Cuộc chiến Trung-Nhật 1931-1945: Phật giáo mỗi bên đã làm gì?

cuoc chien tranh

Nguyên Hiệp

 

Cuộc chiến Trung-Nhật (1931-1945) là một trong những cuộc chiến tàn khóc nhất ở châu Á vào thế kỷ XX. Ở Trung Quốc cuộc chiến này được gọi là Chiến tranh kháng Nhật ( ), trong khi ở Nhật Bản nó được gọi là Chiến tranh Trung-Nhật (日中 ). Bài viết này không đi vào tìm hiểu về cuộc chiến này mà chỉ phác thảo một vài điểm có liên quan đến Phật giáo ở trong cuộc chiến; nói cụ thể hơn là giới Phật giáo đã có những hành động gì khi đứng ở mỗi bên của cuộc chiến để thực hiện điều được gọi là “hộ quốc” của mình.

Về phía Phật giáo Trung Quốc

Từ cuối và sau khi triều đại nhà Thanh sụp đổ (1912), Phật giáo Trung Quốc rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng mà biểu hiện rõ nét nhất là ở giới Tăng lữ. Dường như một điều tất yếu rằng, sự suy thoái của Phật giáo tại một nơi nào đó thường bắt đầu từ giới Tăng lữ. Và mỗi khi rơi vào tình trạng suy thoái, nếu chưa hoàn toàn biến mất, thường Phật giáo sẽ bị biến dạng theo chiều hướng tiêu cực. Từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, khi những phong trào cải cách xã hội bùng phát ở Trung Quốc, Phật giáo dưới mắt các nhà trí thức, đặc biệt là giới trí thức trẻ ảnh hưởng phương Tây, đã trở thành một tôn giáo hủ lậu, lạc hậu, làm cản bước tiến xã hội; do đó nó trở thành mục tiêu của sự công kích và bài bác.

Trong bối cảnh đó, nhiều vị Cao tăng có thao thức với tiền đồ Phật giáo đã có nhiều việc làm chấn chỉnh lại Tăng đoàn Phật giáo, cũng như có những phương thức tu tập và hành hoạt thích hợp để thích ứng Phật giáo với thời đại cũng như để điều chỉnh lại cái nhìn của xã hội đối với Phật giáo. Nhân vật nỗi tiếng và có ảnh hưởng nhất của thời kỳ này là Đại sư Thái Hư ( 1889–1947), người đã có những sáng kiến trong việc cải cách Phật giáo với phương châm “Phật giáo nhân gian” ( ), một hình thức Phật giáo mà về sau này ta thường nghe đến là “Phật giáo nhập thế” ở một số nước Á châu khác.

Khi cuộc chiến Trung Nhật xảy ra, Phật giáo Trung Quốc đang đối mặt với nhiều thách thức và cũng đang ở trong tiến trình cải cách của nó; và ở trong bối cảnh đó, giới Phật giáo, đặc biệt là giới Tăng lữ, muốn chứng minh cho xã hội thấy rằng họ là những người có ích đối với xã hội, hay ít ra là không thờ ơ với những gì đang xảy ra ở trong đời sống xã hội. Việc tuyên bố hay giảng giải về tính thiết thực và hữu ích của mình đối với đời sống xã hội chỉ trên mặt lý thuyết là không đủ thuyết phục, chính những hành động cụ thể mới có thể chứng mình được là Phật giáo ở bên ngoài hay bên trong xã hội và có ích gì cho xã hội hay không. Bên cạnh đó, bản Hiến pháp lâm thời của Trung Quốc lúc bấy giờ cũng có những tác động nhất định đến Phật giáo. Cột 5 của bản Hiến pháp này viết rằng: Tất cả mọi công dân của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bất kể tình trạng sắc tộc, chủng tộc, nghề nghiệp, nền tảng gia đình, niềm tin tôn giáo và giáo dục, có bổn phận thực hiện nghĩa vụ quân sự theo những điều khoản của luật này.

Như đã nói, Đại sư Thái Hư là một lãnh đạo Phật giáo uy tín nhất vào lúc bấy giờ. Trước khi cuộc chiến xảy ra, Thái Hư có mối quan hệ rất tốt với nước Nhật cũng như Phật giáo Nhật Bản. Ông đã từng đến Nhật vào năm 1925 để học hỏi kinh nghiệm của Phật giáo Nhật và  đã có nhiều bằng hữu ở đó. Nhưng khi cuộc chiến xảy ra, ông đã phê bình Nhật Bản đã từ bỏ tinh thần Phật giáo và kịch liệt chống lại sự xâm chiếm của Nhật. Những phản đối của Thái Hư được thể hiện qua những phát ngôn, bài viết, hay những buổi diễn thuyết. Và với vai trò là một người lãnh đạo Phật giáo có uy tín, những lời nói của ông đã có sự tác động rất lớn đến giới Phật giáo. Cuối năm 1931, Thái Hư đã có một buổi nói chuyện trên Radio với chủ đề “Giáo lý Phật giáo và việc cứu quốc”. Buổi nói chuyện này tập trung kêu gọi Tăng sĩ phải có trách nhiệm bảo vệ quốc gia giống như những người thế tục. Trong một bài nói chuyện khác vào năm 1932 với chủ đề “Phật giáo và hộ quốc”, Thái Hư lại đưa ra hai phương diện bảo vệ quốc gia. Thứ nhất là bảo vệ quốc gia khi tai ách xảy ra, và thứ hai là bảo vệ tất cả mọi người trên thế giới với tâm của một vị Bồ-tát. Đưa ra hai phương diện “hộ quốc” như vậy nghe có mâu thuẩn. Tuy nhiên trong một bài diễn thuyết khác cũng vào năm 1932, Thái Hư có đưa ra hai ý nghĩa của “quốc gia”. Quốc gia như một đất nước và quốc gia như một thế giới. Bảo vệ quốc gia như một đất nước được Thái Hư thực hiện trong những năm đầu cuộc chiến, về sau vế thứ hai được ông quan tâm nhiều hơn. Có lẽ do quan điểm này và sự thiện cảm của ông dành cho những người Phật tử Nhật khiến có người cáo buộc ông là “kẻ phản bội”. Nhưng dù có thiện cảm đối với Phật tử Nhật, Thái Hư đã nhiều lần kêu gọi Phật tử Nhật không nên tham gia vào quân đội và hãy hợp tác với Phật tử Trung Quốc chống lại điều đó. Tuy nhiên không có người Phật tử Nhật nào hưởng ứng lời kêu gọi của ông.

Giới Phật giáo Trung Quốc, dưới sự tác động từ nhiều mặt, lại bị cuốn trong cơn lóc xoáy của chủ nghĩa dân tộc, đã tham gia vào cuộc chiến với nhiều hình thức khác nhau. Một số tổ chức Phật giáo được hình thành để đảm trách về công việc cứu tế và cứu thương, chẳng hạn như Đội cứu hộ Tăng-già Thượng Hải ( ) hay Đội cứu hộ Tăng-già của Hội Phật giáo Thành Đô ( ). Những tổ chức Phật giáo cũng đảm trách một số công việc thiên về tôn giáo hơn, như tổ chức cầu nguyện hay những buổi lễ kỳ siêu cho những người tử nạn.

Không dừng lại ở đó, nhiều Tăng sĩ trẻ đã tham gia huấn luyện quân sự để tham dự vào cuộc chiến; chẳng hạn như tháng 12 năm 1937, có 300 Tăng sĩ trẻ đã tham gia huấn luyện quân sự và gia nhập quân đội. Họ thực hiện điều này trước hết là bởi sự dẫn dắt của “chủ nghĩa dân tộc” và thể hiện lòng “ái quốc”, nhưng cũng để chứng minh cho xã hội thấy rằng Phật giáo thực sự vì lợi ích của quốc gia, là tôn giáo hộ quốc ( ), và như vậy nó xứng đáng để tồn tại ở đất nước này. Nhưng việc tham gia vào cuộc chiến của những Tăng sĩ lại là một vấn đề gây nên sự tranh luận, rằng sự “hộ quốc” bằng việc “cầm súng” của họ có đúng với tinh thần của Phật giáo hay không, và Tăng sĩ có nên làm việc cho một nhà nước thế tục trong những vấn đề chính trị và quân sự hay không khi sứ mệnh của họ phải vượt qua khỏi biên giới của quốc gia.

Trước những câu hỏi như vậy, Thái Hư đã không trả lời, nhưng một Tăng sĩ Phật giáo Trung Quốc đương thời khác là Lạc Quan ( 1902–?)[1], trong một bài diễn thuyết có tên là Hộ quốc và bảo vệ giáo pháp, đã trả lời như sau: “Theo nguyên tắc Phật giáo, mục đích là hòa bình ở trong thế giới mà không có biên giới chủng tộc và quốc gia; tuy nhiên, chúng ta không thể bỏ mặc quốc gia khi chúng ta muốn thiết lập những tổ chức Phật giáo và truyền bá giáo pháp. Chúng ta phải bảo vệ quốc gia của chúng ta, mà nó là y báo ( ) của chúng ta, bởi vì chúng ta sinh ra ở đó và quê hương xứ sở có một sự nối kết mật thiết với đời sống của chúng ta. Nếu xứ sở nơi ta sinh ra và lớn lên bị đàn áp, kiểm soát và phá huỷ, thế thì chúng ta đánh mất chính chúng ta và chúng ta không thể sống được nữa. Nếu chúng ta đánh mất sự tự do và khắp nơi khắp chốn bị kẻ khác hạn chế, chúng ta có thể truyền bá Phật pháp sâu rộng và cứu độ quần chúng thế nào đây? Thêm nữa, mặc dù giáo pháp Đức Phật chứa đựng nguyên tắc từ bi, chúng ta không thể từ bi với những người hung ác. Chúng ta phải chiến thắng họ, bởi vì họ là những ma vương huỷ hoại trí tuệ và đời sống của dân chúng. Kinh Phật nói: Từ bi với ác ma có nghĩa là tàn ác với con người.”...

Về phía Phật giáo Nhật

Phật giáo có một sự ảnh hưởng sâu rộng vào đất nước Nhật Bản về nhiều phương diện, kể cả chính trị và quân sự, điều có lẽ nhiều người đã biết. Từ lúc du nhập cho đến về sau, Phật giáo Nhật đã luôn đề cao “tinh thần quốc gia” và xem việc “hộ quốc” là một trong những nhiệm vụ chính của mình. Có lẽ cũng chính điều này mà kinh Kim quang minh, một bản kinh được xem có công năng hộ trì quốc gia (nếu được tụng niệm và hành trì), đã rất phổ biến ở Nhật.

Trước cuộc chiến Trung-Nhật, Phật giáo Nhật cũng đối mặt với nhiều thách thức lớn bởi những vấn đề đến từ bên trong và bên ngoài. Dưới thời Minh Trị (Meiji), với việc công nhận Thần Đạo (Shinto) là quốc giáo của triều đại này, Phật giáo đã đối mặt với sự áp bức nặng nề. Để có thể tồn tại và thể hiện sự hữu dụng của mình, Phật giáo Nhật đã có những thay đổi đáng kể nhằm thích ứng với hoàn cảnh xã hội mới; và nó cũng thể hiện sự trung thành với triều đại như là một tôn giáo luôn “đồng hành” cùng quốc gia.

Khi cuộc chiến Trung-Nhật xảy ra, chính vì để thể hiện sự “hữu dụng” và tinh thần “ái quốc” cũng như sự trung thần với triều đại, Phật giáo Nhật đã hết mình ủng hộ nhà nước Nhật và tham dự vào cuộc chiến có phần tích cực. Không chỉ người Phật tử tại gia tham gia quân đội và có mặt ở Trung Quốc, giới Tăng sĩ Nhật Bản cũng hiện diện ở đó để làm những công việc như: thực hiện những nghi lễ cầu an, cầu siêu cho những binh lính Nhật tham gia cuộc chiến; giảng dạy Phật pháp cho binh lính; an ủi và giúp đỡ những người bị thương; phân phát kinh sách; cứu tế thực phẩm và những vật dụng khác; an ủi và trấn an dân chúng Trung Quốc; thông tin cho bộ phái của họ ở Nhật biết tình hình cuộc chiến và những việc làm của họ ở Trung Quốc; chuyển dịch tài liệu... Và cũng như Tăng sĩ Trung Quốc, một số Tăng sĩ Nhật cũng tham gia trực tiếp vào cuộc chiến.

Các Tăng sĩ Nhật không chỉ giới hạn vai trò trong việc trợ giúp quân đội Nhật đóng ở Trung Quốc, mà cũng có nhiệm vụ truyền bá Phật giáo trong việc ngăn chặn sự truyền bá Thiên chúa giáo của các phái đoàn truyền đạo từ Tây phương. Họ cũng xây dựng trường học và thành lập những chương trình y tế. Vai trò này cũng được các Tăng sĩ Nhật đảm nhận trong cuộc chiến ở Hàn Quốc. Lúc bấy giờ, một số Phật tử Nhật nghĩ rằng, Nhật Bản là quốc gia Phật giáo chân thực nhất, và như vậy họ có trách nhiệm trong việc bảo vệ và truyền bá Phật giáo không chỉ ở Nhật mà ở cả những quốc gia bên ngoài Nhật Bản.

Sự tham gia của Tăng sĩ Nhật trong cuộc chiến này đã bị phê bình và chỉ trích nặng nề, bởi bị cho là đã thoã hiệp với “đế quốc Nhật” trong việc xâm chiếm nước khác. Tuy nhiên đối với những Tăng sĩ Nhật, họ nghĩ rằng việc làm của họ là để đem lại hòa bình cho thế giới. Họ “sử dụng thanh gươm” không phải để đi xâm lăng hay để cướp đi mạng sống, mà đem đến sự bình yên và bảo vệ mạng sống cho con người. Hay nói như một vị Đại sứ Nhật: “Rường cột của Nhật là được tìm thấy ở nơi Võ sĩ đạo (Bushidō/ ). Mặc dầu Võ sĩ đạo sử dụng thanh gươm, cốt yếu của nó là không để giết người, mà thay vào đó dùng thanh gươm để đem đời sống đến cho con người. Sử dụng tinh thần của thanh gươm Võ sĩ đạo, chúng tôi mong ước đóng góp cho hòa bình thế giới” (Phát biểu của Đại sứ Nhật Saburō Kurusu vào ngày 27-12-1940 tại lễ ký Hiệp ước ba bên giữa Nhật, Đức và Ý)...

Thay lời kết

Trong Phật giáo có bốn ân được đề cao, đó là: ân Cha mẹ, ân Sư trưởng, ân Quốc gia, và ân Tam bảo; và bốn ân này thường được coi trọng như nhau mà không bị đem ra cân lường ân nào trọng ân nào khinh. Tuy nhiên khi đặt vào trong sự lựa chọn mang tính bắt buộc, sẽ có những lựa chọn khác nhau tuỳ mỗi người và tuỳ trường hợp. Về ân Quốc gia, với nhiều Phật tử, luôn là ân trọng nhất và sẽ vượt qua ân Tam bảo nếu có sự lựa chọn giữa hai ân này. Tất nhiên ân Quốc gia muốn nói ở đây không chỉ là sự thể hiện lòng biết ơn thuần tuý không thôi, mà phải có những hành động cụ thể trong việc xây dựng và bảo vệ quốc gia; và ân Tam bảo không chỉ là sự biết ơn Tam bảo, mà có những việc làm bảo vệ đạo của mình và không vượt qua những nguyên tắc căn bản mà tôn giáo của mình đưa ra. Nhưng cũng đối với một số người, khi đứng trước sự lựa chọn này, họ sẽ cố gắng cân bằng để làm sao có thể báo đáp được ân quốc gia với tất cả những nghĩa vụ của họ, nhưng đồng thời cũng báo đáp được ân Tam bảo bằng việc không phá bỏ những nguyên tắc tôn giáo mà họ đang theo. Nhưng cũng có người xem ân Quốc gia là tối thượng, và nếu họ đồng thời vẫn muốn giữ lấy đạo của mình, thì Phật pháp sẽ được giảng giải theo cách mà nó sẽ mang lại lợi ích cao nhất cho quốc gia của họ. Những điều này có thể nhìn thấy nơi những việc làm của giới Phật giáo tại Trung Quốc và Nhật Bản trong cuộc chiến được đề cập ở trên.



[1] Lạc Quan cũng là một Tăng sĩ từng học tại Nhật và đã du hành đến nhiều quốc gia châu Á khác trong đó có Việt Nam. Trước đó, khi đến học tại chùa 勝尾, nhìn thấy sự hưng thình của Phật giáo Nhật, nghĩ về tình trạng Phật giáo Trung Quốc, ông đã đặt tên cho Mình là Bi Quan (悲観), nhưng sau khi chiến tranh Trung-Nhật nổ ra vào năm 1937, ông đến Thượng Hải và tham gia vào đội cứu tế của các Tăng sĩ, và đổi tên thành là Lạc Quan.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle