó chăng? Yếu tố nầy chắc là sẽ không đủ. Vậy nên,
trong ý thứ ba, đức Phật xác định rằng vòng triển chuyển luân hồi
của các hiện tượng không chỉ phát sinh chỉ từ bất kỳ yếu tố nhân
duyên vô thường nào đó, mà đúng hơn, phát sinh từ những nhân duyên đặc
biệt có tiềm năng tạo nên sự sinh khởi các hiện tượng đặc biệt.
Khi đưa ra vấn đề duyên sinh của khổ, đức Phật muốn hiển bày
cái khổ ấy có sự mê mờ như là nguyên nhân cội gốc. Hạt giống bất
tịnh, mê lầm nầy tạo tác nên hành động lưu giữ trong tâm thức một
tiềm lực khiến sẽ phát khởi nỗi khổ do tái sinh thân mới trong vòng
luân hồi sinh tử. Cuối cùng, kết quả kéo dài đến khâu cuối cùng của
vòng nhân duyên sinh, cái khổ của lão tử.
Với cái nhìn về mười hai nhân duyên, căn bản có hai cách giải
thích, một là trong chiều hướng nhiễm ô phiền não, và một cách khác
theo chiều hướng thanh tịnh. Ngay trong Tứ diệu đế là giáo lý căn bản
của đạo Phật, cũng có hai chiều hướng về nguyên nhân và kết quả, một
chiều hướng do thành phần nhiễm ô của các hiện tượng và chiều hướng
khác do thành phần thanh tịnh, nên ở đây, pháp mười hai nhân duyên đều
có những tiến trình liên quan đến cả hai hiện tượng nhiễm ô và thanh
tịnh. Từ trong Tứ Diệu Đế, khổ đế – chân lý thứ nhất – là bị ảnh
hưởng của chiều hướng nhiễm ô của thế giới hiện tượng. Và tập đế
chân lý thứ hai, là nguyên nhân của khổ đế. Trong chiều hướng thanh
tịnh của hiện tượng giới và diệt đế – chân lý thứ ba là do ảnh
hưởng từ chiều hướng thanh tịnh, và đạo đế, chân lý thứ tư – là
nguyên nhân của diệt đế.
Tương tự, khi giải thích mười hai nhân duyên, nhờ có điều kiện
là vô minh mà hành sinh khởi và cứ thế... đó là cách giải thích theo
chiều hướng nhiễm ô, và khi được giải thích nhờ vào sự chuyển hóa vô
minh mà hành không sinh khởi, và cứ thế... là theo chiều hướng thanh
tịnh. Cách giải thích thứ nhất theo tiến trình sinh khởi của khổ, cách
thứ hai theo tiến trình chuyển hóa của khổ.
Để lập lại. Mười hai nhân duyên xuất phát từ tiến trình nhiễm
ô phiền não và xuất phát từ tiến trình thanh tịnh hóa. Và mỗi tiến
trình được trình bày theo thứ tự thuận và nghịch.
Như vậy, theo tiến trình thuận, mười hai nhân duyên được giải
thích như sau:
Do nhân duyên vô minh, nên hành sinh khởi
Do nhân duyên là hành, nên thức sinh khởi
Do nhân duyên là thức, nên danh sắc sinh khởi
Do nhân duyên là danh sắc, nên lục nhập sinh khởi
Do nhân duyên là lục nhập, nên xúc sinh khởi
Do nhân duyên là xúc, nên thọ sinh khởi
Do nhân duyên là thọ, nên ái sinh khởi
Do nhân duyên là ái, nên thủ sinh khởi
Do nhân duyên là thủ, nên gọi là hữu (bình diện tiềm ẩn của
nghiệp), sinh khởi.
Do nhân duyên là hữu, mà sinh sinh khởi
Do nhân duyên của sinh, mà lão tử sinh khởi
Vì lối này nhằm vào diễn đạt cách mà khổ được phát sinh,
đó là cách giải thích nguồn gốc tại sao mà khổ được hiện hành. Trong
chiều nghịch, mười hai nhân duyên được giải thích như sau:
Cái khổ không mong muốn (lão tư)û, được phát khởi tùy thuộc
vào sự hiện hữu của yếu tố sinh..
Yếu tố sinh được phát khởi tùy thuộc vào bình diện tiềm ẩn
của nghiệp được gọi là hữu
Hữu phát sinh tùy thuộc vào thủ
Thủ phát sinh tùy thuộc vào ái
Ái phát sinh tùy thuộc vào thọ
Thọ phát sinh tùy thuộc vào xúc
Xúc phát sinh tùy thuộc vào lục nhập
Lục nhập phát sinh tùy thuộc vào danh sắc
Danh sắc phát sinh tùy thuộc vào thức
Thức phát sinh tùy thuộc vào hành
Hành phát sinh tùy thuộc vào vô minh.
Ở đây nhấn mạnh vào chân lý thứ nhất trong Tứ diệu đế, chính
khổ đế là quả.
Thế nên trong tiến trình thanh tịnh hóa,
mười hai nhân duyên được giải thích như sau:
Khi vô minh đã được chuyển hóa thanh tịnh rồi thì hành không
còn sinh khởi
Khi hành diệt thì thức diệt
Khi thức diệt thì danh sắc diệt
Khi danh sắc diệt thì lục nhập diệt
Khi lục nhập diệt thì xúc diệt
Khi xúc diệt thì thọ diệt
Khi thọ diệt thì ái diệt
Khi ái diệt thì thủ diệt
Khi thủ diệt thì bình diện tiềm ẩn tạo nghiệp gọi là »hữu«
diệt
Khi »hữu« diệt, thì sinh không hiện hành
Khi sinh không hiện hành thì lão tử diệt.
Cách giải thích nầy nhắm đến chiều hướng thanh tịnh hóa các
hiện tượng, nhấn mạnh vào nguyên nhân, đó là đạo đế trong Tứ diệu
đế.
Theo thứ tự chiều nghịch, có thể giải thích: Tiến trình
chuyển hóa (nguyên nhân) sinh khởi của lão tử là tùy thuộc vào sự
tiêu diệt tiến trình sinh.
Tiến trình sinh được chuyển hóa tùy thuộc vào sự tiêu diệt
bình diện tiềm ẩn của nghiệp được gọi là hữu.
Sự chuyển hóa của »hữu« có được là tùy thuộc vào sự tiêu
diệt của thủ.
Sự chuyển hóa của thủ có được là nhờ vào sự tiêu diệt của
ái
Sự chuyển hóa của ái có được là nhờ vào sự tiêu diệt của
thọ.
Sự chuyển hóa của thọ có được là nhờ vào sự tiêu diệt của
xúc.
Sự chuyển hóa của xúc có được là nhờ vào sự tiêu diệt của
lục nhập.
Sự chuyển hóa của lục nhập có được là nhờ sự tiêu diệt
của danh sắc.
Sự chuyển hóa của danh sắc có được là nhờ sự tiêu diệt của
hành.
Sự chuyển hóa của hành có được là nhờ sự tiêu diệt của vô
minh.
Ở đây, các tiến trình ấy được miêu tả qua một bức tranh gọi
là bánh xe luân hồi gồm năm ngăn. Cảnh giới của các vị Thiện thần và
Á thần
được mô tả cùng trong một ngăn, cảnh giới của loài người
được mô tả trong một ngăn. Hai ngăn nầy hàm nghĩa sự luân chuyển theo
chiều hướng thiện lành, an lạc, được mô tả ở phần trên của bánh xe
luân hồi. Ba ngăn còn lại được bố trí ở phần nửa dưới của bánh xe,
hàm nghĩa sự tái sinh ở các cảnh giới thấp kém và khổ cực – đó là
cảnh giới của loài vật, quỷ đói và địa ngục. Tất cả các ngăn nầy
đều biểu tượng cho các bình diện khổ trong tiến trình sinh khởi.
BA MÓN ĐỘC
Vòng tròn được mô tả bên
trong có năm ngăn biểu tượng cho sự sinh hoạt ở các cảnh giới là
những bình diện khác nhau của khổ, được phát sinh qua nghiệp đã tạo (karma).
Vòng tròn có hai phần. Nửa phần ở phía trên, có nền màu trắng, với
hình vẽ con người nhìn và di chuyển hướng lên phía trên, biểu tượng cho
các nghiệp thiện lành. Có hai dạng, chí thiện và kiên định, những
nghiệp như vậy có nghĩa là sẽ thọ nhận cuộc sống là người, á thần,
hay thiện thần. Nửa phần kia của vòng tròn, có nền màu xám, với
những hình người hướng xuống dưới, biểu tượng cho nghiệp bất thiện,
bắt buộc phải thọ thân trong những cảnh giới thấp kém hơn.
Từ yếu tố nào mà những
nghiệp nầy được xem là nguồn gốc tạo thành nỗi khổ? Xuất phát từ
một nguồn gốc xa hơn của sự khổ đau – đó là tham muốn, sân hận và si
mê được trình bày ở phần trung tâm nhất của vòng tròn, nơi có một con
heo, một con rắn, một con gà trống quấn quít nhau (miệng con vật nầy
ngậm đuôi con vật kia, tạo thành một vòng tròn). Con heo biểu tượng cho
si mê, con rắn biểu tượng cho sự sân hận, con gà biểu tượng cho lòng
tham lam.
Trong một vài phiên bản
khác, đuôi của con gà trống và đuôi rắn được ngậm bởi con heo, biểu
tượng rằng tham lam và sân hận có cùng gốc rễ là si mê. Cũng vậy,
đuôi của con heo lại được gà và rắn ngậm biểu tượng mỗi thể hiện
của tham, sân, sẽ tác động lại vào sự phát sinh của si mê (vô minh).
Biểu tượng của ba vòng
tròn nầy, từ trong ra ngoài, là tướng trạng của ba món độc: tham, sân
và si (vô minh), khiến tạo nên các nghiệp thiện và bất thiện, mà đến
lúc, sẽ tái hiện nên những bình diện khổ khác nhau trong cuộc luân hồi
sinh tử. Vành ngoài biểu tượng cho mười hai nhân duyên, giải thích thế
nào là nguồn gốc của khổ – nghiệp và ba món độc – tạo nên sự sống
trong vòng sinh tử luân hồi – vị ác thần (ma vương) ngậm bánh xe biểu
tượng cho vô thường. Tôi nói có vẻ khôi hài, vì đó không phải là biểu
tượng của vị thần sáng tạo!
Điểm cốt yếu là biểu
tượng về vô thường, đây là lý do có vị ác thần phẫn nộ miệng ngậm
vòng tròn, mặc dù không cần phải trang hoàng hình ảnh như vậy ở nơi
đây. Có lần tôi nhờ người vẽ một bức tranh như vậy, trình bày với bố
cục nền là một vị thần chỉ để biểu tượng rõ nét hơn về vô thường.
Mặt trăng ở phía góc phải
biểu tượng cho sự giải thoát. Hình ảnh đức Phật ở bên trái đang chỉ
mặt trăng, biểu tượng rằng sự giải thoát sẽ giúp cho con người vượt
qua biển khổ luân hồi sinh tử, là điều mọi người nên thực chứng.
Nhìn về lịch sử của bức
tranh nầy, vào thời đức Phật Thích-ca Mâu-ni còn tại thế, một vị vua
trị vì một lãnh thổ xa xôi, tên Ưu-điền
(udyana) gởi tặng quốc vương Tần-bà-sa-la (Bimbisara) nước
Ma-kiệt-đà (magadha) một món quà là chiếc
ngự bào bằng ngọc quý. Quốc vương Ma-kiệt-đà không tìm ra một món quà nào có giá trị
tương xứng để tặng lại vua Ưu-điền. Quốc vương Tần-bà-sa-la (s: Bimbisāra) lo nghĩ rất nhiều, bèn đến thỉnh ý đức
Phật. Đức Phật bảo rằng Quốc vương nên cho người vẽ một vòng luân hồi
có năm ngăn và gởi kèm theo bài kệ nầy:
Hành trì theo giáo lý của đức Phật
Thực hành điều thiện và từ bỏ việc ác
Sẽ phá được thế lực của thần chết.
Cũng như con voi phá ngôi nhà tranh.
Những người thường chú tâm tinh tấn
Thực
hành giáo lý tinh nghiêm nầy.
Nhờ
chuyển hoá luân hồi sinh tử
Nên
khổ đau sẽ được tiêu trầm.
Mười hai nhân duyên được biểu tượng bằng
mười hai hình ảnh bố trí quanh vòng ngoài. Trước hết, trên đỉnh, là
một người già cả, mù lòa đang chống gậy – biểu tượng cho vô minh, là
nhân duyên thứ nhất. Trong ngữ cảnh nầy, vô minh là sự tối tăm mê muội
– đặc biệt đối với dạng thực tế sống động của các hiện tượng. Vì
từ đó, các trường phái triết học Phật giáo có bốn hệ thống giáo
lý chính và trong những trường phái nầy, lại còn có nhiều hệ phái
khác nhau, có rất nhiều cách hiểu vô minh là gì? Không những chúng ta
không có thời gian để thảo luận về tất cả các giáo lý nầy, mà cả
tôi cũng không nhớ hết được các giáo lý ấy.
Nói chung, đối với vô minh, có một yếu
tố chính là bất khả tri về cách mà các pháp hiện hữu, một yếu tố
không gì hơn là tối tăm mê muội. Cũng thế, trong kinh luận có diễn tả
19 loại khác nhau của vô minh – những thứ tà kiến liên quan đến các
cực đoan. Tuy nhiên, trong phạm trù 12 nhân duyên trong bài nầy, vô minh
được giải thích như là tâm thức điên đảo dẫn đến nhận thức sai lầm về
cách mà các pháp thực sự hiện hữu như thế nào.
Vô minh là chủ tể của các món độc mà
chúng ta đang xác định để loại trừ, mỗi món độc có hai dạng: bẩm
sinh và thu thập qua tri thức hiểu biết. Các món độc do tri thức hiểu
biết xuất phát từ sự thiếu sự thâm nhập tường tận vào hệ thống các
giáo lý, dẫn đến tình trạng tâm thức quy lỗi hay tạo nên những phiền
não mới thông qua khái niệm. Đây không phải là những món độc mà các
loài hữu tình thường có và không thể là cái mà ở ngay căn để của sự
hoại diệt của từng sinh thể. Cái sau mới là bẩm sinh.
Như Bồ-tát Long Thọ phát biểu trong »Thất thập không tính luận tụng«:
»Những pháp được nhận biết
qua tâm thức – được phát sinh nhờ vào các nhân duyên – cho đến sự hiện
hữu tuyệt đối (của các pháp). Đều được đức Phật nói là do vô minh.
Từ đó mà mười hai nhân duyên sinh khởi.«
VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG TÍNH ĐẠO ĐỨC
TRONG MỐI TƯƠNG QUAN VỚI SỰ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Nguy cơ đối với hòa bình và
sự tồn tại của sự sống trên trái đất, như chúng ta biết, đó là sự
báo trước về hành vi của con người trong việc thiếu tôn trọng những
giá trị nhân văn.
Sự phá hủy bản chất và
tài nguyên thiên nhiên là kết quả của vô minh, lòng tham và thiếu sự
quý trọng đời sống sinh vật trên trái đất.
Sự thiếu quý trọng này lan
đến ngay cả hậu duệ của con người trên trái đất: thế hệ tương lai sẽ
thừa hưởng một hành tinh mênh mông bị xuống cấp nếu hòa bình thế giới
không trở thành một hiện thực, và sự phá hủy môi trường tự nhiên vẫn
tiếp tục với mức độ như hiện nay.
Tổ tiên chúng ta đã có quan
niệm trái đất nầy giàu có và phong nhiêu, như nó đang là. Nhiều người
trong quá khứ cũng đã thấy thiên nhiên có khả năng chịu đựng vô hạn,
như bây giờ ta thấy được qua trường hợp nếu ta biết chăm sóc cẩn thận
đến trái đất. Không dễ tha thứ sự hủy hoại trong quá khứ mà kết quả
là do sự vô minh. Ngày nay, tuy vậy, chúng ta đã tiếp nhận được nhiều
thông tin, và rất thiết yếu để chúng ta khảo sát lại một cách thẳng
thắn những gì ta thừa kế được, những gì ta phải chịu trách nhiệm và
những gì chúng ta sẽ vượt qua để tiến đến thời kỳ phát triển.
Rõ ràng đây là thời kỳ
phát triển then chốt. Thông tin trên toàn cầu đã dễ dàng. Vậy mà
những cuộc đối đầu lại xảy ra thường xuyên hơn là những cuộc đối
thoại có ý nghĩa (cho hòa bình), đáng lẽ sẽ được diễn ra.
Các kỳ tích về khoa học và
kỹ thuật sẽ xứng hợp nếu không bị quá tải bởi quá nhiều bi kịch
hiện thời, như nạn đói trên một phần thế giới, nạn diệt chủng một
số sinh vật trên trái đất.
Sự khám phá không gian bên
ngoài diễn ra trong lúc những vùng đại dương, biển, nước sạch chính
trong lòng đất bị gia tăng ô nhiễm. Và những dạng sinh thể khác của
trái đất chưa được biết và hiểu đến.
Nhiều cư dân, sinh vật, thảo
mộc, côn trùng và cả những loài vi sinh vật mà ta biết là hiếm, có
lẽ đến thế hệ tương lai chẳng thể nào biết được. Chúng ta có năng
lực và trách nhiệm. Chúng ta phải hành động trước khi quá trễ.
(Bài phát biểu tại Hội nghị công nhận ngày Môi trường
Quốc tế 5.6.1986)
SINH THÁI HỌC VÀ TẤM LÒNG CON NGƯỜI
Theo giáo lý đạo Phật, có
sự tùy thuộc mật thiết lẫn nhau giữa môi trường thiên nhiên và các
loài sinh vật sống trong môi trường đó. Một số bạn tôi vừa nói rằng,
về cơ bản, bản chất con người có chút ít tính bạo động, nhưng tôi nói
với họ tôi không đồng ý. Nếu chúng ta khảo sát những loài vật khác
nhau, chẳng hạn như cọp hay sư tử, chúng ta biết rằng bản tính đã phú
cho chúng răng nanh và móng vuốt. Những loài vật hiền từ, như hươu nai,
thuần túy ăn cỏ thì dịu dàng hơn, có răng nhỏ hơn và không có móng
vuốt. Từ cái nhìn này, chúng ta là loài người, có một bản chất không
bạo động. Như đối với vấn đề tồn tại của con người thì loài người
vốn có bản chất bất bạo động. Để tồn tại, chúng ta cần phải sống
hợp quần. Không có người khác, thì đơn giản là ta không thể sống còn
được, đó là luật tự nhiên. Do đó tôi tin một cách sâu sắc bản tính con
người vốn là dịu dàng, tôi cảm thấy chúng ta không những nên duy trì
tính dịu dàng, quan hệ hiền hòa với bạn hữu là loài người mà cũng
là rất quan trọng cần phải trải rộng lòng hiền hòa đó đối với môi
trường thiên nhiên nữa. Nói một cách đạo lý, chúng ta nên quan tâm đến
toàn thể môi trường chung quanh.
Đến đây lại có một quan
niệm khác, không chỉ là vấn đề đạo đức mà là vấn đề sinh tồn của
chính mình. Môi trường rất quan trọng không chỉ cho thế hệ nầy mà còn
quan trọng đối với thế hệ tương lai.
Nếu chúng ta khai thác quá
mức những lợi ích khác từ môi trường bây giờ, thì trong lâu dài, chính
chúng ta sẽ chịu đau khổ và các điều kiện sống cũng sẽ thay đổi. Khi
chúng thay đổi một cách thảm hại, thì kinh tế và nhiều thứ khác cũng
thay đổi theo. Ngay cả sức khỏe thể chất của ta cũng chịu ảnh hưởng
rất lớn, nên đây không chỉ là vấn đề đạo đức, mà còn là vấn đề sinh
tồn của chính chúng ta.
Do vậy, để thành công trong
việc bảo vệ và giữ gìn môi trường thiên nhiên, tôi nghĩ điều quan trọng
nhất trong tất cả là thiết lập một sự quân bình nội tại bên trong
chính con người. Sự lạm dụng của mỗi người, có kết quả đe dọa như
thế đối với cộng đồng nhân loại, đã phát sinh từ sự thiếu hiểu biết
về tầm quan trọng của môi trường. Tôi nghĩ là rất thiết yếu cần phải
giúp đỡ mọi người hiểu biết về tầm quan trọng nầy. Chúng ta cần
phải giáo dục cho mọi người biết rằng môi trường có một sự phát sinh
trực tiếp cho lợi lạc của chúng ta.
Tôi luôn luôn nói về tầm
quan trọng của lòng từ bi. Như tôi đã nói trước đây, dù ngay trong quan
niệm ích kỷ của mình, các bạn vẫn cần đến người khác. Thế nên nếu
bạn mở rộng sự quan tâm đến lợi lạc của người khác, chia xẻ đau khổ
của người khác và giúp đỡ họ, thì rốt cục, các bạn cũng được lợi
lạc. Nếu các bạn chỉ nghĩ đến mình và quên bẵng người khác, rốt cục
các bạn sẽ bị thiệt thòi. Đó cũng là một điều như luật tự nhiên.
Điều ấy hoàn toàn đơn
giản: nếu các bạn không mỉm cười với mọi người, mà nhăn mặt khi thấy
họ, thì họ cũng sẽ đáp lại tương tự. Phải không? Nếu các bạn cư xử
với mọi người bằng một phong thái rất thân mật, cởi mở, thì họ cũng
sẽ đối xử lại với mình như vậy. Mọi người đều muốn có bạn chứ không
muốn có kẻ thù. Cách hay nhất để tạo nên bằng hữu là có một tấm
lòng nhiệt thành, không phải chỉ là tiền hay quyền lực. Tình bạn có
được do tiền và do quyền lực là điều hoàn toàn khác: đó không phải
là tình bạn chân chính. Tình bạn chân thực phải thực sự là tình bạn
xuất phát từ tấm lòng. Phải vậy không? Tôi luôn luôn nói với mọi
người rằng những tình bạn đến khi bạn có tiền và quyền thế thì đó
không phải là tình bạn chân thực, đó chỉ là bạn của tiền và quyền
thế, vì ngay khi tiền và quyền lực biến mất, những người bạn nầy
cũng sẵn sàng ra đi. Họ không đáng tin chút nào.
Tình bạn chân thực gắn bó
với các bạn dù bạn thành công hay bất hạnh, và luôn luôn chia xẻ với
bạn nỗi buồn và phiền muộn. Cách để tạo được tình bạn như thế không
phải bằng sự nóng giận, cũng chẳng phải nhờ có học hay thông minh,
mà nhờ có được tấm lòng thánh thiện.
Suy xét sâu sắc hơn, nếu
các bạn phải ích kỷ, thì hãy ích kỷ một cách khôn ngoan, đừng ích kỷ
với một tâm lượng thiển cận. Vấn đề then chốt là ý thức về trách
nhiệm với toàn thể cõi người, đó là cội nguồn đích thực của sức
mạnh, cội nguồn đích thực của hạnh phúc. Nếu thế hệ chúng ta khai
thác triệt để mọi thứ dùng được – như cây cối, nước, và khoáng sản –
không chút lo lắng cho thế hệ mai sau, thế là chúng ta đã sai lầm, có
phải vậy không? Nhưng nếu chúng ta có một ý thức chân chính về trách
nhiệm đối với toàn thể như một động lực trọng tâm của chúng ta thì
sự liên hệ của chúng ta với môi trường sẽ được quân bình, và sự liên
hệ với láng giềng, với những người trong nước và ngoài nước cũng
đều sẽ được cải thiện.
Vấn đề quan trọng khác là:
Cái gì là ý thức? Cái gì là tấm lòng? Ở thế giới Tây phương, trong
suốt một hay hai thế kỷ vừa qua đã có sự chú trọng rất lớn vào khoa
học và kỹ thuật, là điều liên quan rất lớn với vấn đề. Ngày nay,
một số nhà vật lý hạt nhân và các nhà thần kinh học nói rằng khi
khảo sát các hạt tử (particles) bằng một phương pháp rất chi
tiết, sẽ thấy có một lực ảnh hưởng về phía người quan sát, tức là
cái biết.
Cái biết nầy là gì? Câu trả lời đơn giản là: Con người, là nhà khoa
học. Các nhà khoa học biết bằng cái gì? Bằng bộ não. Nhưng có đến
hằng trăm triệu tế bào trong não, mà các khoa học gia phương Tây chỉ
mới nhận ra được vài trăm tế bào mà thôi. Bây giờ, dù các bạn có
gọi đó là tâm, não hay ý thức, thì vẫn có sự liên quan giữa tâm và
não bộ và cũng là mối tương quan giữa tâm và vật. Tôi nghĩ điều ấy
rất quan trọng. Tôi thấy có thể nên tổ chức vài cuộc thảo luận về
triết học Đông phương và khoa học Tây phương trên cơ sở của sự liên hệ
nầy.
Trong mọi hoàn cảnh, ngày
nay con người chúng ta quan tâm rất nhiều đến ngoại giới, trong khi thờ
ơ hoàn toàn với thế giới nội tâm. Chúng ta rất cần sự phát triển
khoa học và vật chất để sinh tồn và gia tăng sự lợi ích và thịnh
vượng chung, nhưng song song với nhu cầu đó, chúng ta cũng cần rất
nhiều sự bình an tâm thức. Thế mà không một bác sĩ nào có thể chích
cho các bạn một mũi thuốc để tạo sự bình an tâm thức, và không có
một chợ nào bán sự bình an đó cho các bạn cả. Các bạn có thể mang
hàng triệu triệu đôla đến siêu thị để mua bất kỳ thứ gì, nhưng nếu
các bạn mang tiền đến đó để hỏi mua sự bình an tâm thức thì ta sẽ
cười bạn ngay. Và nếu các bạn đến yêu cầu một bác sĩ điều trị cho
bạn có được tâm bình an, thì bác sĩ chẳng giúp gì được cho bạn, ngoại
trừ chỉ vài viên thuốc hoặc vài mũi thuốc tiêm vào để giảm cơn đau.
Ngay cả các máy vi tính tinh vi cũng không đem đến tâm bình an cho các
bạn. Tâm bình an chỉ được lưu hiện từ bản tâm mình. Mọi người đều muốn
hạnh phúc, an lạc, nhưng nếu chúng ta so sánh sự an nhàn của bản thân,
sự đau khổ của thân với niềm an lạc của tâm và nỗi đau tinh thần,
chúng ta sẽ thấy cảnh giới tâm có ấn tượng hơn, hiệu quả hơn và siêu
việt hơn. Vậy nên rất xứng đáng khi ứng dụng một phương pháp nào đó
để làm lớn mạnh sự bình an của tâm và để làm được việc ấy, điều
quan trọng là phải có sự hiểu biết tường tận về tâm. Khi chúng ta
nói về sự bảo dưỡng môi trường, là có liên quan đến rất nhiều vấn
đề khác. Rốt ráo, sự quyết định là phải xuất phát từ bản tâm, từ
tấm lòng của con người. Điểm then chốt là phải có ý thức chân chính
về trách nhiệm đối với toàn thể mà nền tảng là lòng từ bi và trí
tuệ trong sáng.
(Trích từ My Tibet
(Tây Tạng của tôi) – Berkeley 1990)
TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU VÀ
VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
Hồi nhỏ, khi còn đang học
Phật pháp, tôi đã được dạy một điều quan trọng về thái độ trân trọng
đối với môi trường chung quanh. Bài thực tập bất bạo động
không chỉ áp dụng trên con người mà đối với tất cả mọi sinh thể –
bất kỳ sinh vật nào có tâm thức. Nơi nào có tâm thức, ở đó có sự
đau khổ, an lạc, và niềm vui giống nhau. Không một sinh vật nào muốn
đau khổ, thay vì vậy, các sinh vật đều muốn hạnh phúc. Tôi tin rằng
mọi sinh vật đều chia xẻ những cảm nhận nầy trên một vài bình diện cơ
bản.
Trong pháp tu của đạo Phật,
chúng tôi đã quá quen với ý tưởng bất bạo động và việc chấm dứt sự
khổ đau đã khiến cho chúng tôi có thói quen không sát hại hay phá hủy
mọi thứ một cách không phân biệt. Mặc dù chúng tôi không tin rằng cây
cỏ, hoa lá có tâm thức, nhưng chúng tôi cũng đối xử với loài thực
vật ấy với lòng trân trọng. Nên chúng tôi đã chia xẻ ý thức về trách
nhiệm toàn cầu về cả hai phương diện con người và tự nhiên.
Niềm tin của chúng tôi vào
sự tái sinh, niềm tin về sự quan tâm của chúng tôi đối với tương lai
là một ví dụ. Nếu các bạn nghĩ rằng mình sẽ tái sinh, rất có thể
các bạn tự nhủ với mình rằng, mình phải giữ gìn vật nầy, thứ kia vì
trong thân tái sinh ở tương lai, có thể mình sẽ tiếp tục sử dụng những
thứ nầy. Ngay dù trường hợp có thể bạn tái sinh dưới dạng một sinh
thể khác, có thể dù ở hành tinh khác, ý tưởng tái sinh vẫn cho các
bạn nguyên nhân để có sự quan tâm trực tiếp đến hành tinh nầy và các
thế hệ tương lai.
Ở phương Tây, khi nói đến
»loài người«, các bạn thường chỉ nói đến thế hệ con người đang sinh
tồn. Lớp người quá khứ đã đi qua. Còn tương lai, là sự chết, thì chưa
đến. Ý tưởng của người Tây phương thường mắc phải khía cạnh thực dụng
vật chất, chỉ để ý đến thế hệ con người hiện tại.
