Những vị đại sư xiển dương pháp trì danh niệm Phật

nhung vi dao su

NHỮNG VỊ ĐẠI SƯ XIỂN DƯƠNG PHÁP TRÌ DANH NIỆM PHẬT

 

Trì danh niệm Phật nghĩa là xưng danh và nắm giữ câu Phật hiệu. Đây là pháp tu dễ thực hành nhất của Tịnh Độ tông[1]. Ngày nay phương pháp này đang được thực hành phổ biến tại Việt Nam. Bài viết này xin đề cập một vài nhân vật tiêu biểu đã xiển dương pháp tu này.

1. Đại Sư Đạo Xước (562 - 645)

Tuy không xếp vào hệ thống 13 vị Tổ Tịnh Độ tông nhưng Đại sư Đạo Xước có sự ảnh hưởng đáng kể đối với tín đồ Phật giáo Tịnh độ[2]. Bên cạnh việc được liệt vào một trong ba dòng tư tưởng lớn của Tịnh độ, Đại sư còn là nhân vật quan trọng của thuyết Niệm Phật tha lực trong Tịnh Độ tông Nhật Bản. Mặt khác, ngài cũng là người có liên quan đến chiếc chuỗi hạt, pháp khí được nhiều người sử dụng, đặc biệt là hành giả Tịnh độ.

Tràng chuỗi đã xuất hiện ở Ấn Độ từ rất lâu nhưng nó đơn thuần chỉ là món trang sức anh lạc tôn lên vẻ sang trọng cho các Bà-la-môn và Sát-đế-lợi. Vậy nguyên nhân gì chuỗi hạt trở thành tiểu pháp khí của hành giả Tịnh độ? Sơ khảo qua tác phẩm Long thơ Tịnh độ ta thấy: Đức Phật Thích Ca nhân vì thấy hai người già chăm chỉ niệm Phật đếm số bằng hạt lúa nên đã từ bi chỉ cho họ niệm một câu “Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới, tam thập lục vạn ức, nhất thập nhất vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu, đại từ, đại bi, A Di Đà Phật”[3]. Chi tiết này cho thấy pháp niệm Phật ký số đã có từ thời Phật tại thế.

Người kế thừa và xiển dương pháp ký số niệm Phật này là Đại sư Đạo Xước. Thay vì đếm lúa (hạt nhỏ và dễ lẫn lộn) thì ngài đếm hạt đậu. Mỗi một câu là một hạt đậu, hoặc ba câu, năm câu, mười câu một hạt đậu. Về sau, ngài và môn đồ đẽo gọt gỗ thành hạt để niệm Phật. Và để tiện dụng hơn, ngài đã dựa vào truyền thống tràng chuỗi người xưa để chế tác ra xâu chuỗi niệm Phật. Kể từ đây, hành giả Tịnh độ không phải vất vả đem số đậu lớn bên mình để niệm Phật mà chỉ cần một xâu chuỗi thì dù đi bất cứ nơi đâu, muốn niệm bao nhiêu đều có thể được.

Phương pháp lần chuỗi niệm Phật được nhìn thấy qua một số danh tăng điển hình như Thiền sư Toàn Nhật - Quang Đài (1757 - 1834), người luôn khuyến khích mọi người lần chuỗi niệm Phật: “… Vui lòng một chuỗi giới châu/ Sớm khuya tưởng niệm công phu mà lần”[4]; Thiền sư Giác Đạo Tuân Minh Chánh (triều vua Gia Long, 1762 -1820), tuy chủ trương Tự tánh Di Đà nhưng về hành sự ngài phòng hộ sáu căn, nhiếp phục phiền não bằng niệm Phật qua lần chuỗi[5]; Tổ Tánh Thiên - Nhất Định (1784 - 1847), trong bài tự Châm văn cũng khẳng định rằng muốn nhận ra bộ mặt xưa nay của mình thì phải “Cầm chuỗi hạt một xâu, thề chết mới thôi, vin hàng cây bảy dãy trông thẳng bước lên”[6]; Thiền sư Thanh Phước - Chu Toàn (1836 - 1899) khổ công tu hành, đạt được công phu chánh định bởi mỗi ngày lần hơn mấy chục biến chuỗi[7]; Sư Nguyên Biểu - Nhất Thiết (1836 - 1906) cũng dạy đại chúng nhiếp tâm trong tràng hạt[8].

Như vậy, pháp ký số tràng hạt là một phương thức giúp cho hành giả thoát khỏi vọng tưởng trong lúc trì niệm. Vì lẽ đó, khi kết tập các yếu điểm quan trọng của pháp môn Tịnh độ, vì để khuyến dương, Hòa thượng Liên Tôn không bỏ qua yếu tố này[9]. Về sau, khi xã hội càng đa sự, tâm tưởng con người càng vọng loạn thì việc nhiếp tâm niệm Phật càng không dễ. Xâu chuỗi là pháp khí được nhiều hành giả chú trọng tu niệm, do vậy chúng trở nên quan trọng và thân quen với pháp môn Tịnh độ hiện đại.

Luận về pháp Quán tưởng kết hợp với Trì danh niệm Phật, Đại sư Đạo Xước cũng là người chủ trương. Toàn bộ tác phẩm An lạc tập đã thể hiện rõ tư tưởng của ngài[10]. Phương pháp Quán tưởng làm tăng thuận duyên cho pháp Trì danh nên có nhiều hành giả Việt Nam đã thực tập, vì lẽ đó trong tác phẩm Pháp môn Tịnh độ Hòa thượng Trí Thủ cũng đề cập rõ ràng[11].

2. Đại sư Thiện Đạo (613 - 681)

Người mở ra cơ hội cho tất cả phàm phu đều có thể vãng sinh Cực lạc và chứng thành Phật quả là Đại sư Thiện Đạo. Tuy rằng trước đó, ngài Đàm Loan và Đạo Xước đã từng khẳng định điều này nhưng chính ngài Thiện Đạo đề cao những hạng phàm phu căn cơ thấp kém đều có thể nhập vào Báo độ Cực lạc. Ngài đã dùng hình ảnh hoàng hậu Vi Đề Hi (Vidhehi) trong tác phẩm Quán kinh tứ thiếp sớ để khẳng định phàm phu đều do nguyện lực của Phật mà được vãng sinh[12]. Đương thời, Đại sư đả phá tất cả mọi góc nhìn của Thiền đối với Tịnh độ để nêu ra một nguyên lý Tịnh độ thuần chánh và cho rằng phàm phu là đối tượng quan trọng nhất của pháp môn Tịnh độ.

Trong Niệm Phật cảnh, Đại sư khẳng định rằng chỉ cần hành giả lấy Tín - Nguyện làm căn bản cho sự nghiệp tu hành, ứng dụng Ngũ niệm môn[13] của ngài Thế Thân thì sẽ được vãng sinh[14]. Thuyết chấp trì danh hiệu mà Đại sư đưa ra rất đơn giản, đó là chỉ cần chuyên cần trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nguyện sinh Tịnh độ của Ngài. Một lòng chuyên hướng về và chuyên niệm Phật A Di Đà chính là đạo lý nhất tâm bất loạn. Vì lẽ đó, Hòa thượng Minh Thông (Huệ Nghiêm) cảm thấy rất nhẹ nhàng khi được tiếp cận tư tưởng của Đại sư. Hòa thượng nói: “Khi mà chúng tôi gặp được tư tưởng của Hòa thượng Thiện Đạo rồi thì chúng tôi thấy chắc chắn nắm phần niệm Phật vãng sinh trong tay chứ bây giờ chờ nhất tâm bất loạn, bao nhiêu việc mà theo trong kinh thật sự làm không nổi trong đời này”[15].

Trong Quán kinh tứ thiếp sớ, ngài Thiện đạo khẳng định rằng: “Ba tâm là tâm chí thành, tâm sâu thiết, tâm hồi hướng phát nguyện. Đầy đủ ba tâm này ắt sẽ được vãng sinh”[16]. Tâm chí thành là tâm chân thật; tâm sâu thiết là lòng tin sâu, kiên cố; tâm hồi hướng phát nguyện là dâng công đức tu tập một lòng hồi hướng nguyện sinh về Cực lạc.

Ngoài việc chuyên nhất thực tập Ngũ niệm môn, hành giả cần thọ trì thêm ba phước để làm thành quả cho phẩm vị, đó là: (1) Thiện căn thế tục (hiếu dưỡng cha mẹ, kính phụng sư trưởng, từ tâm không giết hại, tu mười thiện nghiệp); (2) thực hành giới phước (quy y Tam bảo, thọ trì giới cấm, không lỗi oai nghi); (3) phát Bồ-đề tâm và khuyến người hành Bồ-tát đạo[17].  Chín phẩm vãng sanh tùy thuộc vào mỗi duyên sai khác của từng chúng sinh (căn cơ thượng, trung, hạ)[18]. Như vậy, tư tưởng Tịnh độ của ngài Thiện Đạo hoàn toàn nương vào bản nguyện của Phật A Di Đà, không chú trọng đến công phu nội lực. Pháp môn Tịnh độ vốn dĩ đã dễ nay lại càng dễ hơn.

Học thuyết của Đại sư đã làm sống dậy tâm ý cầu học của nhiều người, do đó Đại sư đã sớm trở thành bậc long tượng của Phật giáo Trung Quốc. Đặc biệt hơn, Đại sư là nhân vật rất quan trọng đối với Tịnh Độ tông Nhật Bản. Trường phái Niệm Phật tha lực (chủ trương dùng tư tưởng ngài Thiện Đạo, tên gọi khác: Bản nguyện niệm Phật, Bản nguyện xưng danh) cho rằng ngài Thiện Đạo mới đích thực là cao Tổ của Tịnh độ, bởi ngài là chánh tông truyền thừa từ tông Tịnh độ[19].

           Phật giáo Việt Nam biết đến Đại sư Thiện Đạo từ rất lâu. Những năm gần đây, do xuất hiện quá nhiều kiến giải về pháp môn Tịnh độ (từ thời chư Tổ đến giờ) khiến đại đa số hành giả hoang mang, cảm thấy việc vãng sinh Tịnh Độ khó kham nổi (đòi hỏi công phu) nên đã quay về tu tập theo ngài qua trường phái Bản nguyện niệm Phật[20]. Phong trào hộ niệm đang diễn ra sôi nổi hiện nay căn bản là kế thừa di huấn của ngài Thiện Đạo, đồng thời lấy Tín - Nguyện làm tiêu chí trợ duyên cho người được vãng sinh.      

3. Đại sư Pháp Chiếu (? - 821)

Nhắc đến Đại sư Pháp Chiếu các hành giả Tịnh độ liền nhớ đến Ngũ hội niệm Phật. Đó là một phương pháp niệm Phật thích ứng với thị hiếu của phàm phu. Nhân khi quán tưởng cõi Cực lạc với các hàng cây báu phát ra các loại âm thanh vi diệu mà ngài phát minh ra phương pháp niệm Phật theo âm điệu. Phương pháp niệm Phật này không gây nhàm chán, đồng thời còn kích thích sự tập trung cao độ của các hành giả, từ đó dễ đi vào niệm Phật tam muội.

Vì để thu hút thính giác của người nghe nên Ngũ hội niệm Phật sử dụng các pháp khí (ít nhất là 4 pháp khí) để tạo ra âm thanh nhịp nhàng như ca hát. Mỗi một pháp hội chia làm năm hội: hội thứ nhất khởi đầu niệm Phật thong thả đều đều; hội thứ hai chuyển dần niệm nhanh hơn so với mức độ trung bình, nhưng vẫn còn thong thả; hội thứ ba là niệm không nhanh không chậm; hội thứ tư bắt đầu niệm nhanh dần; hội thứ năm chuyển sang niệm nhanh gấp (bốn chữ) và càng lúc càng thôi thúc[21].

Thời ấy, phương pháp Niệm Phật ngũ hội khiến nhiều người ưa thích. Với những hạng phàm phu ưa thích tiếng nhạc thì phương pháp niệm Phật này rất thích hợp. Vua quan trong triều cũng vì đó mà quy kính cửa Phật, hưng thịnh thiền môn. Ngày nay, trong các pháp hội niệm Phật, hành giả Trung Quốc vẫn còn ứng dụng, tuy nhiên có những sự cách tân để phù hợp với thời đại (thêm tiếng đàn, sáo, v.v.).   

4. Đại sư Ấn Quang (1861-1940)

Đề cập đến pháp môn Tịnh độ Việt Nam thời hiện đại không thể không liên hệ đến những ảnh hưởng từ Đại sư Ấn Quang. Ngài là một nhà tư tưởng lớn của Tịnh Độ tông. Các nguyên tác đồ sộ của ngài đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên, chủ trương của Đại sư cũng là sự kết tinh từ người đi trước. Đại sư đề cao nhất là vấn đề tu nhân học Phật và nhất hướng chuyên niệm.

Tất cả giáo yếu học Phật tu nhân đều được cô đọng trong Lời khai thị của Ấn Quang Đại sư. Kết hợp đạo lý Nho gia và giáo lý nhà Phật, ngài chủ trương: trọng mối luân thường, hiếu hòa, nhẫn nhục, ứng xử lợi tha, biết hổ thẹn, sám hối, khiêm hạ… “Hãy coi mọi người như Bồ-tát mà ta chỉ là kẻ phàm phu”[22] là phẩm chất căn bản của một đệ tử Phật, lại là chánh nhân của việc vãng sinh.

Đại sư dạy: đừng quan tâm những chướng ngại ở thân, tâm và cảnh, từ sáng đến tối chỉ lo niệm Phật, nếu khởi vọng niệm tức thời liền bỏ. Niệm sao mà tâm phải nghe rõ ràng, phân minh là được. Hoặc nên trợ duyên bằng pháp Thập niệm ký số[23]. Ngài hoàn toàn không đề cập đến công phu chứng đắc, dùng Tín - Nguyện chân thiết, miên mật niệm Phật là đủ. Đó là quan điểm nhất hướng chuyên niệm. Nếu được vậy thì đến lúc mạng chung Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng lai nghênh tiếp đón.

Những phương pháp tu học Đại sư đưa ra không hề cao siêu, nó nằm ngay nơi cuộc sống ứng đối môi trường xã hội hằng ngày. Do vậy, rất nhiều hành giả Việt Nam từ các chùa, niệm Phật đường, các đạo tràng đã dán những lời khai thị súc tích này vào nơi dễ nhìn thấy nhằm nhắc nhở họ ghi nhớ hằng ngày.

Ngoài ra, Đại sư rất quan tâm đến giới luật và tâm cung kính. Cũng giống như ngài Liên Trì, ngoài việc khuyên nhắc mọi người nghiêm trì giới luật thì Đại sư tha thiết kêu gọi trường chay, niệm Phật, thực hành phóng sinh. Ngài khẳng định: bảo vệ sự sống của chúng sinh là bảo vệ chính mình, bởi vì tránh được nạn nước, lửa, đao binh và quả báo đọa lạc[24]. Điểm đặc biệt ở ngài là tâm cung kính. Cả cuộc đời ngài là một biểu pháp của một bậc oai nghi cung kính Tam bảo. Nơi bài Khuyên nên giữ lòng thành kính[25], Đại sư cho rằng đó là yếu tố quan trọng của kẻ chân thật học Phật, là nguồn cội của sự nghiệp tiến đạo.

Hòa thượng Trí Tịnh rất ngưỡng mộ Đại sư Ấn Quang. Qua các lời tâm sự với đại chúng, Hòa thượng thường ca ngợi: “Đại sư Ấn Quang là bậc long tượng trong thế kỷ này… Đúng là bậc thiện tri thức của mọi người, đáng là đấng Đại đạo sư của mọi giới”[26]. Thậm chí Hòa thượng khuyên mọi người nên ghi chép, in ấn và lưu truyền cẩn thận lời khai thị của Đại sư.

Hòa thượng Thiền Tâm cũng vô cùng cảm phục tài năng của Đại sư. Hòa thượng căn cứ vào tư tưởng Tịnh độ của Đại sư qua tác phẩm Ấn Quang Pháp sư văn sao để kết tập thành Lá thư Tịnh độ Tịnh độ tân lương, ước mong người đời xây dựng cách nhìn chân chính về Tịnh độ.

Đại sư Ấn Quang rất coi trọng việc hộ niệm[27]. Toàn bộ quan điểm của ngài về việc này được thể hiện rõ trong Lâm chung tam đại yếu”[28]. Do nhìn được thế cuộc, Đại sư cho rằng hộ niệm là việc tối cực quan trọng trong thời kỳ Tịnh độ ngày nay. Ở điểm này, hành giả Tịnh độ Việt Nam hưởng ứng rất mạnh mẽ.

Xin bàn rộng thêm, hiện nay Pháp sư Tịnh Không (1927) là người đang xiển dương mạnh mẽ pháp tu Tịnh độ. Chủ trương của ngài là phát triển tinh thần của Đại sư Ấn Quang (ngài tu học pháp môn Tịnh độ với cư sĩ Lý Bỉnh Nam, một đệ tử Đại sư Ấn Quang). Về vấn đề tu nhân, Hòa thượng Tịnh Không dùng giáo lý Nho-Phật để khuyên dạy đại chúng. Về vấn đề niệm Phật, ngài kế thừa tư tưởng chư Tổ, nhưng nghiêng nặng về Đại sư Ấn Quang và Ngẫu Ích.

 Tịnh Tông Học Hội được kiến lập khắp nơi trên thế giới. Có một số hành giả Việt Nam đang tham gia hội này. Pháp hội Trung Phong Tam thời hệ niệm[29] cũng là một trào lưu ảnh hưởng từ Pháp sư Tịnh Không. Những chiếc cà-sa nâu, áo tràng nâu tay rộng ở các đạo tràng Tịnh độ là biểu hiện của các hành giả đang tiếp nhận tư tưởng tu học từ Hòa thượng.

 



[1] Bên cạnh pháp Trì danh niệm Phật còn có các phương thức thực hành khác của Tịnh Độ tông như: Quán tượng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật, Thật tướng niệm Phật, Tham cứu niệm Phật.

[2] Để giải thích lý do Đại sư Đạo Xước không được xếp vào chư vị Tổ sư Tịnh độ, học giả Nghiệp Lộ Hoa cho biết: Do nhiều lần bị triệt phá Phật giáo trong sự kiện “Hội Xương pháp nạn”, khiến cho Đại sư Tông Hiểu, Chí Bàn không biết đến tư tưởng và sự lừng danh của ngài Đạo Xước. Vì vậy, ngài bị lãng quên ở địa vị Tổ sư. Người đời sau cũng y theo tiêu chí này khiến cho địa vị của ngài Đạo Xước không được coi trọng. Xem, Bản nguyện niệm Phật, Nhiều tác giả (2015), NXB.Tôn Giáo, TP.HCM, tr.295

[3] Vương Nhựt Hưu (2009), Long thơ Tịnh độ, Thích Hành Trụ (dịch), Thư viện Ebook, tr.62

[4] Thích Thái Hòa (2013), Đi Vào Bản Nguyện Tịnh Độ, NXB. Văn hóa - Văn Nghệ, TP.HCM, tr.80

[5] Sđd., tr.82.

[6] Sđd., tr.83

[7] Sđd., tr.95

[8] Nguyễn Tiến Sơn, “Kinh điển y cứ của pháp tu Tịnh độ và các nhân vật tiêu biểu thực hành pháp tu Tịnh độ”, Nghiên Cứu Tôn Giáo, (Hà Nội), Số 1&2 (160), (2017), tr.28 - 54, tr.48.

[9] Điểm thứ (4), Hòa thượng Liên Tôn cho rằng pháp niệm Phật cần phải có ký số lần chuỗi, ghi nhớ lượt niệm để được chú tâm - chánh niệm. Xem thêm: Thích Đồng Thành, “Hòa thượng Liên Tôn và tư tưởng Tịnh độ nhân gian”,  Xưa và Nay, (Hà Nội), số 497 (7/ 2018), tr.22 - 28, tr.25.

[10] Đại sư Đạo Xước rất đề cao pháp trì danh niệm Phật và tán thán Đại sĩ Vi Đề Hy vì tình thương chúng sinh nên đã thỉnh Đức Thích Ca mở bày pháp môn Tịnh độ. Do vậy ngài cũng lấy Quán kinh làm kim chỉ nam để quán tưởng về thế giới Cực lạc. Xem thêm, An lạc tập, Sa-môn Đạo Xước, Như Hòa (chuyển ngữ), thư viện Ebook, tr. 4,   

[11] Hòa thượng Thích Trí Thủ (2002), Pháp môn Tịnh độ, NXB.Phú Lâu Na, Hoa Kỳ, tr.68-71.

[12] Trong khi các Đại sư đương thời như Tịnh Ảnh Huệ Viễn, Trí Giả, Khuy Cơ cho rằng bà Vi Đề Hy là một hóa thân Bồ-tát đã mở bày pháp tu Tịnh độ thì ngài Thiện Đạo lại cho rằng bà chỉ là phàm phu và được Phật A Di Đà cứu độ. Xem thêm: Bản nguyện niệm Phật, Nhiều tác giả (2015), NXB.Tôn Giáo, TP.HCM, tr.303-307.

[13] Ngũ niệm môn gồm: (1) Lễ bái Phật A Di Đà, (2) Tán thán (xưng danh và nhớ tưởng) Phật A Di Đà, (3) Mong nguyện về Cực lạc, (4) Quán sát trang nghiêm cõi Cực lạc, (5) Hồi hướng chúng sinh cùng mình sinh về Cực lạc và sẽ trở lại Ta-bà để giáo hóa chúng sinh cùng hướng về Phật đạo. Xem, Đàm Loan Đại sư (2017), Vô lượng thọ kinh Ưu-bà-đề-xá - Nguyện sinh kệ chú, Thích Nhất Chân (dịch), NXB.Hồng Đức, TP.HCM, tr.240-50.

[14] Đại sư Thiện Đạo (2005), Niệm Phật cảnh, Thích Minh Thành (dịch), NXB.Tôn Giáo, TP.HCM, tr. 7-9.

[15] HT. Thích Minh Thông, Khai thị niệm Phật [online], Đã phát: 17/04/2009, Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=bXbAp-_6tlw

[16] Hòa Thượng Thiện Đạo (2009), Quán kinh tứ thiếp sớ, Thích Thiền Tâm (dịch kinh văn), Thích Pháp Chánh (dịch sớ văn), Tường Quang Tùng Thư số 9, tr.157.

[17] Pháp Sư Tịnh Tông (2017), Tư tưởng Tịnh độ của Đại sư Thiện Đạo, Liên Mãn dịch, NXB.Hồng Đức, TP.HCM, tr.215.

[18] Nhiều tác giả (2015), Bản nguyện niệm Phật, NXB.Tôn Giáo, TP.HCM, tr.95.

[19] Đại sư Thiện Đạo kế thừa từ bậc thầy thuần nhất Tịnh độ (Đàm Loan, Đạo Xước). Ở điểm này ngài không giống với các hành sĩ Tịnh độ khác, những người tu tập theo tông phái của mình và nương vào cửa Tịnh độ để giải thoát. Cho nên họ dùng cách nhìn của mình để đề ra học thuyết Tịnh độ. Do vậy tư tưởng Tịnh độ sẽ không thuần chánh. Xem thêm: Tư tưởng Tịnh độ của Đại sư Thiện Đạo, Pháp sư Tịnh Tông (2017), Liên Mãn dịch, NXB.Hồng Đức, TP.HCM, tr.34-35.

[20] Chỉ cho các bức vẽ hoặc điêu khắc mô tả Phật A Di Đà, Thánh chúng và cảnh giới Tây phương Cực lạc.

[21] Pháp tạng Phật giáo Việt Nam, Luận sử Tịnh Độ tông, Thư viện Ebook 18/06/2009, tr.108.

[22] Trích từ Lời khai thị của Đại sư Ấn Quang.

[23] Có hai cách hiểu về Thập niệm ký số: Cách thứ nhất dành cho người chuyên niệm: không được dùng chuỗi. Dùng tâm niệm từ một đến mười câu, rồi niệm trở ngược lại mười đến một. Nếu quá số thì không được tính kể. Nếu chưa quen thì chia làm hai hơi: từ câu một đến câu năm, từ câu sáu đến câu mười. Cách thứ hai dành cho người bận rộn. Đây là phương pháp của ngài Từ Vân Sám chủ đời Tống đề xướng. Cách này dùng một hơi bất kể dài hay ngắn là một niệm, niệm đến mười hơi. Thực hành như vậy giúp cho tâm không bị xen tạp. Mỗi ngày càng nhiều thời càng tốt, hoặc tới chín thời. Lâm chung ắt có phần vãng sinh. Xem thêm, Ấn Quang Đại sư gia ngôn lục, Lý Viên Tịnh (kết tập), Như Hòa (dịch), Thư viện Ebook, tr.49. 

[24] Nguyễn Minh Tiến (dịch và soạn giải) (2016), Cẩm nang phóng sinh, NXB.Tôn Giáo, TP.HCM, tr.115

[25] Trích từ Ấn Quang Đại sư gia ngôn lục, Lý Viên Tịnh (kết tập), Như Hòa (dịch), Thư viện Ebook, 105-113.

[26] HT.Thích Trí Tịnh (2014), Hương sen Vạn Đức, NXB.Hồng Đức, TP.HCM, tr.247.

[27] Hộ niệm là phương pháp dùng âm thanh niệm Phật của người còn khỏe mạnh trợ giúp cho người sức yếu hoặc vừa mới lâm chung, giúp họ duyên theo tiếng niệm Phật để được nhiếp tâm. Ứng dụng phương pháp hộ niệm là để hỗ trợ tích cực cho nhau an tâm hơn trên con đường vãng sinh Cực lạc. Xem, Hộ niệm là một pháp tu, Diệu Âm Minh Trị (2017), NXB.Hồng Đức, TP.HCM, tr.2.

[28] Nguyên tên của tác phẩm là “Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung”, trích từ Ấn Quang Đại sư khai thị (Tại Pháp hội Hộ quốc tức tai ở Thượng Hải ), Bửu Quang tự đệ tử Liên Hương (dịch) (2009), Thư viện Ebook, tr.72-78.

[29] Trung Phong là một tên gọi khác của Thiền sư Minh Bổn (đời Nguyên). Ngài là người biên soạn và thực hành pháp Tam thời hệ niệm. Tam thời: nghĩa đen là ngày ba thời, đêm ba thời; nghĩa bóng là ngày đêm không trễ lười. Hệ niệm tức là niệm niệm nối nhau liên tục. Đây là pháp sự cầu vãng sinh cho người âm và tích chứa lợi ích vãng sinh về sau cho người dương. Xem, HT.Tịnh Không (giảng) (2014), Trung Phong Tam thời hệ niệm - Pháp sự toàn tập giảng ký, Như Hòa (dịch), NXB.Hồng Đức, TP.HCM, tr.22-23.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle