Quan điểm chiến đấu trong Phật giáo

quan diem

 

Quan điểm chiến đấu trong Phật giáo

TINH VÂN

NGUYỄN PHƯỚC TÂM dịch                                 

 

Loài người, cho đến hết thảy chúng sinh, muốn sinh tồn trên trái đất này, hẳn không thể thiếu vắng ‘tinh thần chiến đấu’. Lớn thì như Đức Phật vượt thoát cõi trần gian xuất gia, khuất phục hàng ma quân từ trong ra ngoài, chứng đắc quả Phật viên mãn, đòi hỏi sức chiến đấu hùng mạnh; nhỏ thì khắc phục mọi nghịch cảnh chung quanh trong đời sống hằng ngày, thậm chí trong việc điều hòa cân đối thân tâm, khởi tâm động niệm, mọi thứ đều phải có đủ ‘tinh thần chiến đấu’.

Chúng sinh điên đảo, thường ‘lấy tà làm chánh, lấy ác làm thiện’, nếu như các vị tướng trong các cuộc chiến ác liệt như Vi-đà (Skanda), Tăng-già-lam (Samgharama) không đại diện chính nghĩa, lấy vũ lực duy trì hòa bình thế gian, thì bách tánh lương thiện không thể nào an cư lạc nghiệp. Nhân gian là chốn trần gian lẫn lộn nửa ma nửa Phật, sứ giả quang minh chính đại thường phải đi cùng với bài ca khải hoàn thắng lợi mới có thể đến bến bờ được. Giống như ngày hôm nay, hội nghị thưởng đỉnh (cấp cao) các nước trên thế giới, nếu không có sự ủng hộ sức mạnh quốc phòng mạnh mẽ, thì không tranh thủ được các cuộc đàm phán hòa bình; nhân viên quân cảnh (quân nhân và cảnh sát) gìn giữ và bảo vệ trị an, nếu không có ý thức sứ mệnh chính nghĩa mạnh mẽ, cũng như vũ khí chiến thuật hoàn hảo tinh vi, thì không có điều kiện để trừng trị người xấu, bắt tóm kẻ ác, hàng phục thế lực hung dữ.

Tuy nhiên, cuộc chiến vũ lực giữa địch với ta, rốt cuộc không phải là con đường cứu cánh. Dũng mạnh thiện chiến như Alexander Đại đế (356-323 TCN) Hy Lạp, chinh phục lãnh thổ rộng lớn, sau khi từ giã cõi đời, những cận tướng của ông ngay sau đó đã tranh giành gây chiến với nhau, chia cắt đế quốc. Một ví dụ khác nữa là Thành Cát Tư Hãn (1162-1227) của đế quốc triều Nguyên Mông Cổ, gần như bất cứ chỗ nào mà chiến quân của ông ta bước tới là chỗ đó máu chảy thành sông, nhưng chiến tích nay đâu được yên ổn? Các nước lại thảo phạt lẫn nhau, khó tránh khỏi cộng nghiệp ràng buộc, oan oan tương báo (trả thù qua lại hoài không có điểm ngừng), sinh linh lâm vào cảnh khốn khổ lầm than mà thôi. Vì vậy, trong kinh Phật bản hạnh tập nói: “Nếu người khéo biết chiến đấu, một mình có thể hàng phục được trăm vạn người; nay nếu có thể hàng phục tự tâm mình, thì mới gọi là người chiến đấu thật sự của thế gian này.[1] Trước đây vua A Dục (Asoka) thống nhất Ấn Độ, thời kỳ đầu đánh Đông dẹp Bắc, tất cả cuộc chiến đều thắng lợi hoàn toàn; khi đi thần phục khắp nơi, thì lại không giành được lòng dân bách tánh. Còn như sự hóa độ của Cao tăng Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Maudgaliputra Tisya) thì lại khác, sau khi một lòng tin tưởng Phật giáo, sự nghiệp biến đổi rất lớn, đức độ lan xa, vì thế được ngợi khen là ‘Luân vương hóa thế’[2].

Với Phật giáo, sự hiện bày của sức chiến đấu, bên trong thì là khai phá, mở mang chiều sâu của ‘nguyện lớn từ bi’ (bi tâm đại nguyện); bên ngoài thì là nhân rộng tinh thần ‘kiên nghị bất khuất’. Trong đó, những bậc có thể đại diện cho sự dũng mãnh không sợ hãi, như Ngài Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) dùng uy lực thần thông hàng phục ma vương, quỷ dữ; Xá Lợi Phất (Sariputra) dùng khả năng tài hùng biện sâu sắc làm cho Lục sư ngoại đạo[3] cảm phục; Phú Lâu Na (Purna) tự nguyện dấn thân vào cõi man rợ, dùng sức chịu đựng dẫn dắt từng bước chuyển hóa những kẻ ngu muội; Đại Ca Diếp/ Maha Ca Diếp (Mahakasyapa) triệu tập năm trăm vị A-la-hán (arhat) kết tập (thu thập) kinh luật, đề phòng Chánh pháp mai một. Trên đây đều là sự triển hiện khác nhau về sức chiến đấu trong Phật giáo.

 

Cuộc chiến tranh gian nan nhất trong cõi đời này, không phải là sự đối đầu thế trận giữa địch với ta, mà là ở chỗ cuộc chiến giữa Phật và quỷ đang diễn ra trong nội tâm. Vì vậy kinh Tứ thập nhị chương mô tả người tu hành, như là một dũng sĩ khoắc chiến giáp xong trận tác chiến với hàng trăm hàng vạn ma quân, kẻ tâm tính hèn nhát, phần lớn đều bỏ cuộc nửa chừng, chỉ có những người có nguyện lực kiên trì mới có thể đạt tới chiến thắng cuối cùng. Với người tu hành cần có các ‘chiến lược’ sau đây:

1. Lấy chính kiến và trì giới làm nón giáp sắt: Nón giáp sắt hữu hình có thể chống lại kẻ thù cường bạo, bảo vệ tự thân; nón giáo sắt chánh kiến có thể ngăn chặn sự cám dỗ, xa rời ba độc tham-sân-si. Kinh A-nan vấn sự Phật cát hung nói rằng: “Người có giới đức, thì được đạo đức bảo vệ mạnh mẽ, sai khiến chư thiên, trời rồng quỷ thần đều kính phục.”[4] Vì vậy, trước hết cần có ‘chánh kiến’, mới có thể bước đến chánh đạo được; đã có cái nhìn nhân sinh đúng đắn rồi, còn phải gìn giữ giới luật và nỗ lực thực hành nữa, mới có khả năng có được cuộc sống hoàn hảo.

2. Lấy trí tuệ và phương tiện làm dao nhọn tên bắn: Kinh Đại thừa lý thú lục Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Mahayananayasat paramita sutra) nói: “An trú không lay chuyển, giống như kim cang chắc bền; lấy trí tuệ làm tên bắn, phá nát giặc phiền não, cắt đứt quân sinh tử, đập vỡ lũ ác ma, gánh vác tất cả, khiến hết thảy chúng sinh đều được giải thoát.[5] Bồ-tát Văn Thù (Manjusri) đệ nhất trí tuệ, tay cầm bảo kiếm, tức là tượng trưng cho việc lấy kiếm trí tuệ chặt đứt ma quân phiền não. Vì vậy, kinh Phật di giáo nói: “Nếu có trí tuệ, thì không tham đắm, thường tự soi xét, chẳng để có sai sót, như vậy thì ở trong ngã pháp có thể được giải thoát.”[6] Cho nên, có trí tuệ mới có khả năng chặt đứt mọi gai gốc của phiền não, xây dựng cung điện của tâm linh.

3. Lấy tinh tiến và dũng mãnh làm sức mạnh: Kinh Đại thừa lý thú lục Bát-nhã ba-la-mật-đa (Mahayananayasat – paramita sutra) nói: “Lúc cầu Bồ-đề (Bodhi), mặc áo giáp tinh tiến, coi thề nguyện lớn như là cây gậy, ngày đêm chuyên cần, tăng thêm công đức, giống như vầng trăng mới nhô lên, dần dần đầy đặn.”[7] Bất kỳ việc gì, nếu có thể tinh tiến dũng mãnh, không sợ hãi thối lui, thì chắc chắn có thể khắc phục khó khăn trở ngại, đạt được quả vị Phật.

 

4. Lấy đại nguyện từ bi và nhẫn nhục làm chiến thuật: Kinh Nhẫn nhục nói: “Lòng nhẫn nhục làm việc từ bi, thì đời đời không có oán hận, trong lòng thản nhiên, suốt đời không bị độc hại.[8] Lại nói: “Nhẫn là thần khải (giáp sắt của thần), không cần thêm nhà binh; nhẫn là con thuyền lớn, có thể vượt qua gian nan; nhẫn là toa thuốc hay, có thể cứu vớt nhiều mạng sống.[9] Nhẫn, có đủ sức mạnh lớn, có thể thành tựu (đạt được) hết thảy công đức của thế gian. 

Đối với một quốc vương cai quản (quản lý) cả hàng vạn dân, Đức Phật cũng có năm điểm gợi ý: “Thứ nhất, người quản lý dẫn dắt toàn dân, không được lạm dụng làm trái pháp luật; thứ hai, nuôi dạy tướng sĩ, tùy theo tình hình mà khen ngợi giúp đỡ; thứ ba, chánh niệm tu tập nghiệp gốc, phước đức tuyệt vời; thứ tư, cần phải chân thành khuyên bảo, không bị những lời gièm pha làm xích mích; thứ năm, hạn dục chế tham, tâm không buông thả.[10] Chính là vị vua trị quốc nhân từ, văn võ song toàn, có như vậy thì mới có thể không có kẻ địch lân bang.

5. Lấy giới, định và tuệ làm thống soái (chỉ huy): Kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti-nirdesa) nói: “Vì muốn cứu người, cho nên đã khéo dùng phương tiện, ở nước Tỳ-xá-ly (Vaisali). Ngài dùng của cải vô số, nhằm giúp đỡ cho những người nghèo khổ; giữ giới thanh tịnh, để dẫn dắt những người phá giới; dùng nhẫn nhục để điều phục những người nóng giận; dùng sự cần mẫn, để nhiếp phục những người lười biếng; dùng sự chuyên tâm tĩnh tọa, để chế ngự những loạn động; dùng trí tuệ, để quét sạch mê muội. [11]

Giới như nguồn nước trong sạch, có thể gội rửa những vết nhơ bẩn trong ‘đất tâm’ của mỗi chúng ta; định như chuỗi ngọc, có thể trang nghiêm thân tâm của chúng ta; tuệ như ngọn đèn sáng tỏ, có thể soi chiếu con đường phía trước của chúng ta. Coi giới học, định học và tuệ học như là vị thống soái chiến đấu giữa chúng ta với phiền não, có thể hàng phục ma quân, có thể đạt được thánh tài[12] vô cùng tận.

6. Lấy tám loại Chánh đạo làm đạo quân lớn: Bát chánh đạo, còn gọi là Bát thánh đạo (Phạn ngữ: Aryastangik-marga), là con đường xa rời bể khổ đạt được an lạc, là lộ trình chuyển phàm thành thánh. Chánh kiến (correct view), nhân duyên quả báo, thiện ác nghiệp lực, vô thường khổ không; chánh tư (correct thought), hỷ xả, từ ái, trí tuệ khéo léo, kết duyên; ngôn ngữ thành thật, uyển chuyển, ái ngữ, thiện ngữ; che chở sinh mạng không sát hại, bố thí không tham lam, giữ giới không dâm dật, tích phước góp của; dấn thân vào cuộc sống kinh tế hợp lý; tăng thêm bi trí, cắt đứt tham sân; xem Tứ niệm trụ[13] như là chỗ an trụ thân tâm; dùng chánh định (right concentration) kiến tính ngộ đạo, gợi mở trí tuệ Bát-nhã (prajna). Nương vào giới sinh định làm thống soái, lãnh đạo đại quân Bát chánh đạo, là thành lũy kiên cố phòng thủ lục tặc[14] của chúng ta, cũng là đại quân hùng dũng đánh thắng Ba-tuần[15].

Đức Phật – vị đạo sư của trời người, chính là đấu sĩ vĩ đại của thế gian, có thể ở trong ngũ trược[16] ác thế[17] hàng phục các loại ma quỷ bên trong lẫn bên ngoài, để thành tựu Phật đạo. Trải qua 49 năm ròng rã, xây dựng Tăng đoàn hòa hợp, phái sứ giả pháp âm (âm thanh thuyết pháp), đem đại pháp quang minh giải thoát truyền bá mười sáu nước lớn trên khắp mọi miền Ấn Độ. Về mặt tư tưởng, đã phá vỡ tà thuyết phi cứu cánh, phi giải thoát của Lục sư ngoại đạo lúc bấy giờ; về mặt tổ chức xã hội, loại bỏ chế độ giai cấp tứ tánh[18] đã ăn sâu bám rễ vào xã hội Ấn Độ cổ đại, giải thoát các vướng mắc, trói buộc của loài người. Vì vậy, Đức Phật cũng là nhà cách mạng xã hội thành công đầu tiên trong lịch sử, một đời phấn đấu vì lý tưởng từ bi hòa bình. Ông Tôn Trung Sơn từng có một di ngôn ‘hòa bình, phấn đấu, cứu Trung Quốc’ được lưu truyền đến nay, còn Đức Phật từ xa xưa thì đã là tấm gương mẫu mực ‘Bồ-đề, tinh tánh, độ chúng sinh’ được truyền thừa thiên cổ.

Tổng hợp tất cả những trình bày trên đây, cho ta một cái nhìn khá hoàn chỉnh về quan điểm chiến đầu trong Phật giáo, cho rằng loài người tồn tại trong thế gian này, cần phải có ý chí chiến đấu mạnh mẽ, dũng cảm vượt qua những thử thách như vô minh, lười biếng, cố chấp đến từ nội tâm, nâng cao cảnh giới tâm linh. Hãy để cuộc sống của mỗi ngày đều có thêm tiến bộ mới, trưởng thành mới! Đây mới là giá trị cao nhất của nhân sinh. Với hình thái sinh mệnh chỉnh thể của loài người, ngoài sự quan tâm đối với khoa học vật chất ra, về phương diện nghiên cứu khoa học tâm linh, các nước trên thế giới nên cùng nhau phối hợp tăng cường hơn nữa, để mang lợi ích đến cho tất cả chúng sinh.

(Nguồn: Tinh Vân (2008), Phật giáo và thế tục, NXB.Từ Thư Thượng Hải, tr.114-117)

 



[1] 鬥,獨 人,今 心,是 士。《佛 經》. (Nhược nhân thin xo gii chiến đấu, độc t phc đắc bách vn nhân, kim nhược năng phc t k tâm, th danh thế gian chân đấu sĩ).

[2] Tc là Chuyn luân thánh vương, gi tt là Luân vương, là t dch ý ca tiếng Phn cakravartirajan, nghĩa là người ch ca bánh xe báu xoay chuyn. Luân vương có by món báu đặc bit mà tt c mi người không ai có: bánh xe báu, voi trng báu, nga xanh báu, thn châu báu, ngc n báu, qun kho báu, và tướng quân báu. Vua có bn đức ln, không ai sánh bng: sng lâu, không tt bnh, tướng mo đoan trang, và kho đầy ca báu. Quc độ ca vua giàu có, nhân dân khp nơi đều sng trong cnh thái bình an lc. Vua thng qun c bn châu ln chung quanh núi Tu-di, dùng Chánh pháp để trị đời. Truyn thuyết v s xut hin ca Chuyn luân thánh vương rt được thnh hành trong thi Pht ti thế. Nhiu kinh lun đã đề cp ti Chuyn luân thánh vương, và nhiu ch còn so sánh v vua này vi Đc Pht. Lun Đại trí đ nói: Pht chuyn pháp luân cũng ging như Luân vương chuyn bo luân... Luân vương vn chuyn bánh xe báu đi gia hư không vô ngi, Pht vn chuyn xe pháp đi gia thế gian vô ngi. Người thy được bánh xe báu, các tai nn, độc hi đều tiêu dit; người gp được bánh xe pháp, tt c phin não, tà kiến đều tan biến... Lun y li nói: Luân vương chưa dt sch mi phin não; Pht đã xa lìa vĩnh vin mi phin não... Bánh xe báu là vt gi tm; bánh xe pháp là chân tht. Bánh xe báu là nơi đầy kiết s, vui vi năm dc; bánh xe pháp là nơi không có kiết s, vui nim pháp lc... Nhiu ch còn so sánh các Luân vương vi các giai v ca B-tát hnh, như: Thiết luân vương tương đương vi hàng Thp tín; Đồng luân vương tương đương vi hàng Thp tr; Ngân luân vương tương đương vi hàng Thp hnh; Kim luân vương tương đương vi hàng Thp hi hướng. Có ch nói Luân vương gm ba loi: Vua A Dc chng hn, là Quân (quân binh) luân vương; bn v Kim, Ngân, Đồng và Thiết luân vương là Tài (ca ci) luân vương; và Đc Pht là Pháp luân vương. (Xem ti: http://old.quangduc.com/file_chinh/view-detail-1186-142-5-giao_trinh.html , ngày 27/11/2014).

[3] Lc sư ngoi đạo ( ), cũng được gi li là Ngoi đạo lc sư ( ), là sáu v lun sư ln ch trương lý thuyết trái vi Pht pháp min Trung n vào thi Pht Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni):

  1. San Xà Da T La Chi T( /Sanjaya Belatthiputta): ch trương ch nghĩa hoài nghi;
  2. A Kỳ Đa Sí Xá Khâm Bà La ( /Ajita Kesakambala): ch trương duy vt lun;
  3. Mạt Già Lê Câu Xá Lê ( /Makkhali Gosala): ch trương thuyết định mnh;
  4. Phú Lan Na Ca Diếp ( /Purana Kassapa): ph nhn giá tr chân tht ca thin ác, do vy không quý trng đạo đức;
  5. Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên ( /Pakudha Kaccayana): gii thích s hin hu ca thế gii thông qua 7 yếu t cơ bn;
  6. Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử ( /Nigantha Nataputta): người sáng lp K-na giáo, theo ch thuyết tương đối.

Xem ti: 1. http://cidian.foyuan.net ; 2. http://vi.wikipedia.org, ngày 14/11/2014.

[4] 人,道 強,役 使 天,天 服。《阿 經》.

  Gii đức chi nhân, đạo h vi cường, dch s chư thiên, thiên long qu thn vô bt kính phc.

[5] 動,猶 剛;以 箭,斬 賊,破 軍,摧 怨,荷 切,令 解脫。《大 經》. (An trú bt động, do nhược kim cang; dĩ trí tu tin, trm phin não tc, phá sinh t quân, thôi phc ma oán, hà ph nht thiết, lnh chư chúng sinh giai đắc gii thoát).

[6] 慧,則 著,常 察,不 失,是 脫。《佛 經》(Nhược hu trí tu, tc vô tham trước, thường t tnh sát, bt lnh hu tht, th tc ư ngã pháp trung năng đắc gii thoát).

[7] 時,擐 甲,以 杖,日 勤,增 德,猶 滿。《大 理趣 經》 (Cu B-đề thi, hoàn tinh tiến giáp, dĩ đại th nguyn nhi vi khí trượng, nht d tinh cn, tăng trưởng công đức, do sơ bch nguyt tim tim viên mãn).

[8] 慈,世 怨,中 然,終 害。《忍 經》. (Hoài nhn hành t, thế thế vô oán, trung tâm đim nhiên, chung vô độc hi).

[9] 鎧,眾 加;忍 舟,可 難;忍 藥,能 命。《忍 經》. (Nhn vi thn khi, chúng binh bt gia nhn vi đại châu, kh dĩ độ nan; nhn vi lương dược, năng tế chúng mng).

[10] 者、領 民,無 濫;二 者、養 士,隨 與;三 者、念 業,福 絕;四 者、當 諫,無 言;五 者、少 貪,心 逸。(Nht gi, lĩnh lý vn dân, vô hu ung lm; nh gi, dưỡng dc tướng sĩ, tùy thi bm d; tam gi, nim tu bn nghip, phước đức vô tuyt; t gi, đương tín trung gián, vô th sàm ngôn; ngũ gi, thiếu dc gii tham, tâm bt phóng dt).

[11] 故,以 便,居 離。資 量,攝 民;奉 淨,攝 禁;以 調 行,攝 恚怒;以 進,攝 怠;一 寂,攝 意;以 慧,攝 智。《維 經》(Dc độ nhân c, dĩ thin phương tin, cư T-xá-ly. Tư tài vô lượng, nhiếp chư bn dân; phng gii thanh tnh, nhiếp chư hy cm; dĩ nhn điu hành, nhiếp chư hu n; dĩ đại tinh tiến, nhiếp chư gii đãi; nht tâm thin tch, nhiếp chư lon ý; dĩ quyết định tu, nhiếp chư vô trí).

[12] Tc tài sn ca bc thánh. Kinh Đại Bo Tích nói: Các pháp tín, gii, văn, tàm, quý, x, tuệ” được gi là thánh tài. Chúng sinh s dĩ còn được xếp vào din nghèo nàn, là bi vì chưa đạt được nhng thứ đó. (Bn đin t: Pht hc thường kiến hi)

[13] Còn gi là T nim x (catvari smrty-upasthanani). Tc là thân nim tr, nim thân bt tnh; th nim tr, nim th là kh; tâm nim tr, nim tâm vô thường; pháp nim tr, nim pháp vô ngã. (Pht hc từ đin)

[14] Ch cho sáu tên gic, ở đây ch lc cnh hay lc trn, gm sc, thanh, hương, v, xúc, pháp. Lc trn này có th làm mê hoc con người, cn tr tm nhìn ca trí tu ca con người, nên ví von là lc tc. (Pht hc đại từ đin)

[15] Tên tiếng Phn là Papiyas. Ba-tun, thiên ma, ch ma vương tri th sáu ca cõi dc (tri Tha hóa t ti), thường quy nhiu vic tu hành ca Thích tôn. Chư Pht xung trn gian cát bi này, thường có ma y đồng thi xut hin để cn tr, gây khó khăn cho vic tu hành thành đạo; vi li, ma cũng có nhiu loi khác nhau. Ba-tun là ma vương lúc Pht Thích Ca xut thế, có vô s quyến thuc, thường ngăn cản Pht đạo.

[16] Năm loi vn đục, ý ch trn gian. Phn ng là panca kasayah, hay còn gi là ngũ hn ( ), ch kiếp trược (kalpa -kasaya), kiến trược (drsti-kasaya), phin não trược (klesa -kasaya), chúng sinh trược (sattva -kasaya), và mng trược (ayu -kasaya). (Pht hc đại từ đin)

[17] Tc là cõi đời nhơ ác. Lúc này phin não, tà kiến hưng thnh, mà mng người thì ngn ngi, kh nhiu vui ít. T này thường đi đôi vi thut ng ngũ trược chú thích (16).

[18] Phn ng catvaro varnah, còn gi là t tánh Tây Vc. Ở đây ch bn giai cp xã hi ca n Độ c, gm: Bà-la-môn (brahmana), Sát-đế-li (ksatriya), Ph-xá (vaisya), và Th-đa-la (sudra). (Pht hc đại từ đin)

Chia sẻ: facebooktwittergoogle