Cảm nhận của người Tây
Tạng về môi trường không căn cứ hoàn toàn vào tôn giáo. Cảm nhận nầy
xuất phát từ toàn bộ cách sống của người Tây Tạng, không chỉ xuất
phát từ tư tưởng Phật giáo. Chẳng hạn, những quan tâm của Phật giáo
ở Nhật Bản, Thái Lan về môi trường khác với sự quan tâm của chúng
tôi. Nền văn hóa và phong cách sống của họ không giống chúng tôi. Môi
trường độc đáo ở nước tôi ảnh hưởng rất mạnh đến chúng tôi. Chúng
tôi không sống trên một hòn đảo nhỏ bị ô nhiễm nặng nề, và xa cách
láng giềng đồng loại. Chúng tôi không có cảm giác bị ức chế như
nhiều cộng đồng dân cư khác.
Có rất nhiều khả năng để
thực tập về tinh túy của một đức tin hay tinh túy của một nền văn
hóa mà không cần thực hành đời sống tôn giáo. Nền văn hóa Tây Tạng
chúng tôi, mặc dù được thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Phật giáo, mà vẫn
không đóng khung trong toàn bộ triết lý Phật giáo. Có lần tôi đề nghị
một cơ quan về người Tây Tạng di cư rằng sẽ rất hay khi làm một vài
nghiên cứu có bao nhiêu người Tây Tạng có được ảnh hưởng bởi sự tiếp
cận với phong cách sống của chính từ Tây Tạng? Những yếu tố gì làm
cho người Tây Tạng luôn luôn an vui và trầm tĩnh? Mọi người luôn luôn
trông chờ câu trả lời nhờ ở một tôn giáo độc đáo, mà quên rằng môi
trường sống của đất nước chúng tôi là một sự khác thường.
Sự quan tâm đến môi trường
không nhất thiết phải cần đến thần thánh, thiêng liêng, cũng chẳng
phải luôn luôn cần đến lòng từ bi. Người Phật tử chúng ta thể hiện
lòng từ bi cho hết thảy chúng sinh, nhưng lòng từ bi nầy không cần
thiết phải ban rãi cho mỗi tảng đá, cội cây hoặc cái nhà. Hầu như
mỗi chúng ta đều có chút quan tâm về ngôi nhà riêng của mình, nhưng
thực sự không cần phải động lòng trắc ẩn với chúng. Chúng ta gìn giữ
nó để ta có thể sống an vui. Chúng ta biết để có được cảm giác an
lạc, trong ngôi nhà của mình, thì ta phải chăm sóc nó. Thế nên cảm giác
của chúng ta có lẽ là về sự quan tâm hơn là lòng trắc ẩn.
Tương tự, hành tinh nầy là
nhà của chúng ta, và chúng ta phải giữ gìn nó trong trật tự và phải
chăm sóc nó nếu như chúng ta chân thực quan tâm về hạnh phúc của chính
mình, cho con cái, bạn bè và các sinh thể khác cùng chia xẻ ngôi nhà
lớn nầy với chúng ta. Nếu chúng ta nghĩ về hành tinh nầy như là ngôi
nhà chúng ta hoặc như người mẹ – Mẹ Đất – tự nhiên chúng ta sẽ quan
tâm đến môi trường chung quanh ta. Ngày nay chúng ta hiểu được tương lai
chúng ta tùy thuộc rất nhiều vào nhân loại. Nhưng ý tưởng nầy đã
thường không rõ ràng đối với ta. Mãi cho đến bây giờ, các bạn mới
hiểu ra. Mẹ Đất, bằng cách nào đó, đã quá chịu đựng sự cẩu thả từ
thói quen của người giữ nhà. Thế mà những sự tiêu dùng của con người
ngày nay, cùng dân số, kỹ thuật công nghệ đã đến mức mà Mẹ Đất không
còn chấp nhận sự hiện hữu của chúng ta bằng sự im lặng. Bằng nhiều
cách. Mẹ Đất không nói với ta: »Các con tôi xử sự không đẹp«, mà Mẹ
Đất chỉ cảnh báo cho chúng ta biết rằng hành động của chúng ta đã
đến mức giới hạn.
Thái độ của người Phật tử
Tây Tạng là một biểu hiện của lòng hoan hỷ, và chắc sẽ có vài mối
tương quan từ thái độ của chúng tôi với môi trường. Chúng tôi không xài
phí vật chất một cách vô tội vạ. Chúng tôi đặt một giới hạn cho việc
sử dụng. Chúng tôi tán thán cuộc sống đơn giản và có trách nhiệm cá
nhân. Chúng tôi luôn luôn tự xem mình là một thành viên trong môi trường
nầy, chứ không phải chỉ là người tham dự. Ngôn ngữ cổ xưa của tổ tiên
chúng tôi đã đạt đến đỉnh cao khi đề cập hai chữ: »Vật chứa« và »vật
được chứa đựng«.
Thế giới là vật chứa – ngôi nhà chúng ta – và chúng ta là vật được
chứa đựng trong đó – vật được chứa đựng trong thùng chứa. Từ sự kiện
đơn giản nầy, chúng ta rút ra được một sự quan hệ đặc biệt, vì nếu
không có thùng chứa, thì vật được chứa không có chỗ để được chứa. Và
nếu không có vật được chứa, thì thùng chứa không tồn tại làm gì,
thùng chứa thành vô nghĩa.
Trong Năm điểm chương trình
hòa bình của tôi đã tuyên bố, Tây Tạng sẽ trở thành một vùng đất hòa
bình, trung lập. Tây Tạng là một, mà không qua một nhân danh nào cả.
Hòa bình có nghĩa là hòa hợp, hòa hợp giữa người với nhau, hòa hợp
giữa người và loài vật, giữa các sinh thể và môi trường. Du khách từ
khắp nơi trên thế giới có thể đến Tây Tạng để hưởng hòa bình, hòa
hợp. Thay vì xây những khách sạn lớn nhiều tầng, nhiều phòng, chúng
tôi sẽ làm những tòa nhà nhỏ, giống những ngôi nhà riêng, thế mới có
thể sống hòa hợp tốt hơn với thiên nhiên. Chẳng phải hoàn toàn sai khi
con người sử dụng thiên nhiên để làm những điều ích lợi, nhưng chúng ta
không được khai thác thiên nhiên một cách không cần thiết.
Rất hay khi sống trong một
ngôi nhà, có thuốc để trị bệnh, và được đi đây đó bằng xe hơi. Thẳng
thắn mà nói, máy móc cơ khí không phải là thứ xa xỉ, mà có khi rất
ích lợi. Chẳng hạn máy quay phim, có thể dùng ghi lại những hình ảnh
để phát triển sự hiểu biết.
Nhưng mọi thứ đều có giới
hạn của nó. Tiêu dùng quá mức hoặc nỗ lực kiếm tiền là không tốt,
sự thỏa mãn thật nhiều nhu cầu cũng không được tốt. Trên nguyên tắc,
sự thỏa mãn là một mục tiêu của đời sống, nhưng thuần túy chỉ sống
để thỏa mãn sẽ trở nên gần như tự sát. Phải không? Tôi nghĩ rằng
người Tây Tạng đã có, trong một lĩnh vực nào đó, thỏa mãn quá
nhiều. Và chúng ta đã đánh mất quê hương. Những ngày nầy chúng ta
không còn mong thỏa mãn được nhiều từ môi trường nữa.
Hòa bình và sự sinh tồn
trên trái đất, như ta thấy, đang bị đe dọa bởi hành vi của con người
thiếu sự cam kết về giá trị nhân văn. Sự phá hủy thiên nhiên và tài
nguyên thiên nhiên là kết quả của sự thiếu hiểu biết, lòng tham lam và
thiếu sự kính trọng sự sống trên mặt đất. Sự thiếu quý trọng nầy lan
đến hậu duệ của loài người trên trái đất, thế hệ tương lai sẽ thừa
kế một thảm thảo mộc mênh mông đã bị xuống cấp nếu nền hòa bình thế
giới không trở thành hiện thực và nếu sự hủy hoại môi trường thiên
nhiên vẫn tiếp tục với mức độ như hiện nay.
(My Tibet,
Berkeley
1990.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC TRỒNG CÂY
VÀ SỰ BẢO DƯỠNG
Tôi vừa đề cập đến vài
trường hợp về tầm quan trọng của việc trồng cây, vừa ở Ấn Độ, quê
nhà hiện nay của chúng tôi, cũng như ở Tây Tạng. Hôm nay, như một sự
biểu hiện của thiện chí, chúng ta cử hành lễ trồng cây nơi chúng ta
đang trú ngụ. May mắn thay, cuộc vận động kêu gọi có sự cam kết bảo
vệ môi trường thông qua việc trồng cây con và chăm sóc những cây lớn,
đang nhanh chóng gia tăng trên toàn thế giới. Trên bình diện toàn cầu,
rừng và cây liên hệ rất mật thiết với sự biểu hiện của thời tiết,
và cũng duy trì sự quân bình chủ yếu cho thiên nhiên. Bởi vậy, vấn đề
bảo vệ môi trường là một trách nhiệm toàn cầu của tất cả chúng ta.
Tôi nghĩ rằng cực kỳ quan trọng đối với người Tây Tạng đang sống nơi
định cư, không chỉ chú ý sâu sắc đến nguyên nhân của việc bảo vệ môi
trường, mà còn thể hiện ý tưởng nầy qua hành động bằng cách trồng
nhiều cây con. Theo cách nầy, chúng ta sẽ thực hiện một thiện chí quan
trọng cho thế giới, chứng tỏ sự quan tâm đến toàn cầu của chúng ta.
Và cùng lúc, tạo nên sự chia xẻ nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.
Nếu ta nhìn chung quanh, nay
chúng ta có thể thấy những ngôi nhà trong tu viện và trong những trang
trại nơi người ta đã trồng cây ăn trái, bây giờ họ đã hưởng được lợi
lạc lớn lao như là kết quả của việc trồng cây. Trước hết, nếu có
một bóng cây trong vườn, nó sẽ làm cho không khí chung quanh một vẻ đẹp
an tĩnh và tự nhiên. Dĩ nhiên là các bạn còn ăn được trái cây, ngồi
dưới bóng cây và hưởng được bóng mát. Những gì cần thiết trong phần
tham gia của bạn là một chút tính kiên nhẫn dành ít thời gian chăm sóc
cho cây lớn lên.
Cuối cùng, tôi muốn có một
đề nghị. Hãy xem lại việc sử dụng nông trại trong khu định cư. Nơi đây,
các bạn đã khởi đầu dự án trồng cây ăn trái trong trang trại. Tôi cho
đó là một dự án rất tốt. Qua việc trồng cây ăn trái, không những
chúng ta chỉ bảo đảm rằng trang trại vẫn còn màu mỡ, mà chúng ta sẽ
còn có trái cây để dùng. Tóm tắt, tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa
tầm quan trọng vô cùng to lớn khi trồng cây con và bảo vệ những cây
đang sống chung quanh mình.
(Diễn văn đọc ngày
6.12.1990 tại buổi lễ trồng cây
ở khu định cư Doeguling Tây Tạng của
Mundgod,
Ấn Độ)
QUAN NIỆM CỦA ĐẠO PHẬT VỀ THIÊN NHIÊN
Tối nay tôi sẽ nói vài
điều quan niệm của đạo Phật về thiên nhiên.
Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) nói rằng: »Trong một hệ thống mà tính
Không được biểu hiện, thì tất cả các pháp đều có khả năng (hiện
hữu). Nếu không nhờ nghĩa của Không, thì các pháp không thể nào hiện hữu.
Thế nên khi nói về thiên
nhiên, thì thiên nhiên cứu cánh là tính không
vậy nghĩa của tính không là gì? Đó không phải là tính không của tự
nhiên hay của sự hiện hữu độc lập, mà nó có nghĩa là các pháp tồn
tại nhờ vào sự tương duyên của rất nhiều yếu tố.
Thế nên dù môi trường đó
là nơi cư trú hay là cư dân, cả hai đều là hợp thể của bốn hoặc năm
đại chủng căn bản. Những đại chủng đó là đất, nước, lửa, gió và
không, đó là hư không. Về hư không, trong Thời luân Tantra
có một đề cập về điều được gọi là một chất tử của không, hạt tử
của không. Thế mà dạng thể đó lập nên một lực trọng tâm của toàn
thể hiện tượng giới. Khi toàn thể hệ thống cơ cấu vũ trụ lần đầu
được hình thành, nó đã được tạo ra từ lực trung tâm nầy, đó là hạt
tử của không, và cũng là hệ thống của vũ trụ cuối cùng, hệ thống
nầy cũng sẽ tan hoại trong chính hạt tử của không ấy. Thế nên về mặt
cơ bản của năm yếu tố nầy, có sự tương quan rất mật thiết giữa vùng
cư trú, đó là môi trường thiên nhiên và cư dân, đó là các sinh thể đang
sống trong môi trường ấy.
Cũng thế, khi ta nói về
những đại chủng, có những yếu tố nội tại tồn tại trên cơ sở tự tính
(existent inherently) ngay trong sinh thể ấy, cũng có những bình
diện khác nhau, một số dạng thô và số khác thì vi tế.
Nên rốt ráo, theo giáo lý
đạo Phật, điều vi tế nhất bên trong tâm thức chính là vai trò vi diệu
độc nhất của sự sáng tạo, chính là bao gồm năm đại chủng, và tính
chất rất vi tế của các đại chủng. Những yếu tố vi tế nầy phân tích
ra như những điều kiện tạo ra những yếu tố nội tại để hình thành nên
sinh vật, và trở lại tạo nên sự hiện hữu hay sự tiến hóa của những
yếu tố bên ngoài. Thế nên có một sự tương phùng rất mật thiết hoặc
là sự tương quan giữa môi trường và các sinh thể đang sống trong môi
trường ấy.
Trong ý nghĩa của tương
duyên,
có nhiều mức độ khác nhau mà các vật thể nương tựa vào nhau – yếu
tố nguyên nhân của nó – hoặc là tâm ý thức thường gán cho nó một
nhãn hiệu hoặc một biểu tượng.
Mục tiêu mà chúng ta thảo
luận hôm nay là sự tương quan hay tính tương duyên giữa môi trường thiên
nhiên và các sinh thể đang sống trong đó.
Bây giờ, các bạn biết đó,
có một số bạn tôi nói rằng bản chất con người là bạo động. Tôi bảo
với bạn tôi rằng tôi không nghĩ là như vậy. Nếu chúng ta khảo sát
nhiều loại động vật có vú, những loài như cọp và sư tử, ta thấy tùy
thuộc vào cuộc sống của những sinh vật khác mà có được sự sinh tồn
của loài nầy, vì bản tính cơ bản của nó có một cấu trúc rất đặc
biệt, răng nanh dài nhọn và móng vuốt rất sắc. Cũng như vậy, những
loài vật hiền hòa, như hươu nai, hoàn toàn ăn cỏ, răng và móng của nó
hoàn toàn khác, hiền hơn. Nên từ quan điểm nầy, loài người chúng ta
thuộc vào loài hiền từ, có phải vậy không? Răng, móng của chúng ta
rất hiền. Thế nên tôi nói với người bạn, tôi không đồng ý với quan
điểm của bạn. Cơ bản loài người có bản chất không bạo động.
Cũng vậy, về vấn đề sinh
tồn của con người, loài người là một sinh vật có tính hợp quần. Để
sinh tồn, các bạn cần có những nhóm người khác. Không có những con
người khác, đơn giản là không có khả năng sinh tồn – đó là quy luật
tự nhiên, đó là bản chất.
Bởi vậy, tôi tin tưởng sâu
sắc rằng cơ bản loài người thuộc về bản tính dịu hiền, tôi nghĩ là
thái độ của con người đối với môi trường cũng nên hiền hòa. Do đó tôi
tin rằng không những chúng ta nên giữ mối liên hệ với loài người hiền
hòa và không bạo động mà cũng nên có mối quan hệ như thế, cũng quan
trọng khi lan tỏa thái độ đó đến môi trường thiên nhiên. Tôi cho rằng
nói một cách đạo lý, chúng ta có thể suy nghĩ như thế và chúng ta
đều phải nên quan tâm đến môi trường sống quanh mình.
Tôi lại nghĩ đến một quan
điểm khác. Trường hợp nầy không phải là vấn đề đạo đức, luân lý, mà
là vấn đề sinh tồn của chính chúng ta. Không chỉ cho thế hệ nầy, mà
còn cho thế hệ tương lai, môi trường là điều rất quan trọng. Nếu chúng
ta khai thác môi trường bằng một phương pháp cạn kiệt, thì ngày nay
chúng ta có thể sẽ có chút ít lợi ích, nhưng trong lâu dài chính chúng
ta sẽ chịu đau khổ và thế hệ tương lai cũng sẽ đau khổ.
Thế nên khi môi trường thay
đổi, thời tiết khí hậu cũng thay đổi, khi nó thay đổi một cách bi
thảm, thì cơ cấu kinh tế và nhiều thứ khác cũng thay đổi – ngay cả
thân thể vật lý của ta. Thế nên các bạn có thể thấy ảnh hưởng lớn
lao từ sự thay đổi ấy. Từ quan điểm nầy, đây không phải chỉ là vấn
đề sống còn của chúng ta. Do vậy, để thành tựu được nhiều kết quả
hữu hiệu và để thành công trong việc bảo vệ, giữ gìn môi trường thiên
nhiên. Trước hết, tôi nghĩ, cũng rất quan trọng khi làm phát sinh sự
quân bình nội tại trong chính con người. Bởi vì sự thờ ơ với môi trường
mà đã có hậu quả tai hại rất nhiều đối với cộng đồng nhân loại –
xuất phát từ sự mê muội về tầm quan trọng đặc biệt của môi trường.
Tôi nghĩ điều quan trọng nhất trong tất cả là truyền đạt sự hiểu
biết nầy cho mọi người. Thế nên rất quan trọng khi dạy hay nói với
mọi người về tầm quan trọng, về lợi ích của chính môi trường.
Kế đến, một điều tối quan
trọng khác nữa, như tôi luôn luôn kêu gọi, là tầm quan trọng của lòng
từ bi. Như tôi đã đề cập trước đây, dù có xuất phát từ quan niệm ích
kỷ của riêng mình, thì các bạn vẫn phải cần đến người khác. Thế nên
qua biểu hiện sự quan tâm đến lợi ích của người khác, chia xẻ khổ đau
với người khác, và qua sự giúp đỡ người khác, rốt cục mình sẽ được
lợi lạc. Còn nếu chỉ nghĩ đến riêng mình và quên người khác, rốt cục
mình sẽ thiệt thòi. Đây cũng là điều giống như luật tự nhiên. Tôi nghĩ
điều nầy rất đơn giản. Nếu các bạn không biểu lộ nụ cười với người
khác, mà biểu hiện một cái nhìn ác cảm, thì người kia sẽ đáp lại
một cách xử sự tương tự. Có đúng vậy không? Nếu quý vị dành cho
người khác một phong thái chân thành và cởi mở, thì sẽ nhận được sự
đáp ứng tương tự. Nên đó là luận lý hoàn toàn đơn giản.
Thực vậy, thời cổ đại, có
nhiều nhà tư tưởng cũng như các vị đạo sư tâm linh vĩ đại đã ra đời
ở đất nước Ấn Độ nầy, nên tôi cảm thấy trong tương lai, những nhà tư
tưởng Ấn Độ vĩ đại, như Mahatma Gandhi, cũng như những nhà chính trị
khác, sẽ áp dụng tư tưởng quý báu như Bất hại (ahimsa) vào
lĩnh vực chính trị. Theo một phương cách nào đó, chính sách ngoại giao
không liên kết cũng có liên quan đến đạo lý nầy. Thế nên tôi suy nghĩ
đến tầm mức xa hơn, hoặc sự phát triển rộng hơn về ý tưởng quý báu,
hoặc hành động cao quý nầy ở đất nước Ấn Độ là rất thích đáng và
rất quan trọng.
Bây giờ trong khía cạnh nầy,
có một điều khác mà tôi thấy rất quan trọng là tâm thức. Thế tâm là
gì? Cho đến nay, đặc biệt là ở thế giới Tây phương, suốt hai thế kỷ
trở lại đây, khoa học kỹ thuật đã chú trọng rất nhiều và chủ yếu
là về vật chất. Bây giờ ngày nay một số nhà vật lý hạt nhân và các
nhà thần kinh học đã bắt đầu khảo sát, phân tích các chất tử (particles)
theo một phương pháp rất chi tiết và sâu sắc. Trong khi tiến hành thí
nghiệm, họ tìm thấy có sự tham gia của phía người quan sát, đôi khi họ
còn gọi là »cái biết«. Điều gì là »cái biết«? Đơn giản là sự sống,
là con người, như nhà khoa học. Bằng cách nào mà các nhà khoa học
biết được? Tôi cho rằng nhờ vào bộ óc mà họ biết được. Nay, nói về
não bộ, các khoa học gia phương Tây chưa có một định nghĩa gì nhiều hơn
về não ngoài hằng trăm triệu tế bào chứa trong não. Còn bây giờ nói
về tâm, dù các bạn có gọi tâm là một năng lực đặc biệt của bộ não,
hay gọi là ý thức, thì quý vị sẽ thấy rằng có một sự liên hệ rất
rõ giữa bộ não, tâm và vật. Tôi nghĩ điều nầy rất quan trọng, tôi
thấy nên có vài cuộc đối thoại giữa triết học Đông phương và khoa học
Tây phương về nền tảng quan hệ giữa tâm và vật.
(Bài phát biểu ngày 14.2.1992 ở New Delhi, Ấn Độ)
ĐẠO PHẬT THỰC HÀNH
Hôm nay tôi rất vui mừng khi
được nói chuyện với toàn thể các bạn Phật tử Hoa Kỳ (thuộc Trung tâm
Nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng) ở một tu viện trung tâm Phật giáo Tây
Tạng cổ xưa nhất ở Hoa Kỳ. Điều ấy rất khích lệ sự chú ý đến tình
hình phát triển hiện thời của Phật giáo Tây Tạng, có chừng 1000 trung
tâm ở khắp thế giới, với hơn 250 trung tâm ở Hoa Kỳ. Như tôi thường
nói, Phật giáo có một món quà đặc biệt để giúp cho con người lắng
đọng tâm thức và học cách sống hạnh phúc hơn. Từ thế kỷ 20, những
người Tây Tạng chúng tôi bị bắt buộc phải sống lưu vong... Từ đó,
chúng tôi dành quyền ưu tiên chia xẻ món quà Phật giáo cho tất cả
bằng hữu khắp các quốc gia, những người đều phải đối diện với vô số
khó khăn của đời sống trong thế giới hiện đại đầy náo loạn và lo âu
nầy. Có lẽ chỉ có một điều thánh thiện đến với chúng ta từ muôn
vàn nỗi bi đát là sự lan tỏa của giáo lý và sự thực hành Phật
giáo Tây Tạng.
Hãy tưởng tượng, các vị
Lạt-ma Tây Tạng lẽ ra có thể đến các nơi trên thế giới để giảng dạy
Phật pháp, họ phải được đi lại bằng thị thực xuất nhập cảnh với
giấy thông hành của Tây Tạng. Các tăng sinh ở Tây phương đáng lẽ được
tự do đến thăm núi đồi yên tĩnh của Tây Tạng để thưởng thức bầu không
khí trong lành, được học tại các tu viện đại học, và thiền quán trong
nguồn cảm hứng cô liêu đó. Tôi nói điều nầy không phải chỉ là than
phiền về sự thử thách mà chúng tôi đang chịu mà vì tôi muốn lưu ý
rằng nhiều người có khuynh hướng chấp nhận một thứ chủ nghĩa định
mệnh về lịch sử và vấn đề Tây Tạng. »Tốt thôi, nó phải xảy ra như
vậy, nếu không, người dân Tây Tạng sẽ không thể nào thoát ra khỏi sự
cô lập với thế giới«.
Nghĩ theo cách như thế có
thể khiến cho họ chậm lại trong nỗ lực hành động để cải thiện thực
sự tình hình Tây Tạng, để giải quyết vấn đề Tây Tạng, vấn đề con
người với sáu triệu người dân Tây Tạng. Bây giờ, đó là một bài thực
tập rất ích lợi để quán chiếu lại khổ đau của riêng mọi người, suy
gẫm về việc đó như là »quán chiếu lại nghiệp riêng của mỗi người«,
và nhờ vậy, họ sẽ đạt được lợi lạc khi tu dưỡng tính kham nhẫn trong
hoàn cảnh khó khăn của mình.
Nhưng đó chưa phải là hữu
dụng, cũng chưa phải là lòng yêu thương khi chỉ chịu đựng về nỗi khổ
của người khác. Thực vậy, ngài Tịch Thiên nói, một vị Bồ-tát phải hoàn toàn không thể chịu đựng nổi
khi thấy người khác bị khổ đau. Xin đưa ra một ví dụ cá nhân. Tôi từng
nói rằng chính tôi đã thấy được lợi lạc thực sự từ nỗi khó khăn khi
bị mất quê hương và lang thang trong cuộc sống lưu vong – và tôi muốn
nói đến điều đó. Trong hoàn cảnh không có một nơi sống ổn định và
với sự đau khổ cùng sự phấn đấu đã giúp cho tôi trưởng thành. Khó
khăn ở đời có thể dẫn đến sự phát triển tinh thần nhanh hơn và có
được sức mạnh tâm linh lớn hơn. Và riêng tôi hoàn toàn hài lòng với
tôi rất nhiều. Tôi đã được sự khích lệ khi tiếp nhận một nền giáo lý
Phật pháp nghiêm túc và có được cơ hội thực hành giáo lý nầy trong
sự rèn luyện khổ nhọc. Tôi không than phiền điều gì cả. Nhưng lời cam
kết với mọi người, với sáu triệu dân Tây Tạng đang trông chờ ở sự
giúp đỡ của tôi, thì khác hẳn – tôi không thể nào quên tiếng khóc của
họ. Làm sao tôi có thể tụng lời kinh, lời phát nguyện của các vị
Bồ-tát, nguyện cứu các loài chúng sanh thoát khỏi khổ đau và thoát
khỏi các nguyên nhân gây ra khổ đau, và cùng lúc đó, bỏ dở nửa chừng
bất kỳ những việc lẽ ra thực sự có thể cứu vãn cho những nỗi đau
của mọi người đang ở trong phạm vi trách nhiệm của tôi? Thế nên tôi
luôn luôn cố gắng làm nhiều việc mà tôi có thể làm được. Có lẽ ví
dụ của tôi sẽ giúp cho những người Phật tử khác muốn duy trì sự tu
tập tâm linh và đồng thời cũng muốn làm việc thiện cho toàn xã hội.
Trong quá khứ, các nhà
nghiên cứu chủ trương rằng Phật giáo chủ trương nhất tâm (single-mind)
trong mục tiêu nhắm vào niết-bàn, từ bỏ thế gian phàm trần nầy như một
trường hợp tuyệt vọng. Với ý niệm nguyên sơ đó, họ cho rằng đạo Phật
rất ít tham gia vào quyền công dân, để mặc những vấn đề xã hội đi theo
hướng của nó.
Hiện thời, người Phật tử
và các tu viện Phật giáo mới thực sự có thể làm nhiều việc thiện
hơn để giúp đỡ nhiều người trong những thời điểm khác nhau ở các
quốc gia khác nhau. Nhưng tôi tin rằng từ thời đức Phật tại thế cho
đến nay, tất cả mọi hình thái sinh hoạt của Phật giáo đều đã liên
tục cố gắng để giúp đỡ con người, dù với tư cách tập thể hay cá
nhân, không bao giờ có tình trạng đạo Phật không quan tâm đến thế gian.
Tự do và hạnh phúc của chúng sinh luôn luôn là lý tưởng rốt ráo và
mục tiêu hành động của người con Phật.
Nền văn minh Tây Tạng là
một kết quả to lớn từ sự chuyển hóa xã hội nhờ năng lực của Phật
pháp. Phật giáo được du nhập vào Tây Tạng từ Ấn Độ bởi Hoàng đế
Songsten Gampo vào thế kỷ thứ VII.
Trí tuệ từ đạo Phật bắt
đầu lan tỏa chầm chậm nhưng đều đặn, giúp cho con người hiền hòa,
hạnh phúc và an lạc hơn. Sau vài thế kỷ, người Tây Tạng trở nên yêu
thích Phật pháp đến nỗi họ có một nỗ lực vĩ đại biến Phật pháp
thành trọng tâm cuộc sống của họ, mặc dù không có sự tán trợ của
triều đình. Cuối cùng, sau một ngàn năm, người Tây Tạng đã thành công
trong việc thể hiện tư tưởng Phật giáo ngay trong thể chế của quốc
gia, lập nên sự hợp nhất giữa tính thiêng liêng và thế tục bởi Đức
Đạt-lại Lạt-ma thứ V
vào thế kỷ thứ 17. Tôi tin rằng giáo lý của Đức Phật là điểm then
chốt không thể thay thế được để thành tựu sự hạnh phúc cho cá nhân
cũng như cho quốc gia. Thế nên toàn bộ hệ thống xã hội chúng ta – văn
hóa, nghệ thuật, phong cách sống – đều phải tập trung vào sự phát
triển tâm linh con người, tùy thuận theo Phật pháp. Dù chúng ta không
bao giờ thành tựu được hoàn toàn, chúng ta cũng đã giữ gìn những
giáo lý và truyền thống độc đáo, mà một số đó từ lâu đã biến mất
trên các quốc gia Phật giáo khác. Nhưng tôi không muốn nói nhiều về
điều nầy, vì tôi biết rất nhiều người trong các bạn đã nhận ra giá
trị của Phật giáo Tây Tạng, đã yêu quý cũng như chúng tôi. Tôi đã đi
đến rất nhiều nơi vì có rất nhiều người lưu tâm đến tôi, từ lời nói
cũng như hành động, sự kính trọng của họ, không chỉ nhắm vào giáo lý
của Phật giáo Tây Tạng, mà còn nhờ vào cội nguồn của giáo lý ấy,
là văn hóa và văn minh Tây Tạng, vốn tự nó đã hoàn toàn phát xuất
từ một nơi nào đó hơn là trong tim đời sống của người dân Tây Tạng.
Văn hóa Tây Tạng thuộc về toàn nhân loại, và sự hủy diệt văn hóa Tây
Tạng sẽ không chỉ ảnh hưởng đến người Tây Tạng, mà ảnh hưởng đến
toàn nhân loại. Do vậy, chúng ta kêu gọi các thành viên của các nền
văn hóa khác giúp đỡ cho dân Tây Tạng giữ gìn nền văn hóa độc đáo và
di sản phong phú ấy. Những người bạn tôi ở Quốc hội Hoa Kỳ đã hành
động một cách mạnh mẽ để biểu hiện sự hỗ trợ chính nghĩa của chúng
ta, thúc giục Trung Hoa đình chỉ ý đồ diệt chủng dân Tây Tạng, xóa sổ
quốc gia Tây Tạng trong lịch sử, và hủy diệt văn hóa Tây Tạng. Những
nghị sĩ, dân biểu nầy sẽ rất cần sự giúp đỡ của các bạn và sự
tán trợ của tất cả các Phật tử, các nhà lãnh đạo tôn giáo khác,
các nhà nhân chủng học, và tất cả bạn hữu của nhân dân Tây Tạng, để
kết hợp thành một lực đẩy mạnh hơn khiến Trung Hoa phải thay đổi thái
độ. Lực đẩy nầy rất thiết yếu và cấp bách để cứu vớt người dân và
văn hóa Tây Tạng trước khi quá trễ.
Đối với Trung Hoa cũng vậy,
đó là một vấn đề cấp bách, bởi vì nếu những nhà lãnh đạo Trung Hoa
không chịu thay đổi đường lối hiện tại, rốt cuộc họ sẽ tự ràng buộc
lại mình trong một phương cách tệ hại. Nhưng tôi không muốn vướng mắc
vào điều nầy, vì tôi vốn là người lạc quan và vẫn có niềm hy vọng
lớn lao rằng tính tích cực sẽ vượt trội, chân lý và thiện tâm sẽ
chiến thắng. Các bạn có lẽ ngạc nhiên, nhưng tôi cho rằng loại chủ
nghĩa lạc quan nầy rất thực tế. Bởi vì, các bạn thấy đó, mọi người
chỉ muốn có hạnh phúc. Nếu chúng ta khảo sát trái tim con người,
không phải chỉ để xem nó theo giáo lý nào, mà để phân tích chi tiết
những gì thực sự ở trong đó; chúng ta sẽ thấy rằng điều mà mọi
người mong ước, điều tạo nên sự hài lòng, đó chính là con tim nồng
ấm, con tim chí thiện, con tim từ bi. Những yếu tố nầy ban cho ta sự
trầm lắng, an tĩnh và tự tại thực sự, và ban cho ta sức mạnh nội
tâm. Mặt khác, sự giận dữ, đố kỵ, tham lam chỉ tạo nên sự khó chịu
và luôn luôn bất bình. Ngay cả quốc gia cũng cần kiềm chế và giảm trừ
sự gây hấn hiềm khích, đó là cách duy nhất để tránh khỏi khổ đau và
mang lại hạnh phúc cho con người. Thế nên rốt ráo, quốc gia chỉ thực
hành những chính sách đúng đắn, vì đó là điều quan tâm cao nhất của
người dân. Cuối cùng, việc thiện là pháp thực hành cao nhất, là sự
hòa giải thực tế nhất. Có lẽ hầu hết các bạn đều biết tầm quan
trọng của lòng từ bi. Sự thực hành lòng từ bi là điều cho tôi niềm
vui lớn nhất. Bất luận gặp hoàn cảnh nào, bất kỳ đối diện với tình
hình bi đát đến cỡ nào, tôi cũng thực tập lòng từ bi, việc nầy đã
cho tôi sức mạnh nội tâm và niềm an lạc. Điều nầy cho tôi cảm nhận
cuộc sống mình có ích. Thế nên các bạn thấy, từ đó đến nay, tôi được
57 tuổi,
sắp qua tuổi 58, tôi đã đem hết sức mình để thực hành lòng từ bi, và
tôi sẽ tiếp tục thực hành cho đến hơi thở cuối cùng, đến ngày cuối
cùng của cuộc đời. Các bạn thấy, chính tôi là người tự nguyện hiến
thân cho lòng từ. Đó là cách tôi thực sự hài lòng. Chúng tôi cần sự
tán trợ của công chúng, cần sự biểu hiện thiện chí và hành động với
việc làm của chúng tôi, xin ấp ủ thiện chí nầy trong tâm, và bất kỳ
lúc nào có điều kiện, xin hãy biểu hiện niềm cảm thông sâu sắc với
chính nghĩa của người Tây Tạng.
Là người tu tập Phật pháp,
các bạn nên nhận thức được sự thiết yếu của việc giữ gìn Phật giáo
Tây Tạng. Vì nơi quốc độ nầy, đất đai lãnh thổ của người Tây Tạng đang
bị tàn phá. Chúng ta đã đem hết sức mình để giữ gìn truyền thống Tây
Tạng khi phải sống lưu vong bên ngoài Tây Tạng suốt 30 năm, và chúng ta
đã gần như đã được thành công. Nhưng cuối cùng, sau thời của chúng ta,
có một mối hiểm nguy thực sự khiến thế hệ sau sẽ biến đổi, ngại
rằng họ không thể tồn tại trong việc bảo trì, nuôi dưỡng quê hương
chúng ta. Thế nên, nhờ vào sự giữ gìn Phật giáo Tây Tạng, được xem như
một thực thể hoàn chỉnh của Phật pháp. Tôi mơ ước một đất nước Tây
Tạng mới, một vùng đất tự do, một quê hương hòa bình, nơi sáu triệu
đồng bào tôi có thể phục hồi lại đời sống tâm linh cùng lúc trở nên
hòa hợp với từng phương diện tốt đẹp nhất của thế giới. Tôi thấy Tây
Tạng là nơi mà tất cả mọi người – không chỉ là đồng bào láng giềng
ở Đông Phương – có thể viếng thăm và thưởng thức không khí trong lành
và núi đồi hùng vĩ, có thể tìm thấy niềm phấn khích trong phong thái
an tĩnh và giàu chất tâm linh, và có thể họ sẽ học được cách nhận
thức thế giới của riêng họ tốt hơn bằng cách phóng xả dần trong khi
ngồi thiền trên vùng cao nguyên quê hương chúng tôi.
Với sự tán trợ của các
bạn. Chúng ta sẽ trở về quê cũ. Bây giờ là lúc các bạn thực hành.
Tri ân các bạn rất nhiều.
SỰ TIẾP CẬN CỦA CON NGƯỜI VÀO HÒA BÌNH THẾ GIỚI
Mỗi sáng ta thức dậy, nghe
tin tức từ radio hay đọc báo, chúng ta đối diện với những tin tức xấu
như nhau: bạo động, tù tội, chiến tranh, thiên tai. Tôi không dám mơ
tưởng dù chỉ một ngày không nghe tường thuật những điều khủng khiếp
đang xảy ra khắp nơi.
Ngay trong thời hiện đại
nầy, rõ ràng đời sống quý báu của con người cũng không được bình an,
không có thế hệ tiền bối nào đã hứng chịu như ngày hôm nay. Ý thức
sợ hãi thường xuyên và căng thẳng sẽ tạo nên bất kỳ vấn đề nghiêm
trọng về cảm xúc và lòng trắc ẩn của con người trong sự phát triển
của thế giới hiện đại nầy. Thật là mỉa mai khi càng có nhiều vấn
đề nghiêm túc phát sinh thì xã hội công nghiệp càng tiến triển. Khoa
học và kỹ thuật đã tạo ra nhiều điều kỳ diệu trên nhiều lãnh vực,
nhưng vấn đề cơ bản của con người vẫn còn đó.
Đã có một lối học mới,
nhưng sự giáo dục phổ quát dường như không làm tăng tưởng tính thiện,
mà thay vì chỉ làm tăng thêm tính nôn nóng và không thỏa mãn. Không nghi
ngờ gì về sự gia tăng tiến bộ vật chất và kỹ thuật, nhưng không rõ vì
sao điều nầy không có hiệu quả, vì chúng ta chưa thành công trong việc
làm phát sinh hạnh phúc và an lạc hoặc là vượt thoát được khổ đau.
Chúng ta chỉ có thể kết
luận rằng phải có điều gì sai lầm nghiêm trọng trong tiến trình phát
triển, nếu chúng ta không rà soát lại kịp thời, chắc sẽ có hậu quả
thảm hại cho tương lai của loài người. Tôi không phải là người hoàn
toàn chống lại khoa học kỹ thuật – nó đã góp phần rất lớn vào toàn
bộ kinh nghiệm của loài người, đối với lợi ích vật chất và thịnh
vượng, và đối với sự hiểu biết rộng lớn về thế giới ta đang sống.
Nhưng nếu chúng ta dành sự chú trọng vào khoa học và kỹ thuật, là
chúng ta đang có nguy cơ đánh mất cơ hội tiếp xúc với những khía cạnh
tri thức và sự hiểu biết của con người làm phát sinh tính chân thực
và lòng vị tha.
Khoa học và kỹ thuật, dù
có khả năng tạo ra vô số tiện nghi vật chất cũng không thể thay thế
giá trị tinh thần truyền thống và giá trị nhân văn đã tạo nên dạng
thức đồ sộ của nền văn minh nhân loại trong toàn thể các hình thái
quốc gia như ta đã được biết ngày hôm nay.
Không ai chối từ được tiện
nghi vật chất của khoa học kỹ thuật mới mẻ, nhưng vấn đề cơ bản của
con người vẫn còn, chúng ta vẫn phải đối diện nỗi khổ, sự sợ hãi,
sự căng thẳng giống nhau, nếu không nói là nhiều hơn. Do đó, chỉ có
một điều hợp lý là cố gắng thiết lập sự quân bình giữa sự phát
triển vật chất và mặt khác, sự phát triển tâm linh, và giá trị nhân
bản. Để làm được cuộc điều chỉnh vĩ đại nầy, chúng ta cần phải làm
sống lại giá trị nhân văn của chúng ta.
Tôi chắc chắn nhiều người
sẽ chia xẻ sự quan tâm về sự khủng hoảng đạo đức rộng lớn trong thế
giới hiện nay, và sẽ tham gia lời kêu gọi của tôi đến các nhà hoạt
động nhân đạo và giới tăng lữ tôn giáo, người chia xẻ sự quan tâm làm
cho xã hội chúng ta biết yêu thương nhau nhiều hơn, thể hiện chính trực
và công bằng nhiều hơn.
Tôi không phát biểu như là
một tu sĩ Phật giáo, hay như là người Tây Tạng, tôi cũng chẳng phát
biểu như là một chuyên viên chính trị quốc tế (dù tôi không né tránh
tham gia các đề tài nầy). Đúng hơn, đơn giản là tôi phát biểu như là
một con người, một người gìn giữ giá trị nhân văn, đó là nền tảng
không chỉ của Phật giáo Đại thừa mà còn của tất cả các tôn giáo
lớn trên thế giới. Từ quan điểm nầy, tôi sẽ chia xẻ với các bạn viễn
cảnh của cá nhân tôi, đó là:
1. Chủ nghĩa nhân đạo trên
toàn vũ trụ là yếu tính để hóa giải vấn đề toàn cầu.
2. Từ bi là cột trụ của
hòa bình thế giới.
3. Tất cả các tôn giáo trên
thế giới đều sẵn sàng cho hòa bình thế giới theo phương thức nầy, tất
cả đều là tinh thần nhân đạo dù dưới bất kỳ ý thức hệ nào.
4. Mỗi cá nhân đều có một
trách nhiệm định hình sự mở màn cho việc đáp ứng nhu cầu con người.
HÒA GIẢI VẤN ĐỀ CON NGƯỜI THÔNG QUA SỰ CHUYỂN HÓA THÁI ĐỘ CỦA
RIÊNG TỪNG NGƯỜI
Trong những vấn đề chúng ta
đối diện ngày hôm nay, một số là những thảm họa thiên nhiên, và chúng
ta phải chấp nhận và đối diện với thái độ trầm tĩnh. Mặt khác, tuy
nhiên, một số vấn đề lại do chúng ta gây ra, tạo nên bởi sự hiểu lầm,
và có thể là chính xác. Vấn đề như thế sinh ra do mâu thuẫn ý thức
hệ, chính trị và tôn giáo, khi con người chống trái lẫn nhau vì những
mục đích ty tiện, bỏ quên tầm nhìn về nền tảng của lòng nhân từ ràng
buộc chúng ta với nhau như một gia đình nhân loại. Chúng ta phải nhớ
rằng các hệ thống tôn giáo, các ý thức hệ và chính trị khác nhau
trên thế giới có ý nghĩa là giúp cho loài người được hạnh phúc.
Chúng ta không được đánh mất cái nhìn về mục tiêu nền tảng nầy và
đừng bao giờ đặt phương tiện lên trên cứu cánh, và quyền tối cao của
nhân tính vượt lên trên mọi vấn đề về ý thức hệ, và luôn luôn phải
được duy trì.
Viễn cảnh về một mối nguy
đơn giản nhưng lớn nhất đang đối diện với loài người – thực vậy, với
tất cả sinh thể trên hành tinh chúng ta – là sự đe dọa về sự hủy
hoại từ vũ khí hạt nhân. Không cần phải nói chi tiết về mối nguy hiểm
nầy, nhưng tôi muốn kêu gọi các nhà lãnh đạo các cường quốc hạt nhân
đang thực sự nắm giữ tương lai của thế giới trong tay, đến các nhà
khoa học và kỹ thuật đang tiếp tục tạo ra những vũ khí đáng sợ cho
sự hủy diệt, và đến toàn thể mọi người có một vị thế ảnh hưởng
đến những người lãnh đạo của họ. Tôi kêu gọi họ hãy sử dụng phẩm
tính trong sáng thánh thiện của mình và bắt tay vào việc tháo gỡ và
phá hủy tất cả vũ khí hạt nhân. Chúng ta biết rằng trong biến cố
chiến tranh hạt nhân, sẽ không có người chiến thắng vì sẽ không có ai
sống còn. Không sợ hãi khi suy gẫm đến sự phá hoại phi nhân tính và vô
tâm như thế hay sao? Và phải chăng không hợp lý khi chúng ta phải xoay
chuyển nguyên nhân và có cả thời gian lẫn phương tiện để làm như thế?
