Tư tưởng Tịnh độ trong kinh Hoa nghiêm

tu tuong tinh do

TƯỞNG TỊNH ĐỘ TRONG KINH HOA NGHIÊM

Thích Đồng Thuận

 

Kinh Hoa nghiêm là một bản kinh lớn thuộc truyền thống Đại thừa Phật giáo, xuất hiện vào thời đại B-tát Long Thọ hoặc trước đó 100 đến 200 năm, tức vào thời kỳ đầu của Đại thừa Phật giáo, rơi vào khoảng thế kỷ thứ I TL [1]. Nội dung cốt lõi của kinh Hoa nghiêm là trình bày về vũ trụ luận Phật giáo theo cái nhìn duyên khởi. Vũ trụ trong kinh Hoa nghiêm được diễn tả vô cùng oai nghiêm, rực rỡ. Vũ trụ ấy trông giống như một tràng hoa xinh đẹp được xâu kết lại từ vô số những bông hoa nhỏ li ti. Mỗi bông hoa nhỏ li ti ấy lại là một quốc độ bao la, rộng lớn; và tất cả mọi sự vật, hiện tượng nằm trong từng quốc độ ấy đều do tâm phóng hiện ra. Tuy Hoa nghiêm nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tâm trong việc kiến tạo thế giới, nhưng học thuyết của Hoa nghiêm lại không hoàn toàn đứng trên lập trường của Duy tâm luận mà triển khai mọi vấn đề.

Xét tổng quát về mặt tư tưởng, kinh Hoa nghiêm được thiết lập trên nền tảng triết lý chơn không diệu hữu để nhìn nhận thật tướng các pháp. Đứng trên lập trường của lý chơn không ấy mà nói thì vạn pháp là duyên sinh, kể cả cảnh giới Tịnh độ của chư Phật. Từ cái chơn không mà sum la vạn tượng ảnh hiện một cách trùng trùng bất tận. Đây là điểm đặc sắc trong kinh Hoa nghiêm khi trình bày về thế giới quan Phật giáo.

Xét về mặt tư tưởng triết lý Tịnh độ trong kinh Hoa nghiêm, chúng ta thấy tư tưởng của bản kinh này có nét đặc thù hơn so với các bản kinh khác ở chỗ: nếu các bản kinh khác thuộc truyền thống Tịnh độ đề cao đến vai trò nguyện lực của Như Lai như nguyện lực của Phật A Di Đà để hình thành nên quốc độ thanh tịnh, trang nghiêm và dẫn dắt chúng sanh sinh về nơi ấy thì kinh Hoa nghiêm lại chú trọng, nhấn mạnh đến yếu tính Nhân-Duyên-Quả mà hình thành nên mọi cảnh giới Tịnh độ kể cả Tịnh độ Tây phương. Đây là nguyên lý vận hành chung của tất cả thế giới Tịnh độ theo kinh Hoa nghiêm. Đồng thời thông qua đó, chúng ta thấy được Hoa Nnghiêm đề cao tính nhân bản, xem vai trò, vị trí và chức năng của con người là yếu tố chính để thiết lập một thế giới tốt đẹp.

Một điểm tiếp theo tạo nên sự đặc biệt của kinh Hoa nghiêm là kinh trình bày về tư tưởng Tịnh độ rất thực tiễn và ưu việt. Hoa Nnghiêm triển khai Tịnh độ ngay tại chính thế giới mà chúng sinh đó đang sống, như cõi Ta-bà chẳng hạn. Hoa nghiêm không hướng chúng ta đi tìm cầu về một phương trời Tịnh độ xa xôi, mà cũng không đợi đến sau khi chết mới vãng sinh về thế giới đó. Hoa nghiêm đặt Tịnh độ ngay chính trong thế giới của thực tại và cả thế giới của tự tâm. Như vậy, về mặt lý luận lẫn thực tiễn thì Hoa nghiêm đều triển khai một cách dung hòa và đầy đủ. Chính vì thế, khi tìm hiểu về tư tưởng Tịnh độ trong kinh Hoa nghiêm, chúng ta có thể dễ dàng áp dụng vào việc kiến thiết một thế giới an lành, hạnh phúc ngay trong cuộc sống hiện tại.

Hoa Nnghiêm nhắc đến rất nhiều các cõi Tịnh độ trong mười phương thế giới và gọi tên toàn thể các thế giới ấy là Hoa tạng thế giới. Các thế giới được nhắc đến trong kinh như Phương Đông Hoa Tạng Trang Nghiêm thế giới; có thế giới hải tên Thanh Tịnh Quang Liên Hoa Trang Nghiêm, là thế giới của Phật hiệu Pháp Thủy Giác Hư Không Vô Biên Phương; phương Nam có thế giới tên Nht Thiết Bửu Nguyện Quang Minh Trang Nghiêm Tạng, ở đó có Phật hiệu Phổ Trí Quang Minh Đức Tu Di Vương; phương Tây có thế giới tên Khả Ái Nhạo Bửu Quang Minh của Phật hiệu Hương Diệm Công Đức Bửu Trang Nghiêm; phương Bắc có thế giới tên Tỳ Lưu Ly Liên Hoa Quang Viên Mãn Tạng của Phật Phổ Trí Tràng Âm Vương... Ngoài ra còn có vô số các thế giới hải, và mỗi thế giới đều có một vị Phật và chư vị B-tát làm nhiệm vụ giáo hóa chúng sinh.

Hoặc thấy cõi này diệu vô tỷ

Phật vô lượng kiếp đã nghiêm tịnh

Tỳ Lô Giá Na tối thắng tôn

Trong đây đại ngộ thành Chánh giác.

Hoặc thấy liên hoa cõi thắng diệu

Hiền Thủ Như Lai ở trong đó

Vô lượng Bồ-tát chúng vi nhiễu

Thảy đều siêng tu hạnh Phổ Hiền.

Hoặc thấy có Phật Vô Lượng Thọ

Quan Âm, Thế Chí hầu hai bên

Đều bậc quán đảnh bổ xứ cả

Sung mãn mười phương các quốc độ.

Hoặc thấy có cõi Đại thiên này

Thanh tịnh trang nghiêm như Diệu Hỷ

A Súc Như Lai ngự tại đây

Chúng đại Bồ-tát bao quanh Phật [2].

Các cảnh giới Tịnh độ trong kinh Hoa nghiêm cũng được diễn tả có lầu các trang nghiêm, đất đai bằng phẳng tươi tốt, vườn rừng, ao báu... đều từ thất bảo làm ra giống như cảnh giới ở Tây phương Cực lạc mà chúng ta thường được biết tới trong các kinh thuộc truyền thống Tịnh độ: “Lâu các Đại Trang Nghiêm bỗng nhiên rộng rãi không có ngằn mé, kim cang làm đất, bảo vương che bên trên, vô lượng bảo hoa và những châu ma-ni rải đầy khắp trong lầu, lưu ly làm cột, các thứ báu hiệp thành, trang nghiêm với ma-ni sáng rực, vàng diêm phù đàn, ngọc như ý chúa trùm khắp phía trên để nghiêm sức. Lầu cao thành dãy, đường gác kèm bên, kèo mái thừa nhau, cửa ngạch nối nhau, thềm bực hiên bao lơn đều đầy đủ, tất cả đều trang nghiêm với diệu bảo. Những bảo vật ấy đều làm bằng hình tượng trời người, kiên cố đẹp lạ, đệ nhất thế gian. Lưới báu ma-ni che khắp phía trên. Bên cửa đều dựng tràng phan, đều phóng ánh sáng cùng khắp pháp giới. Ngoài đạo tràng thềm cấp lan can nhiều vô lượng không thể kể nói, đều bằng ngọc ma-ni”[3].

Dường như chưa có một bản kinh nào diễn tả nhiều quốc độ chư Phật và rõ ràng từng chi tiết như kinh Hoa nghiêm. Các cõi nước ấy xuất hiện một cách trùng trùng, điệp điệp và không thể nào kể hết được, chỉ có thể dùng biểu số hằng hà sa để biểu thị cho vô lượng các cõi Phật có mặt trong vũ trụ này. Mỗi quốc độ xuất hiện ở trong kinh Hoa nghiêm đều mang một nét đặc trưng riêng về hình dạng, màu sắc, kích thước... Có quốc độ được diễn tả giống hình tròn hoặc vuông, có cõi có ba góc hoặc tám cạnh, có cõi hình châu ma-ni liên hoa, có cõi có hình đám mây lớn, cõi hình đám mây nhỏ... Điều này cũng khá giống với các phát hiện của thiên văn học hiện đại, khi các nhà thiên văn đã quan sát thấy trong vũ trụ có rất nhiều hành tinh. Chỉ trong dải ngân hà của chúng ta ước tính đã có khoảng hơn 100 tỷ hành tinh lớn nhỏ. Các hành tinh này cũng có những hình dạng, kích thước, màu sắc khác nhau. Có hành tinh có hình elip, hình xoắn ốc, hình đám mây, màu lam, màu đỏ, màu vàng, có hành tinh có đường kính hơn 4.000km, 12.000km... Dải ngân hà của chúng ta cũng chỉ là một trong số rất nhiều các thiên hà trong vũ trụ.

Vô lượng quốc độ sai khác nhau

Vô lượng trang nghiêm vô lượng trụ

Hình trạng sai khác khắp mười phương

Các ngài đều nên đồng quan sát.

Hình kia hoặc tròn hoặc vuông vức

Hoặc có ba góc và tám cạnh

Hình châu ma-ni hình liên hoa

Tất cả đều do nghiệp mà khác.

Có cõi thanh tịnh sáng trang nghiêm

Vàng ròng xen lẫn nhiều tốt đẹp

Cửa nẻo mở trống không bít lấp

Ðây do nghiệp rộng ý tinh thuần [4].

Một hình ảnh rất đẹp và vô cùng nổi tiếng của kinh Hoa nghiêm là hình ảnh vũ trụ được ví như một tấm lưới trời của Đế Thích. Mỗi một mắc xích là một thế giới hiển hiện ra vô cùng lấp lánh, trang nghiêm, sinh động. Mỗi quốc độ đều ẩn chứa những đặc tính đa thù của mình. Sở dĩ Hoa nghiêm trình bày về sự sai khác của các thế giới ấy là bởi lẽ theo quan điểm của Hoa nghiêm thì tất cả các cảnh giới đều do tâm thức biến hiện ra. Mà tâm thức của chúng sinh không đồng nhất, đều do nghiệp mà chiêu cảm nên, do vậy các thế giới cũng có sự sai khác, không đồng nhất.

Hoặc có cõi nước khắp pháp giới

Ly cấu, thanh tịnh tùng tâm khởi

Như ảnh, như huyễn rộng vô biên

Như lưới thiên đế đều sai khác[5].

Mặc dù nói Hoa nghiêm trình bày về một vũ trụ đa thù, sai khác nhưng về mặt bản thể thì các thế giới này vẫn có sự đồng nhất, dung thông. Hoa nghiêm có cái nhìn thế giới dưới con mắt của chiều kích viên dung vô ngại, tức là nhìn vào bản chất của thế giới hiện tượng trong cái nhìn của chân hiện lượng. Pháp giới hiện ra một cách như thị, không có sự ngăn ngại, không có sự phân biệt. Cho nên các thế giới đều tương dung, vạn vật đều thâu nhiếp lẫn nhau trong ý nghĩa một là tất cả, tất cả là một.

Hoa nghiêm là tông phái đầu tiên và duy nhất trong hệ thống các tông phái Phật giáo đề xướng chủ thuyết một là tất cả, tất cả là một và nói rằng pháp giới vũ trụ chứa trên đầu một sợi lông:

Trong một chân lông vô lượng cõi

Như số vi trần mà an trụ

Mỗi cõi đều có Đấng Thế Tôn

Ở trong chúng hội tuyên diệu pháp [6].

Điều này phải chăng đã quá lập dị trong nhận thức chung của lịch sử nhân loại? Như chúng ta đã biết, Hoa nghiêm đề cao tánh không của các pháp, do vì tính chất của các pháp là không nên chúng là vô ngã, và vì tính chất vô ngã này cho nên các pháp mới có thể hòa trộn lẫn nhau một cách viên dung, vô ngại trong nhịp điệu duyên sinh của vũ trụ.

Chúng ta có thể lấy một ví dụ điển hình mà chúng ta thường hay bắt gặp trong cuộc sống để chứng minh cho tính chất viên dung hay nht tức nht thiết đó là một bông hoa. Bông hoa đó không thể nào một mình nó có thể tồn tại, phải nhờ vào các yếu tố như đất, nước, gió, lửa, ánh sáng, sự chăm sóc của người trồng... Phải đầy đủ các điều kiện cần và đủ thì bông hoa đó mới có thể hiện hữu. Như thế, chúng ta có thể thấy trong một bông hoa đã có rất nhiều các yếu tố của vũ trụ cùng nhau tham gia vận hành cho sự sinh hữu của nó. Nếu chỉ có một mình nó, bông hoa sẽ trở thành yếu tố đơn độc và không thể nào tồn tại trong thế giới cộng sinh này được.

Nguyên lý hình thành Tịnh độ trong kinh Hoa nghiêm được xác lập trên nền tảng nguyện lực của chư Phật và nghiệp lực của chúng sinh. Chư Phật phát ra nguyện lực thành lập một Phật quốc lý tưởng để tiếp độ chúng sinh, còn chúng sinh chính là đối tượng để chư Phật có thể thành tựu được nguyện lực.

Tất cả cõi nước những trang nghiêm

Do nguyện lực phương tiện sinh ra

Tất cả quốc độ thường chói sáng

Vô lượng nghiệp thanh tịnh hiện thành.

Bồ-tát lâu xa gần trí thức

Ðồng tu nghiệp lành đều thanh tịnh

Từ bi rộng lớn khắp chúng sinh

Dùng dây trang nghiêm các quốc độ.

......

Nguyện lực rộng lớn không gì sánh

Khiến khắp chúng sinh gieo thiện căn

Cúng dường tất cả chư Như Lai

Vô biên quốc độ đều thanh tịnh [7].

Mối liên hệ giữa chư Phật và chúng sinh là mối liên hệ đặc hữu, không thể tách rời. Nếu không có chúng sinh thì không có chư Phật, bởi lẽ chư Phật ba đời đều phải nương vào chúng sinh mà thành tựu. Cũng ví như hai mặt phải, trái của một bàn tay, sở dĩ ta gọi bên này là mặt bên phải là do vì nương vào sự hiện hữu của mặt bên trái, cho nên danh xưng bên phải từ đó mới được thành lập. Cũng vậy, phiền não với bồ-đề không hai, Phật và chúng sinh không khác. Điều này về sau đã được kinh Duy Ma Cật tiếp nối và triển khai thành hệ thống tư tưởng bất nhị pháp môn trong Phật giáo Đại thừa mà đích đến sau cùng của tư tưởng này cũng nhằm mục đích Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh: “Bảo Tích, loại của chúng sinh là quốc độ Phật của Bồ-tát. Vì sao như vậy? Vì Bồ-tát tùy theo loại chúng sinh được giáo hóa mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo loại chúng sinh được điều phục mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo loại quốc độ nào thích hợp để chúng sinh thâm nhập trí của Phật mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo loại quốc độ nào thích hợp để chúng sinh làm trỗi dậy căn tính của Bồ-tát mà tiếp nhận quốc độ Phật”[8].

Về phương pháp tu tập Tịnh độ, Hoa nghiêm cũng đưa ra một tiến trình tu tập khá khắt khe, gian khổ hơn nhiều so với tiến trình tu tập ở các bản kinh Tịnh độ khác. Các bản kinh thuộc truyền thống Tịnh độ khác khuyến khích hành giả nỗ lực trì niệm danh hiệu Phật, để đạt được sự nhất tâm bất loạn, thì sau khi xả bỏ báo thân này vị ấy sẽ được vãng sinh về cõi Tịnh độ ấy, thậm chí là có thể mang theo nghiệp mà vãng sinh. Thế nhưng Hoa nghiêm lại khác. Hoa nghiêm đòi hỏi hành giả phải có một sự nỗ lực tu tập nhất định, đơn cử như trường hợp của Thiện Tài đồng tử, phải trải qua một qua trình tu học cực kỳ gian nan, phức tạp.

Ngoài việc thọ trì danh hiệu Phật, Hoa nghiêm còn đòi hỏi hành giả phải phát Bồ-đề tâm, tu tập các thiện pháp, thân cận, học hỏi, cúng dường nơi các bậc thiện tri thức và đặc biệt là nương theo mười đại nguyện vương của B-tát Phổ Hiền để tu tập phước trí, hồi hướng vãng sinh. Có như vậy hành giả mới có được công đức trang ngiêm, thành tựu thắng trí để làm cơ sở cho việc chứng đắc mục tiêu tối hậu về sau.

Bởi vì tư tưởng của Hoa nghiêm là viên dung vô ngại, cho nên một hành giả muốn được vãng sinh về Tịnh độ không thể bỏ sót một pháp môn tu tập nào. Do vậy đồng tử Thiện Tài bắt buộc phải trải qua nơi 53 vị thiện tri thức, là những người đại diện cho mọi tầng lớp trong xã hội, để học hỏi kinh nghiêm tu hành của các vị này, từ đó mới có thể dễ dàng thành tựu thánh hạnh, để rồi sau cùng phát nguyện vãng sinh Tịnh độ.

Kết quả tu chứng, dĩ nhiên, khi Hoa nghiêm đưa ra một lộ trình tu tập khắt khe như vậy thì kết quả đạt được cũng ở cảnh giới của bậc thượng thừa. Người tu hành pháp môn niệm Phật theo kinh Hoa nghiêm là hành trì thật tướng niệm Phật, lấy chúng sinh làm đối tượng đương cơ, dùng B-tát hạnh để trang nghiêm Phật độ. Vì thế, phẩm loại vãng sinh của người tu Tịnh độ theo Hoa nghiêm nhất định phải vào hàng thượng phẩm và cảnh giới chứng đạt là cõi Thật Báo Trang Nghiêm.

Nhìn chung, việc vãng sinh về Tịnh độ theo kinh Hoa nghiêm cũng chỉ là một phần trong tiến trình tu tập hướng tới Phật quả. Mục đích lý tưởng sau cùng của Hoa nghiêm là thành tựu Phật thân, chứng đắc Phật vị và thiết lập Phật quốc.

Nói tóm lại, Hoa nghiêm triển khai các cảnh giới Tịnh độ trên tinh thần tương tức, viên dung, vô ngại. Tịnh độ và uế độ vốn là một thực thể không thể tách rời. Chỉ vì vọng tưởng, vô minh mà hiện sinh ra những cảnh giới tịnh, nhiễm khác nhau. Cũng ví như trên cùng một mảnh đất, nhưng nếu một người với tâm yêu thích cái đẹp, sự sạch sẽ thì họ sẽ dọn dẹp mảnh đất đó thường xuyên và kiến tạo mảnh đất trở thành một cảnh quang sạch đẹp. Còn với một người có tâm gii đãi, biếng nhác thì họ sẽ để mảnh đất đó trở nên hoang vu, bề bộn. Do vậy, hễ chánh báo của chúng sinh thanh tịnh thì y báo tự khắc sẽ trang nghiêm, tâm chúng sinh thanh tịnh thì Tịnh độ tự khắc hiện tiền.

Chú thích:

[1] Ấn Thuận, Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, Thích Nhuận Thịnh (dịch), NXB.Hồng Đức, 2020, tr.171-174.

Có thể tìm hiểu thêm: Thánh Nghiêm - Tịnh Hải, Lịch sử Phật giáo thế giới, NXB.Khoa Học Xã Hội, 2008, tr.155; Mai Thị Thơm, Hoa nghiêm suối nguồn văn hóa Phật giáo thời Trần, NXB.Phương Đông, 2009, tr.168; Thích Đức Nhuận, Khái luận triết lý Kinh Hoa nghiêm, Viện Triết lý Việt Nam và Triết học Thế giới California USA xuất bản, 2000, tr.24.

[2] Thích Trí Tịnh (dịch), Kinh Hoa nghiêm, Quyển 4, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.754.

[3] Sđd., tr.17-18.

[4] Thích Trí Tịnh (dịch), Kinh Hoa nghiêm, quyển 1, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.263.

[5] Sđd., tr.261.

[6] Sđd., tr.264.

[7] Sđd., tr.270-272

[8] Tuệ Sỹ, Huyền thoại Duy Ma Cật, NXB.Hồng Đức, 2017, tr.77-78.

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle