Phật học đường Nam Việt và sự nghiệp đào tạo tăng tài tại miền Nam
PHẬT HỌC ĐƯỜNG NAM VIỆT VÀ SỰ NG
PHẬT
HỌC ĐƯỜNG NAM VIỆT
VÀ
SỰ NGHIỆP ĐÀO TẠO TĂNG TÀI TẠI MIỀN NAM
Thích nữ Liên Thảo
Bối
cảnh
ra
đời
Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, phong trào chấn hưng Phật giáo diễn ra
khá sôi nổi trên truyền thông báo chí. Các hội Phật giáo lần lược ra đời tại cả
ba miền Bắc
-
Trung
-
Nam. Các Phật học đường được thành lập với mục đích đào tạo
những Tăng
Ni
tài đức cho Phật giáo. Đến năm 1945,
những
chuyển biến của xã hội đã ảnh hưởng đến Phật giáo một cách rõ rệt.
Tại miền Trung, do ảnh hưởng của hoàn cảnh chính trị và xã hội, phong trào chấn
hưng Phật giáo có dấu hiệu chậm bước trước những dự kiến mà hội
đã
đề ra, đặc
biệt giáo dục
Tăng
Ni
không đủ sức duy trì vì trở ngại về kinh phí: “Đến năm 1945, sau ngày Nhật
đảo
chính Pháp, Phật học viện Kim Sơn (Huế) không duy trì được, nên
phần
lớn giáo sư và học
Tăng
được đưa vào Nam”[1].
Năm 1945, bên cạnh việc thiếu kinh phí, giới
Tăng
Ni
và cư sĩ tại miền Trung lo thành lập một tổ chức Phật giáo cứu
quốc
nên vấn đề đào tạo
Tăng
Ni
tạm dừng lại. Thay vào đó, các tờ báo làm cơ quan ngôn luận phục vụ cho công
cuộc kháng chiến cứu quốc được ra đời như
Báo
Giải Thoát,
Báo
Giác Ngộ. So với miền Trung, miền Nam có phần khả quan hơn trong hoạt động
giáo dục khi các trường Phật học vẫn từng bước tiến triển.
Tại miền Nam, Phật học đường Phật Quang (Trà Vinh) được thành lập năm 1945 do
Thượng
tọa Thiện Hoa đứng ra kêu gọi nhằm duy trì hoạt động đào tạo
Tăng
tài[2].
Năm 1946, Phật học đường Liên Hải ở Chợ Lớn khai giảng dưới sự chủ trì của
Thiền
sư
Trí Tịnh và
Thiền
sư Quảng Minh. Phật học đường Liên Hải thành lập không lâu thì vài tháng sau
Thiền
sư Huyền Dung khai giảng Phật học đường Mai Sơn (1947), sau dời về chùa Sùng Đức
ở Chợ Lớn.[3]
Cùng năm 1947, Phật học đường Giác Nguyên được
Hòa
thượng Hành Trụ thành lập. Năm 1949, Phật học đường Ứng Quang tọa lạc trên đường
Lorgéril (thuộc khu Vườn Lài) được lập nên bởi thầy Trí Hữu.[4]
Vào
giai
đoạn 1947
-
1948,
Tăng
Ni
trên toàn quốc tham gia vào công cuộc “chống Pháp cứu nước” nên Phật giáo
giai đoạn này không có hoạt động gì nổi bật. Tuy các Phật học đường được thành
lập nhưng quy
mô rất nhỏ, cơ sở thô sơ, chương trình đơn giản với các học phần chủ yếu về
kinh,
luật,
luận.
Tăng
Ni
sinh theo học số lượng không nhiều[5].
Nhìn lại, sau bối cảnh lịch sử năm 1945, bức tranh Phật giáo Việt Nam từ những
năm kế tiếp không có mốc son nào cho công cuộc chấn hưng. Tuy nhiên, bước sang
năm 1950, tại miền Nam, đánh dấu sự tiếp nối dòng chảy của hoạt động đào tạo
Tăng
tài trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam qua sự hợp nhất các Phật học
đường: Phật học đường Liên Hải, Phật học đường Mai Sơn, Phật học đường Ứng Quang
thành Phật học đường Nam Việt.
Xây dựng cơ sở hạ tầng
Năm 1950, chùa Ấn Quang được
thành lập
tại một khu đất đầy hầm hố bên phải đường Lorgéril
(nay đường Sư Vạn Hạnh), xung quanh có một số mồ mả rải rác. Phong cảnh lúc bấy
giờ rất vắng vẻ hoang vu.
“Chùa được xây dựng trên một thửa đất độ trên 500 thước vuông, tính chung cả
chánh điện, nhà thiền, nhà tổ, nhà bếp,
v.v. trên sáu nóc. Mỗi nóc nhà trong phạm vi chùa cất lợp bằng thứ nội hóa chánh
tông: nền đắp đất sỏi, vách cà tăng, trống trước trống sau, mái nhà lợp bằng tầm
vông và lá dừa nước đã mục nát, nắng thì chói vào, mưa thì dột không sót chỗ nào.”
Các cơ sở hạ tầng tại chùa Ấn Quang từ chánh điện đến giảng đường
dần xuống cấp, gây ra một số khó khăn cho tín đồ khi đến hành
lễ.
Chánh điện thì những tấm gạch tàu lót nền gập gềnh lỏng chỏng. Giảng đường thì
mưa dột không có chỗ nào khỏi ướt.
Có thể thấy, Phật học đường Nam Việt
vào lúc đầu
rất khó khăn về vật chất, tuy nhiên về tinh thần thì đầy nhiệt huyết: “Nơi
vách phên mái lá lại đông đảo
sư
tăng nhường nhau từng mảnh chiếu, đôi khi phải dùng chiếu đất màn trời, vẫn thấy
vui sướng chung nhau ăn ở chia sớt những mối buồn lo vinh, nhục.”
Mặc dù gặp khó khăn về cơ sở vật chất nhưng tinh thần giáo dục của các vị lãnh
đạo tại Phật học đường không bao giờ
thoái thất.
Chí cầu học của
Tăng
sinh vượt khỏi sự trở ngại của hoàn cảnh và tạo nên một luồng sinh khí mới cho
nền giáo dục Phật giáo tại miền Nam, từ đó thu hút sự chú ý của tín đồ khắp miền
Nam, nhờ đó những hoạt động của ban hộ trì Tam
bảo
ngày càng phát triển hơn và góp phần kiến thiết các cơ sở hạ tầng tại trường
Phật học Ấn Quang.
“Đến năm 1954, sự tiến bộ của chùa Ấn Quang thấy rõ
rệt từ vật chất đến tinh thần, nhờ sự xúc tiến của Ban Hộ
trì
Tam
bảo
như bác sĩ Lê Văn Cầm, ông Võ Đình Dần vân vân. Phật học đường bắt đầu thay hình
đổi dạng bằng nhiều giai đoạn.
-
1951-1952:
Giảng đường, tăng xá từ mái
tranh vách đất được kiến thiết lại thành mái ngói nền đúc.
-
1953: Chánh điện được
xây cất với lối kiến trúc có tính cổ điển, đơn giản, trang nghiêm rộng rãi và
mát mẻ.
-
1965: Tổ đường được
dựng lên bằng những vật liệu nặng đúc bê-tông,
xây tường. Phòng ốc khang trang.”
Phật học đường Nam Việt dần dần thay đổi từ hình thức đến nội dung. Về hình
thức: lúc đầu thành lập với vách lá, nền đất nhưng về sau được xây dựng kiên cố
hơn với mái ngói, nền đúc. Về nội dung: ban đầu chương trình bao gồm các môn nội
điển nhưng về sau có sự kết hợp ngoại điển nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội.
Chương trình đào tạo của Phật học đường Nam Việt
Tiếp nối chương trình nội điển đã được giảng dạy ở Phật học đường Lưỡng Xuyên,
Báo Quốc, Phật học đường Nam Việt đề ra chương trình giáo dục trong bảy năm với
nội dung tổng quát về
kinh,
luật,
luận.
Các môn học được giảng dạy tại các lớp sơ đẳng, cao đẳng như: Bát đại nhân
giác, Di giáo, Tứ thập nhị chương, Nhị khóa hiệp giải,
Di
Đà
sớ sao,
Tâm kinh, Kim
cang
Bát-nhã,
Duy
Ma
Cật,
và nhiều phần kinh do
Đại sư
Thái
Hư
giảng
giải.
Về luật:
Học
bốn
bộ luật
trường
hàng
Tỳ-ni,
Sa-di,
Oai
nghi,
Cảnh
sách;
Tứ phần luật sớ, Bồ-tát anh lạc kinh.
Về kinh: Thập thiện nghiệp đạo, Ngũ thiên sứ giả, Bụt kinh.
Về luận: Bách pháp minh môn, Duy thức dị giản, Bát thức quy cũ tụng trang
chú, Đại thừa khởi tín, Đại thừa chỉ quán, Duy thức đích khoa học, Duy thức
phương tiện đàm, v.v.
Chương trình trên áp dụng cho các học
Tăng
cao đẳng đại học Phật giáo với thời gian đào tạo là 12 năm[11].
Ngoài ra còn học các môn phụ được dạy tại Phật học Nam Việt năm 1951 như: Hán
văn, Việt văn, Pháp văn, toán. Trong đó có các lớp: sơ đẳng (1
năm) là lớp học đông hơn so với các lớp khác; sơ đẳng (3 năm) khoảng 30 vị; cao
đẳng chỉ có 6 vị,
đều là học tăng lớn:
thầy
Thiền Tâm (1926-1992),
thầy
Bửu Huệ (1914-1991), thầy Tắc Phước, thầy Tịnh Đức (1928-1958), thầy Tịnh Chơn,
thầy Đạt Bửu. Các vị này tốt nghiệp cao đẳng năm 1957
và
sau đó tiếp tục phụ trường dạy học cho các lớp dưới[12].
Giáo thọ năm 1951-1953 gồm:
thầy
Thiện Hòa, thầy Nhựt Liên, thầy Huyền Dung, thầy Quảng Minh, thầy Quảng Liên.
Năm 1954-1957,
giáo thọ của trường chỉ còn một số vị như: thầy Thiện Hòa, thầy Thiện Hoa, thầy
Trí Hữu, thầy Nhất Hạnh.
Học Tăng được
tổ chức lại thành hai lớp A và B, học rất hào hứng. Năm 1953,
thầy
Trí Quang vào miền Nam dưỡng bệnh
và tham gia
dạy
môn
Duy thức hơn
một
tháng.
Nhìn chung, chương trình đào tạo tại Phật học đường Nam Việt trong giai đoạn
trước năm 1954 là sự kế thừa từ chương trình đào tạo của Phật học đường An Nam
và Phật học đường Lưỡng Xuyên. Tuy nhiên, Phật học đường Nam Việt có những bước
tiến mới khi chương trình giáo dục được cải cách
vào
năm 1953. Sau buổi lễ
khánh thành Phật học đường Nam Việt ngày 14-15 tháng 7 năm 1953, chương trình
giáo dục được quy định như sau: thời gian đào tạo là 10 năm gồm ba cấp học:
tiểu
học 4 năm;
trung
học 3 năm;
đại
học 3 năm. Trường thu nhận hơn 50
Tăng
sinh đến từ miền Trung, miền Bắc và các trường Phật học như Giác Nguyên, Liên
Hải, Mai Sơn tại miền Nam.
Kiến thức Phật học được xem là quan trọng khi quy định đó là học phần chính và
bắt buộc cho cả
Tăng
Ni
sinh. Các học
Tăng
học
Ni
muốn vào học cấp tiểu học phải có ít nhất trình độ cấp tiểu học quốc dân. Ở cấp
tiểu học và trung học,
Tăng
Ni
được học các môn bằng tiếng Việt, nhưng đến cấp đại học trường bắt buộc các môn
nội điển phải dạy bằng tiếng Hán. Học sinh sẽ được học kiến thức Phật học lẫn
thế học ở hai cấp học đầu. Nhằm kiểm tra chất lượng của
Tăng
Ni
sinh, trường tổ chức kỳ
thi chuyển cấp đối với hai cấp học đầu. Tuy nhiên, đến cấp đại học có sự chặt
chẽ hơn khi mỗi năm có kỳ
thi lên lớp. Cuối năm đại học nếu
Tăng
Ni
sinh đạt tiêu chuẩn trong kỳ
thi cuối cấp sẽ được trường cấp bằng đại học. Đây là bước tiến mới trong hoạt
động giáo dục của Phật giáo miền Nam mà các Phật học đường trước 1950 chưa từng
có. Ngoài quy định về cấp học và thời gian học, lịch học mỗi tuần cho các cấp
được ban giáo dục trường quy định như sau:
-
Áp dụng trong bốn năm của cấp tiểu học: môn Phật pháp và
Hán
cổ sẽ được dạy trong 10 giờ, sinh ngữ 5 giờ, toán 3 giờ, lý
hóa 2 giờ, sử địa 2 giờ, vạn vật 1 giờ, Việt văn 4 giờ (tổng cộng 27 giờ).
-
Áp dụng trong hai năm đầu của cấp trung học: Phật pháp và Hán tự 10 giờ, sinh
ngữ 8 giờ, toán 2 giờ, sử địa 3 giờ, vạn vật 1 giờ, lý
hóa 2 giờ, Việt văn 4 giờ (tổng
cộng
30 giờ).
-
Áp dụng năm thứ ba: Phật pháp và Hán tự 7 giờ, triết học 9 giờ, toán 2 giờ, sinh
ngữ 5 giờ, sử địa 4 giờ, lý
hóa 2 giờ, vạn vật 2 giờ (tổng cộng 31 giờ).
-
Áp dụng cấp đại học trong hai năm đầu: kinh học 10 giờ, triết học phương Tây 2
giờ, triết học phương Đông 2 giờ, văn học 2 giờ, phiên dịch - sáng tác 2 giờ
(tổng
cộng
18 giờ). Riêng năm thứ hai có thêm môn Phật giáo sử.
-
Áp dụng năm thứ ba: kinh học 10 giờ, triết học phương Tây 2 giờ, triết học
phương Đông 2 giờ, Việt Nam Phật giáo sử 2 giờ, xã hội
-
kinh tế 2 giờ, phiên dịch
-
sáng tác 2 giờ (tổng cộng 20 giờ)
Đối với chương trình Phật học, trường có những quy định khá cụ thể cho từng cấp
và từng năm như sau:
-
Cấp tiểu học, năm thứ nhất học chương trình Phật
pháp
phổ thông khóa thứ nhất và thứ hai, Giới luật phổ thông, Nghi thức dẫn giải; năm
thứ hai học chương trình Phật pháp phổ thông khóa thứ ba và thứ tư, Văn học Phật
giáo; năm thứ ba học chương trình Phật pháp phổ thông khóa thứ năm, Mười tông
phái đạo Phật ở Viễn Đông, Văn học
Phật
giáo;
năm
thứ tư học Phạn giáo của ngài Thiên Thai, Thế giới Phật giáo sử, chương trình
Phật pháp phổ thông khóa thứ sáu.
-
Cấp trung học, năm thứ nhất học Tâm lý
học (Pháp tướng Duy thức, Hành tướng Duy thức), Luận lý
học (Nhân minh học
-
Lịch sử nhân minh học, Tân nhân minh và cổ nhân minh, nhân minh với luận lý
học hình thức, những phương thức biện luận), Luân lý
học (phần lý
luận sẽ học nghiệp học và nhân quả học, phần thực hành sẽ học luật học); năm thứ
hai học Tâm lý
học (Pháp tướng Duy thức sẽ ôn lại bát thức và học 51 tâm sở, 3 phần, 4 cảnh, 3
tự tính), Luận lý
học (ôn lại kiến thức năm trước, học thêm kiến lập phần thứ nhất đến phần thứ
ba, những lỗi về tôn, nhân, dụ), Luân lý
học (về lý
luận sẽ học
báo
ứng luận, thiện ác luận, hai đường lối xuất thế và nhập thế, về phần thực hành
sẽ tiếp tục học Luật học); năm thứ ba học Tâm học (Giáo lý
Pháp tính và giáo lý
Bát-nhã), Luận lý
học (Biện chứng
pháp
Phật giáo trong toàn bộ giáo lý, so sánh pháp biện chứng ấy với các phép biện
chứng khác), Luân lý
học (phần thực hành sẽ học
Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Tam học, Thiền chỉ quán, Luật học;
phần
lý
thuyết sẽ học xã hội cộng biến, đường lối nhân sinh, vũ trụ quan), Duy thức học
(Nhận thức luận, Vũ trụ quan, Duy thức biến, A-la-ya, Vũ trụ cộng biến, tự biến,
Xã hội cộng biến).
-
Cấp đại học năm thứ nhất sẽ học Tiểu thừa Phật giáo, các
kinh,
luật,
luận
thuộc về hệ thống giáo lý
Tiểu thừa; năm thứ hai học về các tông phái của đạo Phật và kinh luận Đại thừa;
năm thứ ba sẽ học tiếp chương trình năm hai và chú trọng hơn về hệ thống Pháp
tướng. Đối với kiến thức phổ thông,
Tăng
Ni
sinh sẽ học theo chương trình
của
Bộ giáo dục Quốc gia.[13]
So với giai đoạn đầu chấn hưng, hoạt động đào tạo
Tăng
tài của Phật học đường Nam Việt với những cải cách mới thể hiện chặng
đường phát triển của Phật giáo Việt Nam qua phương diện giáo dục. Mặc dù đây là
giai đoạn hoạt động đào tạo
Tăng
tài có hướng giáo dục mới nhằm phù hợp với tiến bộ của xã hội, nhưng những chủ
trương của trường vẫn dựa trên nền tảng giáo dục truyền thống qua các môn học
đặt trọng tâm vào nội điển.
Thành tựu của Phật học đường Nam Việt
Hoạt động của Phật học đường Nam Việt dần thu hút sự chú ý của giới trí thức: “Thời
gian không bao lâu Ấn Quang hấp dẫn được một số người trí thức, mộ đạo thiết
tha. Và cảnh Ấn Quang ngày hôm nay khác hẳn với cảnh xưa. Nhà lầu vách gạch nền
đúc thay vì mái lá vách phên nền sỏi.”
“Hàng trí thức bắt đầu lần lượt nhận thức được đường lối cao cả của Phật học
đường. Như vợ chồng: Bác sĩ Cầm, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Văn Xây,
Võ Đình Dần,
v.v.”
Từ đó cho thấy Phật học đường Nam Việt đã được sự ủng hộ của nhiều tín đồ tại
miền Nam.
Bên cạnh đó, ngay khi còn đang theo học,
các vị học
Tăng
đã thể hiện đóng góp của mình cho sự nghiệp hoằng pháp khi tổ chức phát hành
Phật điển giáo khoa:
“Do một nhóm học
Tăng
Phật học đường Nam Việt chủ trương, một ban ấn hành Phật điển giáo khoa đã thành
lập, với mục đích cho in lại những kinh điển chữ
Nho
hiện nay khó hiếm, để giúp học sinh các trường Phật học khỏi thất công sao chép”.
Các vị học
Tăng
này đã phát hành được kinh Thập
thiện
nghiệp
đạo
(Đại
sư
Thái Hư giảng); kinh Bát
đại
nhân
giác
(Đại
sư
Thái Hư giảng);
luận
Đại
thừa
bách
pháp
minh
môn
(Chuế Ngôn); kinh Lăng
nghiêm
trực chỉ
(Đơn Hà sớ).
Trường đã xuất bản
Tập
san Tiếng Chuông Cực Lạc,
Tập
san Ánh Vàng (mùa Phật
đản
năm 1954),
Tập
san Hương Thiền (mùa Vu
lan
1960).
Những
tập san trên đã đánh dấu sự trưởng thành về tri thức Phật pháp của
các
học
Tăng
Phật học đường Nam Việt khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Các vị lãnh đạo tại Phật học đường Nam Việt chủ trương: “Đào tạo Tăng tài là
một trong những mục đích quan trọng nhất của Phật giáo hiện tại và tương lai.
Bao năm qua, Phật học đường Nam Việt theo
đuổi
mục đích ấy.”
Chính tâm huyết trên đã thôi thúc các vị lãnh đạo như
Hòa
thượng Thiện Hoa,
Hòa
thượng Thiện Hòa tiến hành các hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo đời sống của
Tăng
sinh đang theo học: mở nhà in
Sen
Vàng
vào tháng 5-1954; xưởng làm nhang trần
Bồ-đề
ra đời vào tháng
Chạp
năm 1954; xưởng sản xuất nước tương
Vị
trai
lá
Bồ-đề được thành lập
vào
1959; lò thiêu An
Dưỡng
Địa
(1957). Những nỗ lực
của
ban lãnh đạo trường cùng sự cố gắng tu học của
Tăng
sinh đã có kết quả qua sự tiếp nối giáo dục của các vị
Tăng
sĩ.
Tiêu biều nhất là Hòa thượng Thanh Từ, một học
Tăng
tại trường Phật học Nam Việt đã trở thành một trong những vị giáo thọ tại Phật
học đường Huệ Nghiêm (1966). Hòa thượng đã thổi một luồng sinh khí vào Phật giáo
Việt Nam về tư tưởng đào tạo
Tăng
tài in trên đặc san Hoa Thiền năm 1966: “Qua những nhận xét trên chúng
ta thấy vấn đề đào tạo
Tăng
tài là vấn đề nền tảng và then chốt. Chúng ta muốn kiến thiết chùa chiền, muốn
tổ chức Phật giáo sâu rộng,
muốn làm những việc từ thiện, thì vấn đề đào tạo
Tăng
tài phải là vấn đề tiên quyết. Nếu không có một số
Tăng
Ni
có tài có đức đảm nhiệm các việc trên, khác nào người xây lầu trên vũng bùn, chỉ
luống công vô ích”.
Những thành tựu mà Phật học đường Nam Việt đạt được đã đánh dấu sự nỗ lực của
Tăng
sĩ Phật giáo Việt Nam bấy giờ. Bên cạnh đó, bài học sâu sắc về con đường giáo
dục tăng tài được các thế hệ
Tăng
sĩ tiếp nối trong dòng chảy lịch sử cho tới ngày nay.
Kết luận
Chính vì nhìn thấy được nguyên nhân Phật giáo suy vi từ cuối thế kỷ XIX, các vị
lãnh đạo Phật giáo đã vược mọi khó khăn để lập nên các Phật học đường. Phật học
đường Nam Việt ra đời trong bối cảnh đất nước có nhiều biến động đã thể hiện
quyết tâm xây dựng Phật giáo Việt Nam qua chủ trương giáo dục. Những thành tựu
của Phật học đường Nam Việt đã để lại những bài học quý giá cho đường hướng giáo
dục của Phật giáo
trong
giai đoạn chuyển tiếp. Phật học đường Nam Việt đã đánh dấu sự phát triển của nền
giáo dục
Tăng
Ni
tại miền Nam Việt Nam. Hoạt động đào tạo
Tăng
tài của Phật giáo Việt Nam luôn được các vị
Tăng
sĩ và cư sĩ chú trọng từ khi phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu manh nha. Từ
đó cho thấy giáo dục Phật giáo là yếu tố
then
chốt trong việc Phát triền Phật giáo.