Thường chúng ta không thể vượt qua những vấn đề của chúng ta vì hoặc
là chúng ta không biết được nguyên nhân hoặc là nếu chúng ta không hiểu
được vấn đề, thì không có phương tiện để chuyển hóa nó. Đây không phải
là trường hợp đối với đe dọa của hạt nhân.
Dù những vấn đề ấy thuộc
về sinh thể có mối liên hệ lớn nhất như loài người, hay với loài có
mối liên hệ đơn giản hơn như loài vật, thì tất cả các loài chủ yếu
đều mong cầu hòa bình, tiện nghi và sự bảo đảm. Đời sống đều đắt
giá đối với loài động vật vô tri cũng như đối với loài người, ngay
với loài côn trùng nhỏ nhất cũng tranh đấu chống lại sự nguy hiểm đe
dọa đời sống của chúng. Ngay cả mỗi người chúng ta cũng muốn sống
và không muốn chết, tất cả sinh vật khác trong vũ trụ cũng như thế.
Song le, lực tác động đến từng loài là một vấn đề khác.
Nói chung, có hai loại hạnh
phúc và đau khổ: tinh thần và vật chất. Trong hai loại, tôi tin rằng
đau khổ tinh thần và hạnh phúc tinh thần là dữ dội nhất. Bởi vậy,
tôi nhấn mạnh đến sự đào luyện tâm linh để chịu đựng khổ đau và kéo
dài được trạng thái hạnh phúc. Tuy nhiên, tôi lại có một ý niệm cụ
thể và phổ quát hơn về hạnh phúc: một hợp thể của sự bình an bên
trong tâm thức, một nền kinh tế phát triển, và hơn tất cả, là thế
giới hòa bình. Để đạt được mục tiêu như thế, tôi thấy rất cần thiết
phải đẩy mạnh ý thức về trách nhiệm toàn cầu, và mối quan tâm sâu
sắc về mọi vấn đề lâu nay đã bị thờ ơ như đức tin, chủng tộc, tính
dục, hoặc dân tộc.
Tiền đề đằng sau ý tưởng
trách nhiệm toàn cầu là một yếu tố đơn giản, nói chung là ước muốn
của tất cả mọi người khác đều giống như ước nguyện của tôi. Mọi
loài đều muốn hạnh phúc chứ không muốn đau khổ. Nếu chúng ta là loài
người thông minh, không chấp nhận sự kiện nầy thì sẽ càng có nhiều
khổ đau trên hành tinh nầy. Nếu chúng ta thừa nhận tư tưởng bản ngã
trung tâm để tiếp cận cuộc sống và thường xuyên nỗ lực sử dụng những
loài khác làm lợi ích riêng tư cho mình, chúng ta có thể đạt được lợi
ích nhất thời, nhưng lâu dài chúng ta sẽ không thành công ngay cả trong
việc đạt được hạnh phúc cá nhân. Còn vấn đề hòa bình thế giới sẽ
hoàn toàn vượt ra ngoài vấn đề.
Trong những yêu cầu để có
hạnh phúc, con người đã dùng nhiều phương pháp khác nhau, phần nhiều
thường bị ghê tởm và xa lánh. Xử sự bằng những phương pháp hoàn toàn
không mang tính người, họ chống lại khổ đau bằng cách thân thiện với
con người và các loài khác chỉ vì lợi ích của riêng cá nhân họ. Cuối
cùng, hành vi thiển cận ấy đem đến khổ đau cho chính họ cũng như cho
mọi người khác. Để được sinh ra làm người, tự nó là một sự kiện hy
hữu, và có thể vận dụng dịp may nầy một cách có hiệu quả và khéo
léo là người khôn ngoan. Chúng ta phải có tầm nhìn riêng về tiến trình
sự sống của vũ trụ, để hạnh phúc, vinh quang của cá nhân hay tập
thể: không phải tìm kiếm ở sự trả giá nơi người khác.
Tất cả đều trông chờ ở
một cuộc tiếp cận mới cho vấn đề toàn cầu. Thế giới càng trở nên
nhỏ bé hơn, và càng trở nên tùy thuộc vào nhau hơn – như là một kết
quả nhanh chóng của kỹ nghệ tiến bộ và mậu dịch quốc tế cũng như
mối quan hệ xuyên quốc gia. Ngày nay chúng ta tùy thuộc rất nhiều đến
những người khác. Thời cổ đại, các vấn đề hầu như chỉ trong phạm vi
gia đình, nó liên kết chặt chẽ một cách tự nhiên trong phạm vi gia đình,
nhưng tình thế ngày nay chúng ta tùy thuộc vào nhau rất mật thiết, liên
quan với nhau rất chặt chẽ, đến nỗi nếu không có ý thức về trách
nhiệm toàn cầu, nếu không cảm thấy tình huynh đệ trong toàn thế giới,
không có sự hiểu biết và niềm tin rằng chúng ta là một phần của gia
đình nhân loại rộng lớn, thì không ta không thể nào hy vọng vượt qua
hiểm nạn để có được sự sinh tồn – để phát triển hạnh phúc và an
lạc.
Về lâu dài, vấn đề của
một quốc gia không thể đơn độc giải quyết ổn thỏa trong lâu dài được,
vì tùy thuộc quá nhiều vào sự quan tâm và thái độ hợp tác của các
quốc gia khác. Tính chất nhân văn phổ quát tiếp cận vào vấn đề thế
giới dường như chỉ là nền tảng của vấn đề hòa bình thế giới. Điều
ấy có nghĩa gì? Chúng ta khởi đầu từ nhận thức đã được đề cập
trước đây rằng mọi chúng sinh đều mong muốn có hạnh phúc và không ai
muốn khổ đau. Thế nên sẽ trở nên sai lầm về đạo đức và thực dụng
thiếu khôn ngoan khi chỉ truy cầu hạnh phúc cho riêng mình, dĩ nhiên với
ý nguyện là cho mọi người sống chung quanh ta như một thành viên của
cùng một gia đình nhân loại. Phương cách khôn ngoan hơn là nghĩ đến
người khác khi theo đuổi hạnh phúc riêng cho mình. Việc nầy sẽ dẫn đến
điều tôi gọi là »lợi ích cá nhân khôn ngoan«, hy vọng tự nó sẽ được
chuyển thành »lợi ích của toàn thể« hoặc tốt hơn nữa là »các bên
cùng có lợi«.
Mặc dù sự gia tăng tính
tương duyên trong số các quốc gia sẽ đưa đến hy vọng làm nảy sinh sự
hợp tác thông cảm nhiều hơn, khó mà đạt được sự hợp tác tinh thần
chân thực khi mà con người còn thờ ơ với sự xúc cảm và hạnh phúc
của người khác. Khi con người bị kích động bởi tham lam và đố kỵ, thì
họ rất khó sống hài hòa. Một lối tiếp cận tinh thần có thể không
hóa giải được toàn bộ vấn đề chính trị khi đã được tạo nên bởi lối
tiếp cận của lợi ích cá nhân, nhưng lâu dài, nó sẽ vượt qua được các
nền tảng của vấn đề mà ta đang đối diện ngày nay.
Mặt khác, nếu loài người
tiếp tục tiếp cận các vấn đề chỉ xét đến tiện nghi hiện thời, thì
thế hệ tương lai sẽ phải đối diện với khó khăn khủng khiếp. Dân số
toàn cầu đang gia tăng, tài nguyên của chúng ta cạn kiệt nhanh chóng.
Hãy nhìn rừng cây chẳng hạn. Không ai có thể biết chính xác vô số ảnh
hưởng nghiêm trọng của việc khai thác rừng đối với khí hậu, đất đai
và sinh thái toàn cầu như là một thể thống nhất. Chúng ta đang phải
đối diện với các vấn đề do con người chỉ chú ý đến họ trong một
khoảng thời gian ngắn, chỉ để ý đến lợi ích cá nhân, không lưu tâm đến
toàn nhân loại. Họ không chiêm nghiệm về trái đất và ảnh hưởng lâu
dài vào đời sống chung như một toàn thể. Nếu chúng ta là người của
thế hệ hiện tại, không suy gẫm những chi tiết nầy, thì thế hệ tương
lai không thể đối phó nổi với các vấn đề ấy.
LÒNG TỪ BI NHƯ LÀ CỘT TRỤ CỦA
HÒA BÌNH THẾ GIỚI
Theo tâm lý học Phật giáo,
hầu hết những rắc rối của chúng ta đều do sự ham muốn mãnh liệt và
chấp trước vào các pháp mà ta hiểu lầm các pháp ấy là những thực
thể tồn tại lâu dài. Sự theo đuổi các khách thể là do lòng tham và
sự chấp trước của ta liên quan với việc sử dụng sự gây hấn và tranh
đua như là một công cụ hiệu nghiệm. Tiến trình tâm linh như thế dễ dàng
chuyển thành hành động của con người, nuôi dưỡng tính hiếu chiến như
một hậu quả tất yếu. Những tiến trình như vậy đã được tiếp diễn
trong tâm thức nhân loại từ lúc nào không biết được, nhưng sự biểu
hiện đã trở thành rất có hiệu quả dưới những điều kiện tân tiến.
Chúng ta có thể làm gì để kiểm soát và điều chỉnh những »độc tố«:
vô minh, tham lam và bạo động? Vì chính những độc tố nầy là hậu trường
của hầu hết mọi phiền nhiễu trên thế giới.
Là một đặc điểm phát sinh
từ ra trong truyền thống Phật giáo Đại thừa, tôi thấy rằng lòng từ bi
là chất liệu đạo đức dệt nên hòa bình thế giới. Trước tiên, tôi định
nghĩa về ý nghĩa của lòng từ bi. Khi các bạn thương xót hay động
lòng trắc ẩn đối với một người rất nghèo, nghĩa là các bạn đang
biểu hiện sự thông cảm vì người ấy nghèo khổ, do lòng thương tâm của
các bạn xuất phát từ lòng vị tha.
Mặt khác, tình yêu chồng
vợ, con cái, hay bạn bè thân thiết thường xuất phát từ lòng quyến
luyến. Khi lòng quyến luyến của bạn thay đổi, thì tình thương yêu của
bạn cũng thay đổi, hay có thể biến mất luôn. Đây không phải là tình
thương chân thực. Tình yêu chân thực là không xuất phát từ sự quyến
luyến, mà xuất phát từ lòng vị tha. Trong trường hợp nầy, lòng từ bi
của bạn sẽ tồn tại như sự đáp ứng cho con người bị khổ đau cho đến
khi loài người còn tiếp tục đau khổ.
Dạng lòng trắc ẩn nầy là
điều chúng ta phải cố gắng gieo trồng trong chính mình, và chúng ta
phải phát triển tấm lòng ấy từ tầm mức hữu hạn đến vô hạn. Lòng
từ bi không phân biệt, ngẫu nhiên và không giới hạn đối với chúng sinh
dĩ nhiên không phải là tình yêu thông thường mà con người ban phát cho
gia đình, bạn thân của họ, đã bị giảm giá trị vì vô minh, tham muốn và
chấp trước. Loại tình yêu mà ta tán đồng là loại tình thương rộng lớn
mà các bạn ban phát ngay cả cho người mà đã hãm hại các bạn: là kẻ
thù.
Tính hợp lý của lòng từ bi
là mọi người chúng ta đều muốn tránh khổ đau và có được hạnh phúc.
Điều nầy, trở lại, được xuất phát trên cảm giác có hiệu lực về
»tôi«, nó định hình sự mong muốn phổ quát về hạnh phúc. Thực vậy,
tất cả mọi người đều được sinh ra với một mong muốn giống nhau, tất
cả lẽ ra đều có quyền bình đẳng để đạt được điều mong ước đó. Nếu
tôi so sánh mình với người khác, đông vô chừng, tôi thấy những người kia
quan trọng hơn vì tôi chỉ là một trong khi những người kia là nhiều. Hơn
thế nữa, truyền thống Phật giáo Tây Tạng dạy chúng ta xem tất cả các
loài hữu tình như là người mẹ thân yêu của mình và mình phải biểu hiện
lòng tri ân bằng cách yêu thương tất cả mọi loài. Bởi vì theo giáo lý
Phật pháp, chúng ta đã sinh ra và tái sinh trong vô số kiếp, và điều
ấy được xem là mỗi người đã là cha hoặc mẹ của chúng ta trong một
đời hay nhiều đời khác. Trong tinh thần đó, tất cả loài hữu tình trong
thế gian đều chia xẻ với nhau cùng một mối quan hệ gia đình.
Dù con người có niềm tin
vào tôn giáo hay không, chẳng có ai mà không cảm thụ được lòng từ bi.
Ngay lúc chào đời, chúng ta được chăm sóc bởi lòng từ bi của cha mẹ
mình. Sau đó trong đời sống, khi đối diện với đau khổ của bệnh tật và
tuổi già, chúng ta lại nương tựa vào lòng từ bi của những người
khác. Nếu lúc sinh ra và kết thúc cuộc đời mình, chúng ta tùy thuộc
vào lòng từ bi của người khác, tại sao trong thời trung niên chúng ta
lại không sống với mọi người bằng lòng từ bi?
Sự sinh khởi của lòng từ
bi (cảm giác thân mật dành cho mọi người) không phải là niềm tin tôn
giáo mà chúng ta thường tham dự trong sự thực hành đời sống tôn giáo
quy ước hằng ngày. Lòng từ bi ấy không phải chỉ dành riêng cho những
người tin vào tôn giáo, mà cho mọi người không kể chủng tộc, tôn giáo,
khuynh hướng chính trị. Lòng từ bi ấy dành cho mọi người tự xem mình,
hơn tất cả, là thành viên của gia đình nhân loại và những người nhìn
thấy mọi điều tới một toàn cảnh rộng lớn và lâu dài hơn. Đây là một
cảm nhận mạnh mẽ mà chúng ta nên phát huy và áp dụng, thay vì chúng
ta thường thờ ơ, đặc biệt là trong thời gian đầu đời khi chúng ta trải
qua ý thức sai lầm về sự an ninh cá nhân.
Khi chúng ta có được nhận
thức về viễn cảnh lâu dài hơn, thực tế là tất cả mọi loài đều muốn
có được hạnh phúc và tránh mọi khổ đau, giữ trong tâm quan hệ bình
thường với vô số người khác, chúng ta có thể kết luận rằng thật
đáng quý khi chia xẻ mọi thứ sở hữu của mình cho người khác. Khi các
bạn rèn luyện quan niệm nầy, một ý thức chân thực về lòng từ – ý
thức chân thực về tình thương yêu và sự kính trọng đối với người khác
– trở thành có thực. Hạnh phúc cá nhân đình chỉ để tạo thành ý thức
nỗ lực tìm kiếm; nó trở thành một năng lực tự động và siêu việt bởi
vì xuất phát từ toàn thể quá trình thương yêu và giúp đỡ cho người
khác.
Một kết quả khác của sự
phát triển tâm linh lợi lạc nhất trong đời sống ngày nay là nó đã đem
lại một tâm thức an tĩnh ngay trong giây phút hiện tại. Cuộc sống
chúng ta thường xuyên bị phóng vọt ra ngoài, mang theo rất nhiều rắc
rối. Khi chúng ta đối diện với tâm tĩnh lặng và trong sáng, mọi vấn
đề có thể được hóa giải một cách trọn vẹn. Trong khi, thay vì vậy,
chúng ta đánh mất sự tự chủ trong tâm khi ta nóng nảy, ích kỷ, đố kỵ,
hờn giận, chúng ta đánh mất ý thức chân chính. Tâm ta bị mù lòa và
trong phút chốc dại dột nầy, mọi việc đều có thể xảy ra, gồm cả
chiến tranh. Do vậy, sự thực tập lòng từ bi và trí tuệ rất có ích cho
tất cả mọi giới, đặc biệt là cho những người có trách nhiệm điều
khiển quốc gia, trong tay họ nắm toàn bộ quyền hạn và cơ hội tạo nên
cấu trúc một thế giới hòa bình.
MỘT TÔN GIÁO PHỔ QUÁT CHO NỀN
HÒA BÌNH NHÂN LOẠI
Những đạo lý được thảo
luận đến vẫn có được sự hài hòa với giáo lý đạo đức của tất cả
các tôn giáo trên thế giới. Tôi xác nhận rằng mỗi tôn giáo lớn trên
thế giới: đạo Phật, Cơ-đốc giáo, Khổng giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo,
Kỳ Na giáo, Do Thái giáo, đạo Xích, đạo Lão, đạo
Zoroastrianism, đều có quan niệm về tình
thương giống nhau, có cùng mục tiêu đem sự lợi lạc đến cho loài người
qua phương cách thực hành tâm linh, và cùng một hiệu quả khiến cho các
tín đồ của họ trở nên con người hoàn thiện. Tất cả các tôn giáo đều
dạy những giới điều đạo đức để hoàn thiện chức năng của tâm ý, thân
thể và lời nói. Tất cả các giới luật đều dạy chúng ta không nên nói
dối hoặc trộm cắp hoặc hủy hoại sinh mạng của người khác, và còn
nữa. Mục đích chung của tất cả giới điều đạo đức được đưa ra bởi
những bậc đạo sư vĩ đại của nhân loại chính là tính vô ngã. Các vị
đại đạo sư muốn dẫn dắt môn đệ của mình tránh khỏi con đường tạo ra
những chủng tử xấu gây nên bởi vô minh và giới thiệu cho các môn đệ
con đường nhắm đến toàn thiện.
Tất cả các tôn giáo đều
đồng ý đến tính cần thiết của việc điều chỉnh tâm thức lan man là nơi
trú ẩn của bản ngã và những cội rễ khác của phiền não, và mỗi
giáo lý đều chỉ dạy một con đường dẫn đến cảnh giới tâm linh đầy
bình an, ổn định, đức hạnh và trí tuệ. Trong ý nghĩa nầy, tôi tin rằng
các tôn giáo đều có một thông điệp cơ bản giống nhau. Những giáo lý
khác nhau có thể được quy về cho sự khác nhau của các thời đại và
các hoàn cảnh sống cũng như sự ảnh hưởng của các nền văn hóa. Thực
vậy, những cuộc tranh luận có tính chất học giả sẽ không cùng tận khi
ta chỉ thuần túy khảo sát tôn giáo trên khía cạnh siêu hình. Tuy nhiên,
sẽ được lợi lạc nhiều hơn khi cố gắng ứng dụng trong đời sống hàng
ngày những giới điều đạo đức để đạt được sự toàn thiện được các
tôn giáo hướng dẫn hơn là bàn cãi về những sự khác biệt khi tiếp
cận.
Có nhiều tôn giáo khác nhau
mang đến lợi ích và hạnh phúc cho nhân loại bằng nhiều phương pháp
giống nhau như có nhiều cách chữa trị đặc biệt cho nhiều loại bệnh
tật. Bởi vì, các tôn giáo đều hiến mình theo phương thức của riêng mình
để cứu giúp cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau và đạt được hạnh phúc.
Và, mặc dù chúng ta có thể tìm thấy những nguyên nhân về sự ưa thích
việc biện minh, lý giải cho một chân lý của tôn giáo nào đó, thì vẫn
có nhiều nguyên nhân lớn hơn về sự hợp quần, phát sinh từ lòng người.
Mỗi tôn giáo hoạt động theo phương pháp riêng của mình để giảm trừ khổ
đau con người và đóng góp vào văn minh của nhân loại. Trái lại, không
phải là mục đích của tôn giáo. Chẳng hạn, tôi không cho rằng nên bắt
buộc người khác cải đạo sang Phật giáo, hay là gieo thêm những nhân
duyên với Phật pháp. Đúng hơn, tôi thường suy nghĩ làm sao để mình được
là một con người của đạo Phật nhân bản, có thể góp phần vào hạnh
phúc của con người.
Trong khi chỉ ra những điểm
tương đồng căn bản giữa các tôn giáo trên thế giới, tôi không biện hộ
cho một tôn giáo đặc biệt nào và hạ thấp các tôn giáo khác, tôi cũng
không tìm kiếm một »tôn giáo thế giới« mới. Tất cả các tôn giáo khác
nhau trên thế giới đã đủ để làm giàu cho kinh nghiệm của con người và
đủ cho văn minh nhân loại rồi. Tâm thức con người chúng ta, vốn có
nhiều khả năng và thiên hướng khác nhau, nên cần có những phương cách
để tiếp cận với sự an bình và hạnh phúc. Cũng giống như thức ăn, một
số người nhận thấy Cơ-đốc giáo hấp dẫn hơn, một số khác thích Phật giáo
hơn vì không có một đấng sáng tạo thế giới trong giáo lý ấy và mọi
hiện hữu đều tùy thuộc vào hành vi của chính mình. Chúng ta có thể
mở ra nhiều cuộc thảo luận về các tôn giáo khác như thế. Vậy nên mục
đích thì đã rõ: nhân loại cần tất cả các tôn giáo để thích nghi với
phương thức sống, thích nghi với nhu cầu tâm linh đa dạng và thừa kế
truyền thống dân tộc của cá nhân con người.
Từ viễn cảnh nầy, tôi tán
đồng những nỗ lực đang được thể hiện từ khắp mọi nơi trên thế giới
để góp phần cho sự hiểu biết tốt hơn về các tôn giáo. Nhu cầu cho
việc nầy đặc biệt cấp bách hiện nay. Nếu tất cả các tôn giáo tạo
nên được sự cải thiện những mối quan tâm chính của nhân loại, thì họ
sẽ cùng hành động hòa hợp với nhau cho hòa bình thế giới. Sự tin
tưởng và hiểu biết lẫn nhau sẽ sinh khởi sự cần thiết nhất quán cho
các tôn giáo cùng hoạt động với nhau. Tuy nhiên, mặc dù đây thực sự
là một bước quan trọng, chúng ta phải nhớ rằng. Sẽ không có một giải
pháp nào nhanh chóng và dễ dàng cả. Chúng ta không thể giấu diếm
được những xung khắc của các học thuyết đang tồn tại từ những đức
tin khác nhau. Cũng không hy vọng có thể thay thế những tôn giáo đang
hiện hữu bởi một đức tin mới phổ biến hơn. Mọi tôn giáo đều có
những sự đóng góp riêng biệt để thực thi, và mỗi tôn giáo đều có
riêng phương pháp để thích nghi với từng căn cơ của các dạng người như
họ nhận thức về đời sống nầy. Thế giới cần tất cả các tôn giáo
ấy.
Có hai vấn đề chủ yếu đòi
hỏi các nhà hoạt động tôn giáo quan tâm đến hòa bình thế giới. Trước
hết, chúng ta phải phát huy hơn nữa sự tin tưởng và hiểu biết lẫn
nhau để tạo nên mức độ khả thi cho sự hợp nhất các tôn giáo. Điều
nầy có thể thành tựu từng phần bởi sự tôn trọng các đức tin của
mỗi bên và bằng cách nhấn mạnh mối quan tâm chung nhất về niềm an vui
của con người.
Thứ hai, chúng ta phải lập
ra thỏa hiệp chung có thể tác dụng trên giá trị nền tảng về tâm linh
sẽ làm rung động lòng người và tăng trưởng hạnh phúc của toàn nhân
loại. Điều nầy có nghĩa là chúng ta phải chú trọng vào mẫu số chung
của các tôn giáo trên thế giới – lý tưởng nhân đạo. Hai bước nầy sẽ
khuyến khích chúng ta hành động trên cả hai phương diện, cá nhân và
cộng đồng để tạo ra các yếu tố tâm linh thiết yếu cho hòa bình thế
giới.
Chúng ta là hành giả của
các đức tin khác nhau. Có thể cũng hợp tác với nhau cho hòa bình thế
giới. Khi chúng ta thấy rõ các tôn giáo khác nhau chính là những chất
liệu thiết yếu để phát triển thành một tấm lòng chí thiện – yêu
thương và tôn trọng mọi loài, cùng ý thức chân chính về đời sống cộng
đồng. Điều quan trọng nhất là nhìn về các dự định triển vọng của
các tôn giáo, không chỉ ở chi tiết về lý thuyết và chất siêu hình,
chỉ có thể dẫn dắt đến chủ nghĩa tri thức. Tôi tin rằng tất cả các
tôn giáo lớn trên thế giới có thể tham gia vào hòa bình thế giới và
hợp tác cùng nhau cho lợi ích nhân loại nếu chúng ta gạt qua một bên
những dị biệt siêu hình vi tế, vốn thực sự là những vấn đề nội tại
của mỗi tôn giáo.
Mặc dù tiến trình thế tục
hóa đã phát sinh bởi sự hiện đại hóa trên bình diện thế giới, và
mặc dù những nỗ lực mang tính hệ thống hóa ở một phần thế giới
nhằm phá hủy giá trị tâm linh, nhưng số đông loài người vẫn tiếp tục
tin vào một tôn giáo nầy hoặc tôn giáo khác. Niềm tin bất diệt vào
tôn giáo, những biến cố dù trải qua dưới hệ thống chính trị vô thần,
biểu lộ rõ ràng tiềm năng của tôn giáo như nó vốn vậy. Năng lực tâm
linh nầy và sức mạnh bên ngoài có thể sẵn sàng để phát khởi những
yếu tố tâm linh cần thiết cho hòa bình thế giới. Những nhà lãnh đạo
tôn giáo và các lãnh đạo các phong trào nhân đạo trên khắp thế giới
phải nên có một vai trò đặc biệt để điều hành trên phương diện nầy.
Dù chúng ta sẽ thành tựu được hòa bình thế giới hay không, chúng ta
không thể lựa chọn mà chỉ hành động nhắm đến mục tiêu nầy. Nếu tâm
ta bị chế ngự bởi nóng giận, chúng ta sẽ đánh mất phần ưu việt nhất
của tri thức con người – trí tuệ, là khả năng quyết định giữa chính và
tà. Nóng giận là một vấn đề nghiêm trọng nhất thách thức thế giới
ngày nay.
NĂNG LỰC CÁ NHÂN ĐỊNH HÌNH CHO SỰ KHỞI ĐẦU
Nóng giận đóng một vai trò
không nhỏ trong các cuộc xung đột hiện thời như đang xảy ra ở Trung
Đông, Đông Nam Á, vấn đề
Nam
Bắc... Những cuộc xung đột nầy phát sinh từ sự thất bại trong việc
không hiểu biết về quan điểm nhân đạo của nhau. Giải quyết vấn đề
không phải là sử dụng và phát huy quân đội hùng mạnh, hoặc các loại
vũ khí hiện đại. Cũng không phải thuần túy vấn đề chính trị hay thuần
túy kỹ thuật. Cơ bản vấn đề là tinh thần, trong ý nghĩa những gì cần
thiết là sự hiểu biết nhạy bén về tình trạng chung của con người.
Thù nghịch và chống đối không thể mang lại hạnh phúc cho mọi người,
ngay cả người thắng trận. Bạo động luôn luôn tạo ra khổ đau, chủ yếu
là tác động ngược lại. Vậy nên, đó là lúc cho các nhà lãnh đạo thế
giới học cách vượt qua sự kỳ thị chủng tộc, văn hóa và ý thức hệ
để có cái nhìn xuyên suốt bằng con mắt khác để thấy tình trạng chung
của con người hiện nay. Làm được như thế, sẽ có lợi lạc rất nhiều
cho từng cá nhân, cộng đồng, quốc gia và toàn thế giới.
Sự căng thẳng của thế giới
hiện nay phần lớn dường như xuất phát từ mâu thuẫn giữa »khối phương
Đông« và »khối phương Tây« tiếp diễn từ thế chiến thứ 2. Cả hai khối
nầy có khuynh hướng mô tả và nhìn khối kia bằng một nhãn quan hoàn
toàn bất lợi. Cuộc đấu tranh liên tục, bất hợp lý nầy do vì thiếu
thông cảm và thiếu tôn trọng lẫn nhau như là một người bạn. Những
người thuộc khối phương Đông nên từ bỏ sự thù nghịch với khối phương
Tây vì khối phương Tây cũng bao gồm những người đàn ông, phụ nữ, trẻ
em. Tương tự, khối phương Tây nên từ bỏ sự thù nghịch lẫn nhau giữa hai
khối như thế, các nhà lãnh đạo của hai bên phải đóng một vai trò rất
lớn. Nhưng trước nhất, các nhà lãnh đạo phải nhận thức được tính nhân
đạo trong người dân nước mình và người dân nước khác. Không có được
nhận thức cơ bản nầy, thì rất hiếm có được hiệu quả trong việc giảm
trừ sự thù nghịch ở các tổ chức.
Nếu như, chẳng hạn, lãnh
đạo của Hoa Kỳ và lãnh đạo của Liên bang Xô-viết tình cờ gặp nhau
giữa một hoang đảo, tôi chắc là họ sẽ đáp ứng những vấn đề tự phát
của nhau như là những người bạn thân của loài người. Nhưng một bức
tường của sự nghi ngờ và hiểu lầm lẫn nhau ngăn cách ngay giây phút
họ tự đồng nhất mình với danh hiệu »Tổng Thống Hoa Kỳ« và »Tổng Bí
thư Liên bang Xô-viết«. Nhiều người quen tiếp xúc với hình thức không
cần lễ nghi trong các cuộc gặp gỡ rộng rãi, không cần hẹn trước, như
thế sẽ phát huy được sự hiểu biết lẫn nhau; họ sẽ học được cách
liên hệ với những người khác và rồi có thể cố gắng hòa giải vấn
đề thế giới căn cứ trên sự hiểu biết nầy. Khi không có hai đảng phái,
đặc biệt là những bên có một lịch sử đối kháng nhau, thì họ có thể
đàm phán thành công trong bầu không khí nghi ngờ và thù nghịch.
Tôi đề nghị các nhà lãnh
đạo thế giới nên gặp nhau một năm một lần ở một nơi có phong cảnh
đẹp mà không có sự bận rộn của công việc, chỉ để tạo ra sự hiểu
biết lẫn nhau về giữa con người. Thế rồi, sau đó họ có thể gặp nhau
để thảo luận về những vấn đề toàn cầu. Tôi chắc sẽ có nhiều người
cùng chia xẻ ước muốn của tôi về các lãnh tụ thế giới nên gặp nhau
ở bàn hội nghị trong bầu không khí kính trọng và hiểu biết lẫn nhau
về tính cách con người của nhau.
Để phát triển rộng lớn sự
liên lạc mật thiết giữa người với người trên thế giới, tôi mong muốn
thấy sự khích lệ lớn hơn của ngành du lịch thế giới. Cũng vậy, phương
tiện truyền thông lớn lao, đặc biệt là ở xã hội dân chủ, có thể tạo
nên quan tâm thích đáng vào hòa bình thế giới bằng cách đóng góp nhiều
bài tường thuật về những tiết mục mà con người quan tâm, phản ánh sự
hợp nhất tối cao của nhân loại. Với sự sinh khởi của vài năng lực vĩ
đại nầy trên diễn đàn quốc tế, nơi vai trò của nhân tính trong các tổ
chức quốc tế đang bị bỏ qua và xem thường, tôi hy vọng điều nầy sẽ
được điều chỉnh và tất cả các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên
Hiệp Quốc, sẽ năng động và hiệu quả hơn trong việc bảo đảm lợi lạc
lớn nhất cho nhân loại và mở rộng tầm hiểu biết trên phạm vi quốc
tế. Thực là rất bi đát nếu một vài thành viên có thế lực mạnh tiếp
tục bạc đãi các tổ chức khác trên thế giới, như Liên Hiệp Quốc với
những quan tâm có tính cách thiên vị. Liên Hiệp Quốc phải trở thành
công cụ cho hòa bình thế giới. Tổ chức thế giới nầy phải được tôn
trọng bởi tất cả, vì Liên Hiệp Quốc là cội nguồn hy vọng duy nhất cho
những nước nhỏ bị áp bức và cũng như cho toàn thể các hành tinh.
Như các quốc gia nghèo tùy
thuộc vào các nước khác hơn trước đây bao giờ hết, thì sự hiểu biết
của con người phải vượt qua ranh giới quốc gia và phải bao hàm cả
cộng đồng thế giới ở mức độ rộng lớn. Thực vậy, trừ phi chúng ta
tạo được bầu không khí hợp tác chân thực, không thủ lợi bằng sự đe
dọa hay thực dụng thông qua bạo lực mà bằng sự hiểu biết thông cảm,
thì vấn đề thế giới sẽ được thúc đẩy. Nếu người ở các quốc gia
nghèo bị khước từ hạnh phúc mà họ mơ ước và xứng đáng được hưởng,
tự nhiên, họ sẽ bất mãn và đặt vấn đề với người giàu. Nếu những
hình thức xã hội, chính trị, văn hóa vô ích ấy tiép tục áp đặt cho con
người một cách miễn cưỡng, thì mục đích hòa bình thế giới thật đáng
ngờ.
Tuy nhiên, nếu chúng ta thỏa
mãn mọi người ở mức độ tùy tâm, hòa bình chắc chắn sẽ đến.
Trong mỗi quốc gia, mỗi cá
nhân phải có quyền được hạnh phúc, và giữa các quốc gia, phải có sự
quan tâm bình đẳng về lợi ích của một quốc gia dù nhỏ nhất. Tôi không
đề nghị một hệ thống này tốt hơn hệ thống kia và tất cả đều phải
chấp nhận. Ngược lại, những hệ thống chính trị và ý thức hệ khác
nhau là điều tốt đẹp và thích hợp với những thiên hướng khác nhau
trong cộng đồng nhân loại. Điều nầy làm tăng thêm những yêu cầu hạnh
phúc không ngừng của nhân loại. Vậy nên mỗi cộng đồng nên có được tự
do tham gia vào hệ thống chính trị và kinh tế – xã hội của riêng họ,
căn cứ vào nguyên tắc của quyền tự quyết.
Sự thành tựu của công lý,
hòa hợp, và hòa bình tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Chúng ta nên suy
nghĩ về nó trong phạm vi lợi lạc của con người về lâu dài hơn là
ngắn hạn. Tôi nhận thấy sự to lớn của vấn đề đã xảy ra trước chúng
tôi, nhưng tôi hiểu không có cách thay thế hơn là cách mà tôi đã dự
tính – căn cứ trên cộng đồng nhân loại chúng ta. Các quốc gia không còn
có sự lựa chọn nào hơn là quan tâm đến lợi ích của người khác, không
nhiều bởi vì niềm tin vào nhân loại, mà bởi vì đó là sự hỗ tương lẫn
nhau và lợi ích lâu dài mà tất cả các quốc gia cùng quan tâm. Một cảm
thụ về thực tại mới mẻ nầy được biểu hiện bởi sự nổi lên của các
tổ chức kinh tế khu vực hay liên lục địa như Cộng đồng kinh tế châu Âu
và Hiệp hội các nước Đông Nam Á...
Và cứ thế, hy vọng còn có nhiều tổ chức xuyên quốc gia sẽ được
thành lập, đặc biệt là ở những vùng kinh tế phát triển và những nơi
dường như ổn định với những nhu cầu tối thiểu.
Với điều kiện hiện nay,
chắc chắn có một nhu cầu đang lớn mạnh về tri thức của nhân loại và
ý thức về trách nhiệm toàn cầu. Để thành tựu được lý tưởng nầy,
chúng ta phải nuôi lớn lòng từ bi chí thiện, không có tấm lòng nầy,
chúng ta không thể có được hạnh phúc cho nhân loại cũng không có hòa
bình thế giới lâu dài. Chúng ta không thể tạo hòa bình trên giấy. Trong
khi bào chữa, biện hộ cho trách nhiệm toàn cầu và tình huynh đệ rộng
lớn không giới hạn, thực tế là tính nhân đạo ấy được hợp thành bởi
những thực thể tách rời trong dạng những xã hội mang tính quốc gia. Do
vậy, trong một ý nghĩa thực tế, tôi thấy những xã hội nầy dường như
đang bị bắt buộc phải dựng nên một chướng ngại cho hòa bình thế giới.
Những nỗ lực đã có trong
quá khứ để tạo dựng cho xã hội công chính và bình đẳng hơn. Những sự
khởi động đã được thiết lập với những hiến chương cao quý để chống
lại những thế lực phá hoại xã hội. Không may, những ý tưởng nầy đã
bị lòng ích kỷ đánh lừa. Còn hơn trước đây, ngày nay chúng ta chứng
kiến đạo đức và những nguyên tắc cao quý bị che mờ bởi bóng râm của
tư lợi, đặc biệt là trong bầu khí chính trị. Có một trường phái tư
tưởng cảnh báo chúng ta đề phòng vấn đề chính trị nói chung, vì chính
trị đã trở nên đồng nghĩa với phi luân. Chính trị thiếu luân lý thì
không thúc đẩy được lợi ích nhân loại và đời sống không có đạo đức
thì kéo con người xuống mức cầm thú. Tuy nhiên, chính trị rõ ràng không
»dơ bẩn«. Đúng hơn, những chất liệu của nền văn hóa chính trị của
chúng ta đã bóp méo lý tưởng cao cả và ý thức cao thượng có ý
nghĩa đẩy mạnh lợi lạc cho con người. Tất nhiên, những người có tinh
thần biểu lộ sự quan tâm của họ về những nhà lãnh đạo tôn giáo hay
»lẫn lộn« với vấn đề chính trị, do họ sợ sự ô nhiễm mà tôn giáo
phải bị mắc phải vì sự bẩn thỉu của chính trị.
Tôi đề nghị sự tự tôn thông
thường về tôn giáo và luân lý không nên đặt trong chính trị và những
người có đời sống tôn giáo ấy nên tự mình sống ẩn dật như một nhà tu
khổ hạnh. Quan niệm như vậy về tôn giáo cũng chỉ mới một chiều, nó
thiếu tầm nhìn chính đáng về sự liên hệ của cá nhân với xã hội và
vai trò của tôn giáo trong đời sống chúng ta. Đạo đức như là một tính
chất quyết định đối với một chính trị gia như nó đối với một tín đồ.
Hậu quả nguy hiểm sẽ kéo theo khi nhà chính trị và lãnh đạo quên đi
những nguyên tắc đạo đức. Dù chúng ta có tin vào thượng đế và nghiệp
hay không, luân lý vẫn là nền tảng của mọi tôn giáo. Những phẩm chất
của con người như đạo đức, từ bi, sự lễ phép, trí tuệ... là nền tảng
của tất cả mọi nền văn minh. Những phẩm chất nầy phải được gieo
trồng và nuôi dưỡng thông qua hệ thống giáo dục đạo đức với sự hỗ
trợ của môi trường xã hội chung quanh để tính nhân bản thế giới có
thể khởi phát được. Những phẩm tính cần thiết để tạo nên một thế
giới như vậy phải được khắc sâu vào trong trí ngay từ lúc mới sinh
trưởng, từ thời thơ ấu của trẻ thơ. Chúng ta không thể chờ đợi thế
hệ tương lai, nhưng không thể có được điều nầy trừ phi chúng ta khởi
đầu một sự thay đổi chủ yếu trên bình diện thế giới trong hệ thống
giáo dục hiện thời. Chúng ta cần có một cuộc cách mạng trong sự cam
kết của chúng ta và sự thực hành giá trị nhân bản trên toàn cầu.
Phát những lời kêu gọi rầm
rộ để điều chỉnh lại sự suy thoái đạo đức cũng chưa đủ, chúng ta
phải làm một điều gì đó. Bởi vì chính phủ ngày nay không gánh vác một
trách nhiệm »tôn giáo« như vậy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo và lãnh
đạo các tổ chức nhân đạo phải kéo dài sự tồn tại một xã hội, văn
hóa, nền giáo dục và các tổ chức tôn giáo có tính công dân, để làm
sống lại tính nhân đạo và giá trị tâm linh. Nơi đâu có nhu cầu cần
thiết, chúng ta phải tạo ra tổ chức mới để thành tựu mục tiêu. Chỉ
có thực hiện như vậy, chúng ta mới mong tạo được một nền tảng vững
chắc cho hòa bình thế giới.
Cùng sống trong xã hội,
chúng ta nên chia xẻ sự đau khổ của đồng loại và thực hành lòng từ
bi và lòng khoan thứ không những chỉ đối với những người ta yêu mà
còn đối với kẻ thù nghịch ta. Đây là sự thử nghiệm sức mạnh đạo
đức. Chúng ta phải lấy ví dụ ngay nơi sự thực hành của mình, vì chúng
ta không thể hy vọng tin tưởng giá trị tôn giáo ở người khác chỉ bằng
qua lời nói. Chúng ta phải sống cùng một tiêu chuẩn của sự hợp nhất
và lòng hy sinh cao độ mà chúng ta đã đòi hỏi ở người khác. Mục đích
tối hậu của các tôn giáo là giúp ích và làm lợi ích cho nhân loại.
Đây là lý do rất quan trọng tại sao các tôn giáo luôn luôn có ảnh
hưởng đến hạnh phúc và hòa bình của toàn thể chúng sinh mà không chỉ
là chuyển hóa người theo tôn giáo khác.
Cũng vậy, trong tôn giáo
không có biên giới quốc gia. Một tôn giáo chỉ có thể nên áp dụng bởi
con người khi họ nhân ra có những điều lợi lạc khi sống trong tinh thần
tôn giáo đó. Điều quan trọng cho mỗi người tìm kiếm là chọn được một
tôn giáo thích hợp với đời sống tâm linh của riêng mình. Nhưng, sự chọn
lựa một tôn giáo đặc biệt không có nghĩa là từ bỏ tôn giáo khác
hoặc cộng đồng nơi mình đang sống. Thực vậy, rất quan trọng cho những
người chọn một tôn giáo không nên tách rời hẳn mình khỏi xã hội mình
đang sống, họ nên tiếp tục sống trong cộng đồng và hài hòa với các
thành viên đang sống trong đó. Bởi vì từ bỏ cộng đồng của mình, thì
các bạn không thể làm lợi ích cho người khác, trong khi làm lợi ích cho
mọi người thực sự là mục tiêu cơ bản của tôn giáo.
Theo quan điểm nầy, có hai
điều quan trọng chúng ta phải giữ trong tâm: tự chiêm nghiệm và tự
điều chỉnh lại mình. Chúng ta nên thường rà soát lại thái độ của mình
đối với người khác, khảo nghiệm mình rất kỹ, và chúng ta nên điều
chỉnh phong cách kịp thời khi thấy có điều gì sai trái.
Cuối cùng, là vài lời về
sự tiến bộ vật chất. Tôi đã nghe nhiều than phiền về tiến bộ vật
chất ở phương Tây, và thế là có điều nghịch lý, điều ấy đã là niềm
hãnh diện của thế giới phương Tây. Tôi không thấy điều gì sai trái trong
sự tiến bộ vật chất, miễn là con người luôn luôn tạo ra tiêu chuẩn
sống cho mình. Tôi tin chắc chắn rằng để giải quyết vấn đề nhân loại
trong mọi chiều hướng, chúng ta phải kết hợp và điều hòa sự phát
triển kinh tế và phát triển đời sống tâm linh.
Tuy nhiên, chúng ta phải
biết giới hạn của nó mặc dù tri thức duy vật trọng hình thái khoa
học kỹ thuật đã đóng góp một cách vô cùng to lớn cho lợi ích nhân
loại, nhưng nó không có khả năng tạo ra hạnh phúc lâu dài. Chẳng hạn
như ở Hoa Kỳ, nơi mà sự phát triển của kỹ thuật có lẽ tiến bộ hơn
bất kỳ quốc gia nào khác, mà người dân vẫn còn rất nhiều nỗi khổ
tinh thần. Đây là vì tri thức vật chất chỉ có thể đáp ứng một phần
hạnh phúc tùy thuộc vào điều kiện vật lý. Nó không thể đáp ứng
được hạnh phúc phát xuất từ những yếu tố nội tại phát triển độc
lập từ chiều sâu tâm linh.
Để làm mới lại giá trị
nhân bản và đạt được hạnh phúc lâu dài, chúng ta phải nhìn vào di sản
của cộng đồng nhân loại từ khắp các quốc gia trên thế giới. Nguyện
cầu cho bản chuyên luận nầy được đến quý vị như một lời nhắc nhở
cấp bách để chúng ta khỏi quên giá trị nhân bản đã nối kết chúng ta
lại với nhau thành một gia đình hợp nhất trên hành tinh nầy.
MỤC LỤC