Phật giáo và công bằng xã hội

phat giao

Thích Huệ Pháp

 

Xã hội Ấn Độ thời Đức Phật có nhiều bất công bởi xã hội bị phân chia thành nhiều đẳng cấp khác nhau. Những đẳng cấp thấp bị tước hết những quyền căn bản của cuộc sống. Họ sinh ra chỉ để phục vụ và làm nô dịch cho các tầng lớp cao hơn. Với thời gian cách đây hơn 2.500 năm, khi đó xã hội loài người còn chưa phát triển, không chỉ ở Ấn Độ mới có sự bất công như thế, mà nhiều nơi khác trên thế giới quần chúng cũng gánh chịu điều tương tự như vậy. Thậm chí ngày nay, chúng ta vẫn còn chứng kiến sự bất công hiện diện khắp nơi. Điều đó cho thấy, vào thời kỳ đó, Phật giáo thực sự đã làm một cuộc cách mạng có ý nghĩa và quan trọng.

Trước khi tìm hiểu quan điểm của Phật giáo về công bằng xã hội, chúng ta thử xem hệ thống đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ thời ấy được quy định như thế nào trong bộ luật Manu của Ấn giáo.

1. Luật Manu

Ấn Độ giáo (Hinduism) là tên sau này của Bà-la-môn giáo (Brahmanism), hiện giờ được coi là tôn giáo chính của đất nước Ấn Độ. Ấn giáo giáo có mặt ở Ấn Độ từ rất sớm và đã để lại cho nhân loại nhiều giáo thuyết quan trọng. Các bộ Veda (Vệ-đà), Upanishad (Áo nghĩa thư) Bhagavad Gita (Chí tôn ca) là những Thánh kinh chính của tôn giáo này, trình bày nhiều quan điểm triết học quan trọng và phản ánh những khía cạnh khác nhau của đời sống văn hóa xã hội vào thời ấy. Ngoài ba bộ kinh sách này, còn có thêm một bộ luật quan trọng là luật Manu. Luật Manu ra đời nhằm kiểm soát và áp chế con người vào trong những khuôn khổ theo quan điểm của Bà-la-môn giáo.

Luật Manu có thể nói đã bao quát hết mọi mặt của cuộc sống xã hội Ấn Độ đương thời. Bộ luật gồm 12 chương, với 2.385 điều, được cho là có niên đại khoảng từ thế kỷ II tr.TL đến thế kỷ II TL. Hầu hết những điều luật ở trong này là do hai đẳng cấp Bà-la-môn và Sát-đế-lợi đặt ra, nhằm đem lại cho họ những quyền lợi trong đời sống xã hội.

Luật Manu quy định rõ ràng về những nghĩa vụ và bổn phận của mỗi đẳng cấp khác nhau, cho đó là những lời đấng Phạm Thiên mong muốn sau khi ngài hoàn tất công việc tạo ra thế giới:

Để bảo vệ vũ trụ này, đấng Phạm Thiên toàn năng đã phân công nhiệm vụ khác nhau cho những người được sinh ra từ miệng, cánh tay, đùi và bàn chân của Ngài[1].

Đối với đẳng cấp tăng lữ Bà-la-môn (được sinh từ miệng đấng Phạm Thiên – NV) được phân công giảng dạy và học tập (thánh điển Vệ-đà), chủ trì tế lễ vì lợi ích của chính họ và người khác, được cho và nhận (của bố thí)[2].

Đối với đẳng cấp Sát-đế-lợi  - Vua quan (Kshatriya), đấng Phạm Thiên giao phó cho việc bảo vệ người dân, ban tặng quà cáp, được tham dự cúng tế, học kinh điển Vệ-đà, và tránh không sa vào những thú vui nhục dục[3].

Đối với người thuộc Phệ-xá – Thương buôn (Vaisya), ban cho việc chăm sóc gia súc, ban cho quà tặng, tham gia cúng tế, học kinh điển Vệ-đà, buôn bán, vay tiền và khai phá đất đai[4].

Một bổn phận duy nhất mà đấng Phạm Thiên ban cho đẳng cấp Thủ-đà-la (Sudra) là phục vụ một cách tận tình cho ba đẳng cấp trên[5].

Điều đó cho thấy đẳng cấp Thủ-đà-la là đẳng cấp bị bóc lột. Những đẳng cấp trên được trao cho nhiều công việc béo bở, được đấng Phạm Thiên ưu ái trao cho quà tặng, được tham gia cúng tế, học tập kinh điển... Trong khi đó, đấng Toàn Năng, đấng Chiếu Khắp chỉ trao cho đẳng cấp Thủ-đà-la một vai trò duy nhất, một vai trò chẳng ai muốn nhận. Thế nhưng đó là điều mà bộ luật của Ấn Độ cổ đại quy định nên.

Sự phân cấp giai tầng đó còn thể hiện sự bất công qua việc hôn nhân cưới hỏi với quy định một người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn có quyền cưới người phụ nữ thuộc cả ba đẳng cấp dưới, còn người thuộc đẳng cấp Thủ-đà-la chỉ có một sự lựa chọn duy nhất là cưới vợ cùng đẳng cấp với mình:

Luật quy định rằng, một người phụ nữ thuộc đẳng cấp Thủ-đà-la chỉ có thể là vợ của người cùng đẳng cấp; người thuộc đẳng cấp Phệ-xá có thể có vợ đẳng cấp Phệ-xá và Thủ-đà-la; người đẳng cấp Sát-đế-lợi có thể có vợ cùng đẳng cấp mình và cả hai đẳng cấp thấp hơn; cả ba người thuộc đẳng cấp thấp nhất có thể làm vợ của người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn[6].

Bộ luật này hầu như không có một điều luật nào bảo vệ quyền lợi của đẳng cấp Thủ-đà-la. Nó chỉ chăm chăm bảo vệ quyền lợi của tầng lớp Bà-la-môn và Sát-đế-lợi, với những điều luật như:

Một người thuộc đẳng cấp Thủ-đà-la, cho dù bị mua hay không mua, anh ta có thể buộc phải làm công việc nô lệ, vì anh ta được sinh ra cho việc đó, là làm nô lệ cho đẳng cấp Bà-la-môn[7]. Hay “Một người đẳng cấp Thủ-đà-la dù được giải phóng bởi chủ của mình, vẫn không thoát khỏi tình trạng nô lệ, vì đó là tình trạng bẩm sinh của anh ta, ai có thể giải thoát cho anh ta được?”[8].

Và khi ra tòa, một người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn chỉ cần một cuộc nói chuyện là ổn thỏa; đẳng cấp Sát-đế-lợi thì chỉ cần khai báo thành thật; đẳng cấp thứ ba thì bị cảnh cáo phạt lúa, bò, tiền; còn đẳng cấp Thủ-đà-la thì bị răn đe, trừng phạt rất nặng nề[9].

Một người Sát-đế-lợi phỉ báng người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn sẽ bị phạt một trăm tiền, sẽ bị phạt từ 150 đến 200 nếu đó là người đẳng cấp Phệ-xá, và sẽ là nhục hình đối với một người Thủ-đà-la dám phỉ báng đẳng cấp Bà-la-môn[10]. Ngược lại, nếu một người Bà-la-môn phỉ báng người thuộc ba đẳng cấp kia thì sẽ bị phạt tiền theo thứ tự từ trên xuống: 50, 20 và 10. Nếu một người Thủ-đà-la chửi mắng, thóa mạ ba đẳng cấp kia thì sẽ bị trừng phạt cắt lưỡi v.v..

Nói chung, rất nhiều điều luật hiện hành trong luật Manu đem lại sự bất lợi cho các đẳng cấp thấp, thiên vị đối với hai đẳng cấp mà luật cho là thượng đẳng: Bà-la-môn và Sát-đế-lợi. Với những gì ghi trong luật Manu của Ấn Độ giáo, chúng ta thấy có tất cả năm loại quyền lợi mà người thuộc đẳng cấp thấp bị tước đoạt là:

a.       Không có quyền lợi về chính trị.

b.      Không có được cơ hội và lợi ích về kinh tế.

c.       Không có được công bằng xã hội.

d.      Không có quyền công bằng về tôn giáo.

e.       Không có sự công bằng về xét xử[11].

2. Phật giáo

Đức Phật đã chỉ ra những sự thật đáng chú ý về sự khác biệt giữa người này với người kia trong xã hội qua những gì đề cập trong kinh Vāseṭṭha. Ngài đưa ra quan điểm của mình chủ yếu là để phá hủy cấu trúc xã hội già cỗi đương thời, một cấu trúc xã hội dựa trên nền tảng đẳng cấp, tín ngưỡng, gia tộc và bất công. Ngài muốn thiết lập một xã hội mới dựa trên nền tảng bình đẳng, tình anh em và công bằng xã hội. Những nguyên nhân sau được đưa ra để cho thấy không có một lý do nào để tồn tại cái gọi là hệ thống đẳng cấp trong xã hội:

a)      Về sinh học

b)      Về nghề nghiệp

c)      Về lịch sử

d)     Về xã hội

e)      Về đạo đức[12]

Sinh học

Để làm sáng tỏ lý do về sinh học, Đức Phật nói với hai thanh niên dòng dõi Bà-la-môn tên là Vāseṭṭha và Bharadvaja rằng, không có chỉ dấu khác biệt lớn nào giữa loài người với nhau, trong khi đó những loài động thực vật mới có tướng sinh dị biệt khác nhau:

“Hãy xem loại côn trùng

Bướm đêm, các loài kiến,

Chúng có tướng thọ sinh,

Do sanh, có dị loại.

Hãy xem loại bốn chân,

Loại nhỏ và loại lớn,

Chúng có tướng thọ sinh,

Do sinh, có dị loại v.v..”[13].

Ta cũng thấy rằng, không có sự khác nhau giữa những người thuộc đẳng cấp này với những người thuộc đẳng cấp khác. Ở các loài động vật, thực vật chúng có sự khác nhau để phân loại này với loài khác. Nhưng chúng ta không thấy có sự khác nhau quá nhiều giữa những con người.

Có sự khác nhau nơi cảm thọ hạnh phúc và khổ đau giữa các đẳng cấp? Lẽ nào đẳng cấp Bà-la-môn khi tạo ác nghiệp không bị sa vào các cõi ác thú, mà chỉ có những tầng lớp khác mới chịu hậu quả như thế? Một khi quả dị thục chín muồi thì không có sự phân biệt đẳng cấp, ai cũng phải chịu ác báo giống nhau. Lại nữa, lẽ nào chỉ có giai cấp Bà-la-môn mới có từ tâm, lương thiện, từ bỏ ác nghiệp khi mạng chung được sinh lên thiên giới, còn các giai cấp khác thì không? Hoàn toàn sai lầm khi nghĩ rằng điều đó là đúng.

Có phải chỉ có ngọn lửa của người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn sáng hơn, nóng hơn ngọn lửa của các đẳng cấp khác? Cả hai người đó cùng kiếm lửa, tạo ra lửa bằng một loại cây giống nhau, vậy thì hai ngọn lửa đó có khác nhau về màu sắc, sức nóng?

Ngay cả trong cùng một giai cấp Bà-la-môn, nếu một người đọc tụng, thông hiểu thánh điển Vệ-đà thì sẽ được mọi người tôn kính và cúng dường hơn những người không đọc tụng và thông hiểu thánh điển. Và hơn thế nữa, một Bà-la-môn không đọc tụng, không thông hiểu thánh điển nhưng có trì giới, hành thiện pháp thì được tôn kính, cúng dường hơn người thông hiểu thánh điển nhưng không trì giới và hành thiện pháp. Điều này nói lên rằng, giá trị của một người không nằm ở đẳng cấp mà đến từ khả năng kiến thức và đạo đức mà người đó sở hữu[14].

Hai chàng trai trẻ Bà-la-môn tranh luận với nhau rằng: “Nếu ai thiện sinh từ mẫu hệ, phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sinh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn[15]. Luận cứ này cũng không vững chắc, bởi trong luật Manu của Ấn giáo cho phép một người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn được lấy vợ thuộc mọi đẳng cấp, nghĩa là có thể lấy vợ thuộc đẳng cấp Thủ-đà-la. Nhà Phật học Asvaghosa đặt nghi vấn về vấn đề này như sau: “Nếu cho rằng, mình thuộc đẳng cấp Bà-la-môn vì có cha mẹ thuộc dòng dõi Bà-la-môn, thì tôi phản đối điều đó trừ khi tổ tiên của họ phải thuần chủng, nghĩa là phải quan hệ huyết thống. Còn trong những trường hợp khác như cha là Bà-la-môn, mẹ là Thủ-đà-la  hoặc ngược lại thì đứa trẻ sinh ra không còn thuộc đẳng cấp Bà-la-môn”[16]. Xa hơn, Đức Phật cũng đã chứng minh cho chàng thanh niên Ambattha về việc không có một thứ giai cấp tối thượng, một dòng dõi tinh khiết hơn các dòng dõi khác khi vạch trần lịch sử tổ tiên của chàng thanh niên kiêu mạn này:

Này Ambattha, ngươi thuộc dòng dõi nào? Đức Phật hỏi. Và khi chàng thanh niên trẻ tuổi kiêu mạng ấy trả lời, Đức Phật dạy rằng: Này Ambattha, nếu theo phụ mẫu hệ của ngươi về thời quá khứ, thời dòng họ Thích Ca (Sakya) là thầy của ngươi và ngươi là con một nữ tỳ của dòng họ Thích Ca. Tổ tiên của dòng họ Thích Ca là vua Okkāka, vì muốn trao vương vị cho hoàng tử con bà hoàng hậu chính mà vua thương yêu nên đã đuổi những người con lớn của mình ra khỏi nước. Bị tẩn xuất, nên họ đến sống tại một khu rừng bên sườn núi Hy Mã Lạp sơn. Vị sợ huyết thống của mình bị lẫn lộn với huyết thống khác nên các vị hoàng tử này đã ăn nằm với những người chị của mình. Khi đức vua biết những hoàng tử này vì sợ lẫn lộn huyết thống đang sống ở sườn núi Tuyết đã thốt lên rằng: Những hoàng tử này thật là Sakya (cứng như lõi cây sồi), thật đúng là Sakya. Vì thế, vua Okkāka chính là tổ phụ của dòng họ Thích Ca. Vị vua ấy có một nữ tỳ tên là Disā, nữ tỳ này hạ sinh một đứa con da đen, đặt tên là Kanha, khi vừa mới sinh đã biết nói, khiến cho mọi người sợ hãi. Kanda chính là tổ phụ của dòng họ Khahāyana, chính là dòng họ của ngươi. Vì thế, dòng họ Thích Ca là thầy của ngươi, và ngươi là con một nữ tỳ của dòng họ Thích Ca[17].

Thêm nữa, trong cuộc đối thoại với chàng thanh niên Bà-la-môn Assalāyana, đức Phật cũng đưa ra chứng minh không có sự khác nhau về mặt sinh học nào đối với con người để từ đó sinh ra phân biệt đẳng cấp. Một người Bà-la-môn sinh ra từ mẹ như trăm ngàn người mẹ khác. Họ cũng mang thai, sinh con và chăm sóc bú mớn. Vậy những người mẹ đẳng cấp Bà-la-môn có gì hơn những người mẹ bình thường khác? [18]. Như vậy, ta có thể nói rằng, không có bất kỳ sự khác nhau nào về mặt sinh học để phân chia xã hội thành nhiều đẳng cấp khác nhau.

Nghề Nghiệp

Sự khác nhau giữa người này với người kia trong xã hội là dựa trên nghề nghiệp của họ. Ví dụ, một người làm nghề buôn bán, thì họ được xem là thương gia, không phải là nghề nông, không phải thợ săn, không phải ngư ông, càng không phải giới tu sĩ Bà-la-môn:

“Chính do sự hành động,

Được gọi Bà-la-môn,

Chính do sự hành động,

Được gọi Sát-đế-lợi,

Hành động làm nông phu,

Hành động làm công thợ,

Hành động làm lái buôn,

Hành động làm nô bộc”[19]...

Lịch Sử

Trong kinh Khởi thế nhân bổn (Agganna), đã cung cấp cho chúng ta những dữ kiện đáng tin cậy về lịch sử phát triển xã hội loài người.

Theo kinh Khởi thế nhân bổn, thời kỳ đầu khi trái đất hình thành, xã hội loài người lúc đó sống hòa bình và hưởng thụ sự bình đẳng về vật chất. Càng về sau, những hành động bất thiện như trộm cướp, nói láo, tà hạnh xảy ra. Để kiểm soát tình trạng này, nhóm người trong xã hội đó muốn bầu lên một người có sức mạnh, có uy tín để răn đe và trừng phạt những kẻ gây rối. Vì thế, họ tập hợp lại với nhau, chọn một người có dáng dễ nhìn, thông minh và mạnh khỏe để lãnh đạo họ, người này có thể khiển trách và trừng phạt kẻ phạm tội. Đổi lại, họ cũng cấp cho anh ta thực phẩm. Như vậy, người lãnh đạo được bầu bởi dân chúng. Những người lãnh đạo đó sau này đã trở thành đẳng cấp vua chúa. Đẳng cấp vua chúa được bầu bởi người dân chứ không phải được tạo ra bởi Thượng Đế toàn năng. Và từ suy luận đó, có thể nói những hạng người khác trong xã hội cũng không phải do Thượng Đế tạo ra. Điều này nói lên rằng, đẳng cấp Bà-la-môn, vì để phục vụ cho lợi ích của riêng mình, đã phân chia xã hội thành nhiều đẳng cấp khác nhau để cai trị và thâu tóm lợi ích kinh tế.

Xã Hội

Kinh Madhura chỉ ra rằng, một người thuộc bất kỳ tầng lớp xã hội nào cũng đều được tôn trọng, kính nể từ các tầng lớp khác[20]. Tôn giả Đại Ca Chiên Diên đã chỉ cho đức vua Madhura rằng không có sự khác biệt nào giữa những người dù khác nhau về chủng tộc, màu da hay đẳng cấp. Tất cả mọi người bất kỳ ở đẳng cấp nào cũng có thể tích lũy làm giàu. Điều đó cũng giống như trong xã hội ngày nay, một người với tiềm lực kinh tế mạnh dễ dàng trở thành ông chủ, và có thể thuê nhiều người làm công cho mình. Như vậy, sự phát triển về kinh tế có thể quyết định vị trí xã hội của bất cứ người nào.

Trong khi đó, ở một quốc độ khác lại có sự phần tầng rất đặc biệt, hệ thống đẳng cấp của xã hội đó không tồn tại, cũng không có một học thuyết nào cho rằng đẳng cấp do Phạm Thiên sinh ra trong xã hội đó. Một xã hội chỉ có hai giai cấp được nhắc tới, đặc biệt hơn, hai giai cấp này có thể hoán đổi cho nhau dựa vào tình trạng xã hội của họ. Đó là những gì mà kinh Assalayana mô tả:

Thưa vâng, con có nghe. Trong các quốc độ biên địa như Yona, Kamboja, chỉ có hai giai cấp: chủ nhân và đầy tớ. Sau khi làm chủ nhân, lại trở thành đầy tớ, sau khi làm đầy tớ, lại trở thành chủ nhân[21].

Điều đó cho chúng ta thấy, vị trí xã hội của một cá nhân thông qua tài sản họ có được. Một khi người đầy tớ chăm chỉ làm việc, tích lũy của cải, họ sẽ trở thành ông chủ. Còn người chủ với cái túi trống rỗng, hai bàn tay trắng thì trở lại làm đầy tớ.

Về mối quan hệ của một người với xã hội được đề cập rõ ràng trong kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt[22]. Theo kinh này, mối quan hệ của một cá nhân được chỉ định qua sáu phương hướng mà Đức Phật dạy rõ cho chàng thanh niên Thi Ca La Việt: “Này Gia chủ tử, sáu phương này cần được hiểu như sau: Phương Ðông cần được hiểu là cha mẹ. Phương Nam cần được hiểu là sư trưởng. Phương Tây cần được hiểu là vợ con. Phương Bắc cần được hiểu là bạn bè. Phương Dưới cần được hiểu là tôi tớ, lao công. Phương Trên cần được hiểu là Sa Môn, Bà-la-môn.”

Trong một xã hội với những mối quan hệ đa dạng như vậy, việc mình tạo ra của cải vật chất, chia sẽ và sử dụng nó để làm cho gia đình mình hạnh phúc và còn chia sẽ với người khác là điều cần thiết. Và theo điều này thì hệ thống đẳng cấp là điều bất lợi cho sự phát triển của xã hội. Bình đẳng xã hội cần được thiết lập thông qua phương tiện kinh tế. Cả hai đẳng cấp Bà-la-môn và không phải Bà-la-môn khi sinh ra không có bất cứ phương tiện kinh tế nào trong tay, điều kiện kinh tế của họ dần dần được phát triển. Thực ra, trong xã hội lúc bấy giờ ta cũng bắt gặp không ít những người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn nghèo khó. Vì thế, ngay cả họ cũng phải đấu tranh để tìm kiếm cơ hội vươn lên…

 Đạo Đức

Phật giáo tin rằng, tiềm năng của một người sẽ giúp người đó đạt được quả vị giải thoát. Mọi người đều có khả năng thành Phật, còn đạt được hay không tùy thuộc vào việc lựa chọn con đường đi của họ. Các nhà tư tưởng Bà-la-môn xem họ là một thể thống nhất với đấng Tối cao như Phạm Thiên. Họ tự hào về một thứ lý thuyết mà từ đó, chỉ có giới chức Bà-la-môn mới có thẩm quyền đạt được sự hợp nhất với đấng Tối cao. Đây là thứ lấy đi tự do tư tưởng của con người.

Đức Phật vào thời đó, đã quan tâm vào vấn đề trên. Ngài ủng hộ tất cả mọi người bất kể đẳng cấp, chủng tộc, màu da của họ là gì; tất cả đều có thể gia nhập Tăng đoàn của Ngài. Không một ai có thể tự cho mình trong sạch hơn kẻ khác.

Đức Phật dạy rằng, không ai có thể khiến mình thanh tịnh hay nhiễm ô, chỉ có chính mình mới làm được điều đó:

Tự mình, điều ác làm

Tự mình làm nhiễm ô,

Tự mình, ác không làm

Tự mình làm thanh tịnh.

Tịnh, không tịnh tự mình,

Không ai thanh tịnh ai[23].

Từ đoạn trích trên, ta có thể thấy rõ rằng, Đức Phật đã giành lại sự tự do hoàn toàn cho con người. Ngài động viên các đệ tử hãy cố gắng tự thân nổ lực, Như Lai chỉ là bậc thầy hướng đạo:

Ngươi hãy nhiệt tình làm

Như Lai chỉ thuyết dạy…”[24].

Hay trong một trường hợp khác, Đức Phật dạy rằng ta là chúa tể của chính ta. Bằng cách chế ngự chính bản thân mình, ta có thể đạt được quả vị khó đạt được:

Mình tự y chỉ mình,

Nào có y chỉ khác,

Nhờ khéo điều phục mình,

Được y chỉ khó được[25].

Thiện nghiệp và ác nghiệp đồng hành với chúng ta ngay cả khi từ giã cõi đời này. Nó rất quan trọng, sẽ quyết định cuộc sống của chúng ta có được hạnh phúc hay đau khổ ngay trong đời này và đời sau. Theo triết học Phật giáo, con người là thừa tự của nghiệp lực mà mình tạo ra:

Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý ô nhiễm,

Nói lên hay hành động,

Khổ não bước theo sau,

Như xe, chân vật kéo”[26].

          “Ý dẫn đầu các pháp,

Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý thanh tịnh,

Nói lên hay hành động,

An lạc bước theo sau,

Như bóng, không rời hình[27].

Trong kinh Madhura cũng nói tới việc không có sự khác nhau giữa những người thuộc các đẳng cấp khác nhau nhận lấy quả báo thiện và ác do chính họ tạo ra. Thiện báo mà những người Bà-la-môn và Thủ-đà-la nhận lấy không có bất kỳ sai khác nào: “Ở đây, nếu có vị Bà-la-môn, ở đây nếu có vị Phệ-xá, ở đây nếu có vị Thủ-đà-la từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân hận, theo chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy có thể sanh Thiện thú, Thiên giới”.

Đức Phật không bao giờ xem xét một người nào đó quan trọng hay ít quan trọng hơn thông qua đẳng cấp, chủng tộc, màu da của họ. Ngài luôn nhấn mạnh đến phẩm hạnh của một người. Với Ngài, ai cũng có thể sống và gia nhập vào Tăng đoàn…. Và các vị Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, bất kể xuất thân từ đẳng cấp nào, đều có thể thành tựu Thánh quả, được người đời tôn kính.

Trong kinh Phật tự thuyết, Đức Phật cũng tuyên thuyết về sự hợp nhất của các đẳng cấp trong Tăng đoàn của Ngài. Ngài lấy ví dụ bốn con sông chảy ra biển để đề cập đến điều này. Một khi nước của bốn con sông chảy ra biển thì chúng lập tức mất tên trước đó của nó, và trở thành biển lớn:

Ví như, này các Tỳ-kheo, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunā, sông Aciracati, sông Sarabhū, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, có bốn đẳng cấp này: Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Như Lai tuyên bố sau này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng từ trước, và chúng trở thành những Sa-môn Thích tử[28].

Các nhà tư tưởng Bà-la-môn đã tạo ra một xã hội phân chia đẳng cấp dựa theo chủng tộc hay thân thế của một người; trong khi đó, Phật giáo phân chia xã hội theo sự phát triển về tinh thần và đạo đức. Trong khi Bà-la-môn tuyên bố sự hiện diện của đấng Thượng Đế toàn năng thì Đức Phật lại cho rằng, con người là kẻ thừa tự của nghiệp lực, do nghiệp lực chi phối.

 



[1] The Laws of Manu, C.1., điều 87.

[2] Sđd., điều 88

[3] Sđd., điều 89.

[4] Sđd., điều 90.

[5] Sđd., điều 91.

[6] Sđd., điều 13.

[7] Sđd., điều 113.

[8] Sđd., điều 114.

[9] Sđd., điều 88.

[10] Sđd., điều 267.

[11] G.P Malalakera and K.N.Jayatilleke, Buddhism and the Race Question, tr.14-15.

[12] Sđd., tr.53-54.

[13] Trung bộ, kinh Vāseṭṭha, tr.779.

[14] Tương ưng. tr.359

[15] Trung bộ, kinh Vāseṭṭha, tr.776.

[16] Jayatilleke, sđd., tr.44.

[17] Kinh Ambattha, Trường bộ, tr.169

[18] Trung bộ, tr.684.

[19] Sđd., tr. 686.

[20] Kinh Madhura, Trung bộ, tr.549.

[21] Kinh Assalayana, Trung bộ, tr. 685.

[22] Trường bộ, tr.541.

[23] Pháp cú, số 165.

[24] Pháp cú, số 276.

[25] Pháp cú, số 160.

[26] Pháp cụ, số 01.

[27] Pháp cú, số 02.

[28] Kinh Phật Tự Thuyết, chương 5, phẩm Trưởng lão Sona, kinh số 51.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle