David đã giải thích khái niệm bù qua hiện tượng của các kính phân
cực đặt chéo. Tính định xứ buộc chúng ta nên xác định các
khái niệm vật lý theo những vận hành định xứ. Đấy là hai khái niệm – định xứ và bù – thành là những viên đá đặt
nền móng cho cái nhìn thích đáng về không–thời gian lượng tử. Chúng ta có khái niệm đầu tiên từ lý thuyết lượng tử và khái
niệm thứ
hai từ thuyết tương đối (lý thuyết về tính
tương đối). Để hợp
nhất hai lý
thuyết này
lại (dù
chúng chưa
bao giờ được thực hiện một cách
trọn vẹn) với mục đích là hình thành một mô hình không–thời gian giống như tinh
thể phân lập mà David khiến ta
thay đổi cái nhìn về
nó từ mạng lưới của những điểm đến một phức hợp hóa các ô nhỏ
lượng tử làm thành những đơn vị
nền tảng bên
ngoài cái
tạo nên
không–thời gian. Tuy
nhiên, không–thời gian thì bất toàn, còn thuỷ tinh thì dễ rạn
vỡ. Thành ra,
người ta
có thể
biết được những vết rạn này là
thuộc tính của những hạt và
các lực cơ bản nằm giữa chúng.
Cho dù David có khẳng định ngay rằng đây chỉ là
một mô
hình mà sau cùng nó vẫn có thể bị sai lầm, thế nhưng nó lại là chỗ lập
cước vững chắc để vươn đến các nguyên
lý sâu
xa nhất mà trên đó thế giới của ta được cấu trúc.
DAVID FINKELSTEIN:
Định xứ và độ cong tự chúng thể hiện ở
một tinh thể
qua những chỗ
hổng vĩ mô
trong thuỷ tinh. Chẳng hạn, nếu một
mặt phẳng trong
thuỷ tinh
bị khuyết mất ở một điểm nhất định nào
trên đó,
thì phân nửa mặt phẳng của
các nguyên tử cũng
bị khuyết mất
y như thế. Vậy thì,
con đường đi trong
một tinh thể trong suốt, nếu không bị đóng bít,
thì nó sẽ luôn mở ra.
Ngài đi quanh một đường cong và Ngài mất hướng về lại nhà (điểm
xuất phát). Còn nếu thuỷ tinh bị mất đi toàn bộ hình quạt (sector) và
chúng sẽ tự kết tinh lại để đóng bít lỗ hổng, lúc này khi Ngài tải một quang
điện quanh đường cong trong tinh thể ấy,
thì nó sẽ được phục hồi trở lại. Trong các
mô hình
không–thời gian
phân lập
như vậy,
ta y
vào các chỗ hổng trong tinh thể chân không để lý giải mọi hiện tượng giống như
độ cong và sau rốt là mọi lực. Phút giây tạo ra
một mô hình như
thế rất là
quan trọng để Ngài hỏi
cái gì xảy ra với chi tiết của nó khi Ngài truyền nó đi quanh một đường
cong và đưa nó về nguyên trạng. Điều ngạc nhiên trước tiên của
tôi trong
nghiên cứu này
là phát
hiện rằng, những việc xảy ra đều có hình lập phương khi Ngài
mang nó đi vòng mà trên thực tế, thì những sự kiện ấy cũng có thể xảy ra trong
vật lý với một quark khi ngài cho nó đi vòng một đường cong khép kín. Hầu như
có một liên
hệ mật
thiết nào đó
giữa cái được gọi là cấp độ tự
do nội tại
của quark với
cấu trúc không–thời gian.
Mô hình này có thể sai hoàn toàn, thế nhưng, trong đó tôi có thể
trình cùng
Ngài loại kết quả
nào khiếm khuyết trong
ánh sáng, loại kết quả nào nào khiếm khuyết những gluon mạnh hay
bất cứ
lực nào được biết đến, như lực hấp dẫn, chẳng hạn. Thành ra, trong
mô hình
phân lập
này mọi lực
được phỏng chiếu
tốt hơn. Dù
sự kiện ấy chưa phải là chính xác,
nhưng nó làm tôi can đảm để đi xa thêm.
Những thành quả như thế này còn rất thô thiển. Chúng
không dựa trên cấu trúc chi tiết của
tinh thể mà chỉ dựa trên tính tương tự
của tinh thể giống với một bàn cờ. Nó
để lộ
ra vấn đề
là cái gì xảy ra trong mỗi
một quark, như ta nói đến. Rồi vấn đề phát sinh, ta hỏi, cái
gì thật sự xảy ra? Những tác dụng này là gì? Thêm
nữa, tôi
có thể
thực hiện tất
cả thành một
mô hình rất đơn giản. Mô
hình xưa nhất về mạng được nhà toán học người Ý Giuseppe Peano sáng tạo ở cuối
thế kỷ này bao hàm những con số tự
nhiên. Ông bắt
đầu bằng cái
không có
gì. Ông lấy cái
không có
gì đó
làm mô hình cho điểm zero. Rồi ông
lấy bộ tập hợp
mà yếu tố
duy nhất của
nó là cái không có
gì và
lấy đó làm mô hình cho con số 1. Bộ tập hợp này mà yếu
tố duy nhất của nó là số 1 làm mô hình cho số 2. Quá
trình phát triển trong những tập hợp càng lúc càng sâu này được Peano quen
dùng để khắc họa (model) thời gian trôi qua. Sự phát triển đó cũng
có thể xét
là sự
biến đổi từ
một cấp độ thông thường sang siêu cấp.
Theo tôi, do
cái siêu
cấp này, mà
cấp độ được biết là cấp độ. Chẳng hạn, trong các phép toán, khi ta khảo luận một ngôn
ngữ mà
ta dùng ngôn ngữ giải ngôn
ngữ, thì gọi là siêu ngôn vậy.
Việc đáng
chú ý về mô hình của Peano là việc mà các điểm thời gian của
ông được phát sinh bằng sự liên hệ giữa chúng. Đây là
một hình
mẫu mà
trong đó
các điểm không
chỉ có
trước mà chúng còn được phát
sinh từng điểm một từ
một điểm trước theo đường
lối năng động. Để khái quát hóa điều này thành bốn chiều là rất
khó. Trong mô
hình ấy, toàn
bộ thế
giới là tướng trạng của những dịch hóa (transition dịch chuyển) từ hệ
thống sang
siêu hệ
thống, hay từ
năng tri đến sở tri. Siêu hệ thống thông tri hệ thống: nhà thực
nghiệm, công cụ thực nghiệm, mọi thứ xoay quanh hệ thống này được kéo
theo khi cấu thành khái niệm về hệ thống ấy. Vật lý
đến giờ đã là vật lý rất phẳng. Có hệ thống này để ta
thuyết minh và ta kiểm soát được toàn
diện siêu
hệ thống ấy, bởi
vì ngay từ đầu nó
đã được nhấn mạnh. Có
lẽ việc này nên dừng lại.
Trong
thời kỳ
đầu của lý thuyết lượng tử,
chúng ta biết là nó không thể không liên quan đến siêu hệ thống.
Những nhận định sau cùng của David đã đưa ta trở lại cuộc thảo luận trước đây về
những đặc tính
tiền hữu
cho những vật thể lượng tử.
Duới sự
hướng dẫn của Anton, ta đã chạm trán những vấn đề từ ý tưởng về một thế giới cổ điển mà các vật thể (đối tượng) của nó sở hữu những đặc tính khách quan. Ở đây, David đã từng
viện tới một tuyên bố tương tự về bản thân của không–thời gian. Những điểm trong không–thời gian không tồn tại; đúng hơn chúng và toàn bộ
cảnh giới tuỳ hành cùng chúng đều phải được nhận thức như là tướng trạng của các
dịch chuyển hay các tác dụng. Các chuyển biến này đưa ta đi từ hệ
thống đến siêu
hệ thống, từ năng tri
đến sở
tri. David xem năng tri như đang tồn tại ở cấp siêu
hệ thống, và ông đã say đắm tính toàn diện từ nét đặc trưng hàm ẩn này của thế
giới, tức năng tri. Vật lý cổ điển đã đặt người năng tri bên
ngoài lý giải của nó
và tính
siêu cấp chưa bao giờ được phát sinh. Sự
lý giải của nền vật
lý này đều y
trên cấp
độ thực tại khách quan giả định. Cơ học
lượng tử và
thuyết tương đối đã cho
là, tất
cả điều đó vốn có vấn đề. Nhiệm vụ trước mắt chúng ta là phải cấu trúc
một lý
giải thích
đáng để bao quát tính
tinh tế
lâu dài hơn, và
dung nhiếp hiện tượng phức hợp cũng như
các nguyên lý về vật lý mới như
đã được David và Anton khắc họa.
Pháp Hiền cư
sỹ dịch