Phật giáo với sự tồn vong của quốc gia

phat giao

 

Đất nước Việt Nam với hình chữ S hiện tại đã trải qua nhiều thế kỷ hình thành và phát triển. Trong quá trình ấy, cũng như nhiều nước khác, Việt Nam cũng trải qua các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, Việt Nam đã phải chịu quá nhiều các cuộc chiến tranh không mong muốn với tính ác liệt được lịch sử phản ảnh. Trước vận mệnh của đất nước, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc để từ đó tạo thành tinh thần đặc trưng của Phật giáo Việt Nam qua câu nói “đạo pháp – dân tộc.” Cùng với sự thăng trầm của lịch sử nước nhà, lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng không tránh khỏi số phận. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, tinh thần giáo lý Phật giáo được áp dụng một cách linh động nhằm phục vụ nhu cầu của con người và nhu cầu của Tổ quốc. Theo quan điểm này, giáo sư Lê Mạnh Thát đã chia lịch sử Phật giáo theo yêu cầu thời đại được trình bày trong bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam mới xuất bản được 3 tập, thay vì chia theo lịch sử các triều đại như các học giả khác từng làm. Dựa trên quan điểm và dữ liệu này, bài viết sẽ thảo luận vai trò của Phật giáo đối với sự tồn vong của quốc gia. Trong đó, vai trò của các nhà lãnh đạo Phật giáo và tinh thần giáo lý được nêu bật để phân tích và thảo luận. Trong bài này, người viết giới hạn giai đoạn lịch sử từ khi nước nhà độc lập [nhà Ngô  (939 – 965)] đến đầu nhà Lý (1010 – 1225).

Có thể nói Phật giáo là một nguồn giáo lý sinh động. Nguồn giáo lý ấy có thể áp dụng vào những điều kiện xã hội khác nhau mà không vấp phải chướng ngại nào do giáo lý ấy quy định. Chính vì tính linh động ấy mà thuật ngữ “tám mươi bốn ngàn pháp môn” xuất hiện biểu trưng cho giáo pháp phong phú và phù hợp với nhiều hạng người khác nhau đang hiện hữu trên hành tinh này. Trong rất nhiều pháp môn tu tập của Phật giáo, những điều căn bản hay bổn phận mà một người Phật tử phải tuân theo là phải thực hành giáo lý bốn ân gồm: ân cha mẹ, ân chúng sanh, ân Tổ quốc (quốc vương) và ân Tam bảo[1]. Bản kinh Đại thừa bản sanh tâm địa quán giải thích phải tri ân và báo ân Tổ quốc mà đại diện là vị vua hay chính quyền vì nhờ họ mà người dân trong nước được sống an bình để làm ăn mưu sinh. Những vị đại diện này nói chung là những người có phước báu lớn. Họ là những người soạn ra pháp luật trị nước làm lợi ích nhân dân. Họ giữ gìn đất nước không để nước ngoài xâm lược, không để phản nghịch bên trong, không để dịch bnh hay đói kém hoành hành, bản thân họ làm thiện và hướng nhân dân làm thiện… Dĩ nhiên, quốc vương hay chính quyền đều phải cần sự ủng hộ hay sự đồng thuận của nhân dân. Phật giáo với tư cách là cộng đồng gồm những công dân của đất nước tất phải có vai trò xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vai trò ấy đã được thể hiện khác nhau trong mỗi giai đoạn lịch sử mà ở đây muốn đề cập là trong thời bình và thời chiến tranh loạn lạc.

Sau khi lập lại hòa bình (939), Việt Nam bước vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong những yếu tố thiết yếu để xây dựng đất nước thì nhân tố nhân lực đóng vai trò quan trọng nhất. Nhà nước sơ khai đã thực hiện điều này qua việc “chế định triều nghi phẩm phục”. Do Ngô Quyền mất sớm nên sự nghiệp nhà Ngô của ông chưa có kết quả gì đáng kể. Đến nhà Đinh và tiền Lê, sử sách đã ghi chép rõ ràng sự đóng góp của Phật giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thiền sư Ngô Chân Lưu được vua Đinh Tiên Hoàng mời về triều và phong làm Khuông Việt Đại sư kiêm Tăng Thống. Theo GS Lê Mạnh Thát thì chức vụ trên chứng tỏ thiền sư có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp đế vương của nhà vua[2]. Thiền sư cũng đã cảm hóa cả gia đình hoàng gia họ Đinh trở thành Phật tử. Hơn nữa, với những tràng kinh được phát hiện và xác định là do Đinh Liễn cho khắc trên đá, nó cho thấy “triều đình nhà Đinh đã ra đời trên cơ sở sự ủng hộ của những Phật tử gồm tại gia và xuất gia”. Chính họ đã giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn các sứ quân thống nhất Tổ quốc[3].

Sang nhà tiền Lê, Khuông Việt tiếp tục được vua Lê Đại Hành mời tham gia vào việc triều đình và đảm trách công tác ngoại giao. Thiền sư được phép tham dự ở triều đình để bàn việc quân, việc nước. Đặc quyền này cho thấy vai trò của thiền sư rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[4]. Ngoài Khuông Việt, Lê Đại Hành còn có sự trợ giúp của Pháp Thuận. Thiền sư đã được tin tưởng giao trọng trách soạn thảo văn thư ngoại giao kiêm làm công tác ngoại giao. Pháp Thuận cũng được tin là đã tham gia vào việc “vận trù kế sách cho Lê Hoàn lên ngôi và chuẩn bị tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc năm 981”[5]. Một người được vua tín nhiệm và giao trọng trách lớn như thế ắt hẳn vị ấy phải là người được vua kính trọng và có đóng góp lớn cho triều đình. Thật vậy, trước hoàn cảnh đất nước đối diện với thù trong giặc ngoài, vua đã hỏi ý Pháp Thuận về vận nước. Thiền sư đáp: “Vận nước như mây cuốn, trời nam mở thái bình, vô vi trên điện các, xứ xứ hết đao binh”. Bài thơ có nghĩa là “Vận nước ngắn dài đều nằm trong tay người dân. Người lãnh đạo biết nắm lấy dân, biết đoàn kết với dân, biết tu bồi tài đức thì vận mệnh của triều đại mình sẽ lâu dài và ngược lại thì dễ dàng bị sụp đỗ”[6]. Như vậy, sự đoàn kết của toàn dân và người lãnh đạo tài đức là hai yếu tố căn bản để xây dựng và bảo vệ đất nước tồn tại lâu dài. Đây là tư tưởng rất có giá trị để các nhà lãnh đạo chính trị tham khảo.

Nếu như nhà Đinh có Khuông Việt – một cố vấn nổi bậc, nhà tiền Lê có Pháp Thuận thì nhà Lý có thiền sư Vạn Hạnh. Không ai có thể phủ nhận Vạn Hạnh là người có vai trò rất lớn trong việc nuôi dưỡng và tạo điều kiện thuận lợi cho Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Sự ra đời của nhà Lý thực sự đã đem lại hưng thịnh cho nước nhà về mọi mặt, trong đó có đạo Phật. Bình luận về sự kiện này, GS Lê Mạnh Thát cho rằng: “Người Phật tử lúc ấy muốn sống đạo phải thực hiện nghĩa vụ với đời là phải đấu tranh xây dựng và bảo vệ quyền làm chủ đất nước mà đại diện là vị vua anh minh. Bởi vì, chỉ khi nào đất nước có người làm chủ thì Phật giáo mới phát triển và hưng thịnh”[7]. Đây được cho là quan điểm chính trị của thiền sư Vạn Hạnh cũng như của người Phật tử yêu nước lúc bấy giờ. Sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Đây là một quyết định hoàn toàn đúng đắn được lịch sử nước nhà minh chứng và quyết định ấy cũng được cho là có sự tham mưu của Vạn Hạnh[8]. Đạo pháp nằm trong lòng dân tộc đã được các Phật tử Việt Nam chứng minh rõ ràng và thuyết phục qua sự dấn thân cống hiến của họ.

Đến nhà Lý, Phật giáo trở thành quốc giáo nên vai trò của nó trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc càng rõ hơn. Lấy Phật giáo làm nền tảng đạo đức để phát triển xã hội, Lý Thái Tổ đã cho xây và trùng tu nhiều chùa cũng như cho xuất gia hàng ngàn Tăng sĩ ngay sau khi ông dời đô về Thăng Long. Nhiều Nho gia đã phê phán hành động trên là phung phí của cải và công sức nhân dân. Tuy nhiên, GS Lê Mạnh Thát chứng minh chính sách của nhà vua là đúng đắn vì muốn phát triển kinh tế trước hết phải kiểm soát gia tăng dân số. Hơn nữa, chùa chiền lúc đó chính là trung tâm văn hóa của dân tộc. “Nó vừa là trường học, vừa là nơi diễn ra lễ hội của quần chúng trong làng”[9]. Cho nên, xây thêm chùa tức là phát triển giáo dục, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Đây có thể nói là chính sách đầu tư dân trí của nhà lãnh đạo nhằm đưa Đại Việt thành một nước hùng mạnh lúc bấy giờ.

Kế thừa thành quả của phụ hoàng, Lý Thái Tông đã tiếp tục phát huy và đề ra nhiều chính sách phát triển nước nhà phù hợp với thời đại dựa trên hệ tư tưởng Phật giáo. Vua đã thực hiện rất nhiều chính sách tiến bộ trong đó có chính sách dân tộc đối với đồng bào miền núi phía bắc, thi hành chính sách độ lượng với các cuộc nổi loạn miền núi…. Đặc biệt, vua được tôn vinh là thiền sư thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông, trong lúc ông phải bận rộn lo việc nước chu toàn.

Trong khoảng thời gian từ nhà Ngô đến nhà Lý, nước Đại Việt vẫn chưa được yên mà còn  phải trải qua thêm hai cuộc chiến tranh vệ quốc nữa. Cuộc chiến vệ quốc thứ nhất là chống lại quân Tống xâm lược nước ta năm 981 và cuộc chiến thứ hai là chống lại quân Chiêm Thành năm 982. Trong hai cuộc chiến này đều có sự tham gia đóng góp của Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh. Sự tham gia của họ cho thấy Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc cả trong thời bình và thời chiến.

Từ những phân tích trên, ta rút ra được hệ tư tưởng Phật giáo được các Phật tử lúc bấy giờ vận dụng là từ Phật giáo quyền năng chuyển sang Phật giáo chống ngoại xâm và mở đường cho Phật giáo thế sự sau này[10]. Nếu như giai đoạn Phật giáo quyền năng chưa xác định được Phật ở đâu thì giai đoạn Phật giáo chống ngoại xâm đã xác định rõ Phật ở trong mỗi con người chúng ta. Phật không phải ở bên Ấn hay bên Tàu mà Phật ở ngay tại đất nước Việt Nam nếu người Việt giác ngộ tự tâm, thấy được Phật tánh. Khi đã xác định Phật ở Việt Nam, là người Việt Nam thì Phật giáo không còn là ngoại lai mà là Phật giáo Việt Nam có quyền phát triển trên đất nước Việt Nam. Do đó, Phật giáo phải có trách nhiệm đấu tranh bảo vệ Tổ quốc khi có loạn lạc hay ngoại bang xâm lược.

Tư tưởng “chủ nghĩa địa linh” là một bước tiến quan trọng trong quá trình truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ đến các nước khác. Phật giáo khi đến đâu trở thành Phật giáo xứ ấy với chủ quyền đầy đủ để phát triển. Ta thấy rằng Tổ sư người Hoa rất táo bạo khi biến các vị Bồ-tát người Ấn thành Bồ-tát người Hoa có nơi xuất thân cụ thể. Bồ-tát Quán Thế Âm ở núi Phổ Đà, Văn Thù ở núi Ngũ Đài, Phổ Hiền ở núi Nga Mi, và Địa Tạng ở núi Cửu Hoa…. Thế thì, việc xác định Phật ở tại Việt Nam chưa phải là táo bạo và hoàn toàn phù hợp vì Phật xuất phát từ chính mỗi con người Việt Nam theo giáo lý “Phật tại tâm”.

Phật giáo không phải là hệ thống giới điều hay giáo điều cứng nhắc mà là hệ thống giáo lý sinh động. Hiểu và áp dụng đúng tinh thần giáo lý ấy sẽ đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho bản thân và xã hội. Phật giáo làm chính trị hay không làm chính trị là tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của nước nhà trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Những dẫn chứng vừa nêu cho thấy Phật giáo là một phần của dân tộc, luôn đồng hành cùng dân tộc. Trong thời bình, Phật giáo góp phần xây dựng đất nước phồn vinh thịnh vượng thông qua sự đóng góp của người Phật tử và thông qua chính sách xã hội mang tinh thần Phật giáo. Khi thời chiến, Phật giáo luôn cùng nhân dân đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng chính là tinh thần tùy duyên của đạo Phật.



[1] Thích Tâm Châu dịch, kinh Đại thừa bản sanh tâm địa quán, phẩm Báo ân <http://quangduc.com/p22574a45898/4/02-pham-bao-an>

[2] Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 2, HCM: NXB Tp. HCM, 2002, tr.427.

[3] Sđd, tr. 448.

[4] Sđd, tr. 457.

[5] Sđd, tr. 485.

[6] Sđd, tr. 509.

[7] Sđd, tr 586.

[8] Sđd, tr. 612.

[9] Sđd, tr. 615.

[10] Theo quan điểm phân chia của GS Lê Mạnh Thát (sđd, tr. 675).

Chia sẻ: facebooktwittergoogle