Tưởng niệm Thầy Nhất Hạnh: Đọc Đạo Bụt Nguyên Chất
tuong niem
Bài này được
viết để tưởng niệm Thiền sư Nhất Hạnh (1926-2022), một vị Thầy lớn của Phật giáo vừa viên
tịch. Chủ đề chính của bài này sẽ bày tỏ lòng biết ơn Thầy Nhất Hạnh bằng cách
dẫn ra để suy nghĩ về một bài kệ trong sách
Đạo Bụt nguyên chất - kinh
Nghĩa túc,
ấn bản Đạo tràng Mai Thôn 2011, do Thầy dịch và chú giải, và sẽ đối chiếu tương
đương trong tạng Pāli.
Thầy Nhất Hạnh gọi
kinh Nghĩa túc là Đạo Bụt nguyên chất vì bản kinh này là một kinh nhật
tụng cho giới tu sĩ trong những năm đầu Đức Phật hoằng pháp, lúc đó phương pháp dạy thời
kỳ này y hệt thiền Trúc Lâm của Việt Nam, tập trung vào giáo lý Bát-nhã. Tất cả
các bài kệ trong kinh Nghĩa túc đều sâu thẳm, đều chỉ thẳng tâm giải
thoát, không nói gì về phương tiện. Tương đương với kinh Nghĩa túc là
phẩm thứ 4 (Atthaka Vagga - phẩm tám) trong Kinh Tập của tạng Pāli, và
luận thư của Theravāda ghi rằng các đương cơ 16 vị hỏi pháp Đức Phật, ngay sau
khi nghe Đức Phật trả lời liền tức khắc đắc quả A-la-hán.
Tất cả các kinh
trong nhóm kinh Nghĩa túc đều uyên áo, bài kệ nào cũng đầy sức mạnh của chân
lý, chỉ thẳng vào tâm giải thoát. Bài kệ phân tích nơi đây sẽ là bài kệ 20 trong
kinh Chuyển hóa bạo động và sợ hãi (Duy lâu lạc vương kinh) - Nghĩa
túc kinh, kinh thứ 16, Đại tạng tân tu 198. Bài kệ 20 kinh Nghĩa túc
của Hán tạng tương đương với bài kệ 954 trong Kinh Tập của tạng Pāli (tất
cả các liên kết mạng cần thiết đều để ở cuối bài này).
Bài kệ 20 do
Thầy Nhất Hạnh phiên âm, và Việt dịch thành văn xuôi như sau.
“Thượng bất
kiêu hạ bất cụ
Trụ tại bình vô
sở kiến
Chỉ tịnh xứ vô
oán tật
Tuy thừa kiến cố
bất kiêu.
Nhìn xuống không
thấy hãnh diện, nhìn lên không thấy sợ hãi, vị mâu ni an trú nơi tự tính bình
đẳng, không còn bị vướng vào một kiến chấp nào. Bấy giờ tất cả mọi tranh chấp đều
đã được ngưng lại, oán thù và tật đố không còn có mặt, vị ấy tuy đứng trên tuệ
giác mà chẳng thấy mảy may tự hào.”
(hết trích)
Riêng bài kệ 20
vừa dẫn đã mang trọn đủ pháp hành Bát Chánh đạo, với đầy đủ nghĩa của Tâm
kinh Bát-nhã. Tương đương là bài kệ 954 trong phẩm thứ tư trong Kinh Tập của
tạng Pāli. Nơi đây sẽ ghi lại cách dịch sang tiếng Anh của nhiều bậc thầy, và
người viết tuần tự sẽ dịch nghĩa sang tiếng Việt. Lý do phải đối chiếu nhiều bản
Anh dịch là để bảo đảm sẽ không sai chệch một nghĩa nào.
Bản dịch của
Bhikkhu Sujato: “A sage doesn’t speak of themselves as being among superiors,
inferiors, or equals. Peaceful, rid of stinginess, they neither take nor reject.”
(Nghĩa: Một bậc trí tuệ không tự nói về họ như một hữu thể giữa những người cao
quý hơn, những người thấp kém hơn, hay những người đồng đẳng. Lòng bình an, xa
lìa tâm hà tiện bủn xỉn, họ không nắm giữ mà cũng không đẩy ra).
Bản dịch của
Laurence Khantipalo Mills: “A sage speaks not as though/ Mong equal, low or
high/ Serene, devoid of avarice/ Does not accept or reject.” (Nghĩa: Một
bậc trí tuệ không tự nói về mình như là giữa những người đồng đẳng, những
người thấp kém hơn, hay những người cao quý hơn. Tịch lặng, không còn hà
tiện tham lam, [họ] không nhận lấy gì, cũng không xua đẩy ra).
Bản dịch của của
John D. Ireland: “A sage does not speak in terms of being equal, lower or
higher. Calmed and without selfishness he neither grasps nor rejects."
(Nghĩa: Một bậc trí tuệ không hề nói trong cái nhìn [thấy mình] đồng đẳng, thấp
kém hơn hay cao quý hơn. Bình lặng, không còn ích kỷ nữa, người này không nắm
giữ gì mà cũng không xua đẩy ra).
Bản dịch của
Thanissaro Bhikkhu: “The sage doesn't speak of himself as among those who are
higher, equal, or lower. At peace, free of selfishness, he doesn't embrace,
doesn't reject," the Blessed One said.” (Nghĩa: Đức Phật dạy: Bậc trí
tuệ không tự nói về họ như nằm trong những người cao quý hơn, hay đồng đẳng,
hay thấp kém hơn. Tâm bình an, xa lìa ích kỷ, vị này không ôm lấy cũng không xua
đẩy đi”.
Bản dịch của
Bhante Varado: “The sage does not speak of himself as someone equal, inferior
or superior. At peace, unselfish, He neither clings nor relinquishes.”
(Nghĩa: Bậc trí tuệ không tự nói về mình như là đồng đẳng, thấp kém hơn hay cao
quý hơn. Tâm bình an, không ích kỷ, vị này không không dính vào [pháp nào] mà
cũng không xua đẩy [pháp nào]”.
Người không tự
nói về mình như là đồng đẳng, cao quý hay thấp kém với bất kỳ ai, với bất kỳ
giới nào. Bản chữ Hán viết: “Thượng bất kiêu, hạ bất cụ/ Trụ tại bình, vô
sở kiến”. Nghĩa là, không thấy có gì là tôi, không thấy có gì là người,
không chỗ để thấy, để trụ vào (vô sở kiến). Đó là lời Đức Phật nói tóm tắt.
Trong Bát-nhã
Tâm kinh giải thích: thấy 5 uẩn là không là giải thoát. Nói thấy sắc là
không tức là cái được thấy là không, cái được nghe là không, cái được ngửi là
không, cái được nếm là không, cái được cảm thọ là không, cái được tư lường là
không. Đức Phật dạy trong kinh SA 265 (Hán tạng) và kinh SN 22.95
(tạng Pāli) rằng những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện
tại đều là không, y hệt bong bóng nước theo mưa mà sinh ra; tương tự, tưởng y
hệt như quáng nắng sinh khởi khi trời nắng gắt… Toàn thân mình cả 5 uẩn đều thấy
là không, và nhìn người khác cũng thế, do vậy không có cái gì là “tôi” hay
“người” và do vậy, trong thực tướng, không có cái gì để gọi được là cái gì, để
gọi là đồng đẳng, hay cao quý hơn, hay thấp kém hơn. Do vậy, Bát-nhã Tâm kinh nói
rằng khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát-nhã ba-la-mật thì soi thấy năm
uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Thấy 5 uẩn là không tức
là giải thoát. Cũng là thấy Đạo đế, vì khổ không còn chỗ nào trong 5 uẩn để bám
vào.
Như thế, ngay
khi thấy 5 uẩn là không tức là cũng hoàn thành Bát Chánh đạo, vì đã thành
tựu Chánh kiến (thấy vô thường, vô ngã), Chánh tư duy (tâm xả ly, không vướng
vào ba cõi Dục, Sắc hay Vô sắc), Chánh ngữ (không thấy gì để nói về tôi hay
người, tức lời nói lìa ba cõi), Chánh nghiệp (thấy 5 uẩn là không là được tự
tánh giới, tâm không thấy có ta hay người, tức là xa lìa sát sanh, trộm
cắp…), Chánh mạng (thấy các pháp bình đẳng, do vậy không thể làm các nghề hại
người hay hại mình), Chánh tinh tấn (thấy thường trực 5 uẩn là không tức
là Chánh tinh tấn), Chánh niệm (tỉnh thức thấy “trụ tại bình vô sở kiến”, cũng
là hoàn tất Tứ niệm xứ, nghĩa là tỉnh thức với tâm vô niệm mới là Chánh niệm -
kinh SN 22.63: By not clinging one is freed from the Evil One/ Niệm vô
trụ là giải thoát), Chánh định (khi thấy thường trực là không, tức
thời thấy thực tướng là không, thấy thức không chỗ nương bám. Và đó là Chánh
định. Kinh SN 12.59: When consciousness ceases, name and form cease.…
That is how this entire mass of suffering ceases/ Do thức diệt nên danh
sắc diệt… Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt).
Phần sau bài
kệ là: Tịch lặng, không còn hà tiện tham lam, [họ] không nhận lấy gì, cũng không
xua đẩy ra. Đã thấy là vô sở kiến, tức là thấy thức không chỗ nương bám, thấy
các pháp là không, thì tâm tham tự động lìa. Cũng không thấy có gì để nắm giữ
hay đẩy ra, không thủ và không xả, vì không có người thủ và không có người xả.
Kinh AN 9.3: Này Meghiya, với Tỷ-kheo có tưởng vô thưởng, tưởng vô
ngã được tồn tại. Có tưởng vô ngã, thời ngã mạn bị phá hoại, ngay trong hiện
tại đạt được Niết-bàn.
Giải thích theo
thiền Trúc Lâm sẽ là: Thủ và xả còn có nghĩa là khi tương tác với nội xứ và
ngoại xứ (tức là, tương tác với thân thọ tâm pháp) chúng ta lại thủ và xả tức là
tự thấy mình có tự ngã để muốn thế này, để muốn thế kia, muốn tâm mình phải tăng
thịnh hay nắm giữ pháp này hay pháp kia, muốn tâm mình phải xua đẩy thế kia. Thủ
và xả là do tâm phân biệt, không thấy tự tánh các pháp là vô ngã, là không, là
rỗng rang. Muốn thủ hay xả là chưa thấy bình đẳng trong thực tướng vô ngã, vô
thường, tức nơi tự tánh không. Tất cả như thế đều sai. Thấy được thực tướng là
không rồi, thì chỉ cần giữ tâm tịch lặng, vô sở kiến, không thủ, không xả, không
nắm giữ, không xua đẩy.
Kinh SN 1.1,
bản dịch Thầy Thích Minh Châu, trích: “Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta
chìm xuống. Này Hiền giả, khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền
giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu.”
Bước tới, bước
lui là còn thấy có cái ta để muốn tăng thịnh, muốn xua đẩy. Đứng lại là còn thấy
có danh sắc để đứng lại. Không đứng lại, không bước tới, không bước lui, là
không thấy có cái 5 uẩn nào của ta đang dấy động.
Một nghĩa
khác: bước tới là mơ mộng về tương lai, bước lui là nuối tiếc quá khứ, đứng lại
là chấp vào vị ngọt của cái hiện tiền. Khi thấy các pháp là không, thấy 5 uẩn là
không, thì sẽ tự động lìa cả 3 thời (quá-hiện-vị lai), tức là giải thoát.
Nhìn chung, kinh
Nghĩa túc bài kệ nào cũng là giải thoát. Và đó là tận cội nguồn của Phật
giáo sơ thời, với lời dạy của Thế Tôn trong thời kỳ chỉ dạy nhìn vào thực
tướng vô ngã của các pháp để giải thoát, mà không cần mài giũa gì.
Kinh Kim cang và kinh
Pháp bảo đàn viết rằng giữ tâm vô sở trụ là giải thoát. Kinh SA 926
(A-hàm) và kinh AN 11.9 (Tăng chi bộ) cũng viết như thế.
Đức Phật gọi vô
sở trụ là Thiền pháp của tuấn mã. Kinh AN 11.9, bản dịch của Thầy Minh
Châu viết, trích: "...Này Sandha, con người hiền thiện, thuần thục, khi đi
đến khu rừng, khi đi đến gốc cây, khi đi đến ngôi nhà trống, trú với tâm
không bị dục tham ám ảnh, không bị dục tham chinh phục, như thật quán tri
sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên. Vị ấy an trú với tâm không bị sân ám ảnh…
Vị ấy an trú với tâm không bị si ám ảnh… Vị ấy an trú với tâm không bị hôn trầm
thụy miên ám ảnh… Vị ấy an trú với tâm không bị trạo hối ám ảnh… Vị ấy an
trú với tâm không bị nghi hoặc ám ảnh, không bị nghi hoặc chinh phục, như
thật rõ biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên. Vị ấy Thiền tư không y
chỉ vào đất, Thiền tư không y chỉ vào nước, Thiền tư không y chỉ vào lửa, Thiền
tư không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không vô biên xứ, Thiền
tư không y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền
tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thiền tư không y chỉ vào thế
giới này, Thiền tư không y chỉ vào thế giới sau, phàm điều gì được thấy, được
nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy
tư, Thiền tư không y chỉ vào cái ấy. Tuy vậy, vị ấy vẫn có Thiền tư. Lại nữa,
này Sandha, với vị ấy Thiền tư như vậy, chư Thiên với Thiên chủ, các Phạm
thiên với chúng Phạm thiên, dầu từ xa, đảnh lễ con người hiền thiện thuần thục."
Toàn bộ các lời
dạy trong kinh trên được Thầy Nhất Hạnh dịch trong Đạo Bụt nguyên chất
là: Trụ tại bình vô sở kiến.
Và Thầy Nhất
Hạnh ghi rõ nghĩa: “…Vị mâu ni an trú nơi tự tính bình đẳng, không còn bị
vướng vào một kiến chấp nào.”
Nơi đây, người
viết xin ghi lời thành kính cảm ơn Thầy Nhất Hạnh đã dịch một bản kinh rất mực
quý giá, ghi lại được văn phong của Thế Tôn: Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh
thành Phật.
Nơi đây, người
viết cũng xin ghi lại một bài thơ làm năm 2015 để cúng dường Thầy Nhất Hạnh, lúc
đó khi biết Thầy lâm bệnh nặng. Bài thơ song ngữ như sau:
Đôi dòng
Viết đôi dòng thư pháp
Ca ngợi Đức Thế Tôn
Mực loang như nước mắt
Ngấm ơn sâu vào hồn.
Viết đôi dòng
thư pháp
Cúng dường Thầy Làng Mai
Ngẩng đầu nghe tiếng hạc
Lưng trời gọi tên ai.
Từ đôi dòng
thư pháp
Nét mực hóa rừng hoa
Ướp lời thơ thơm ngát
Khắp trời hát đạo ca.
The Two Lines
Praising the Buddha
with two calligraphic lines
I saw the ink flow like
thankful tears warming my heart
Making
offerings to Thay Lang Mai
with two calligraphic lines
I raised my head, hearing on high
a crane creak a mystic name.
Flowing from
the two calligraphic lines
the ink became a floral sea
added fragrance on words of poetry
and echoed far on high a dharma melody.
(By Nguyen Giac, 2015).
Hậu học cẩn bút, thành
kính tưởng niệm.
GHI CHÚ:
- Bản dịch Thầy Nhất
Hạnh: https://thuvienhoasen.org/p16a9949/giang-kinh-chuyen-hoa-bao-dong-va-so-hai
- Bản dịch
Sujato: https://suttacentral.net/snp4.15/en/sujato
- Bản dịch
Mills: https://suttacentral.net/snp4.15/en/mills
- Bản dịch
Ireland: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.15.irel.html
- Bản dịch
Thanissaro: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.15.than.html
- Bản dịch
Varado: http://suttas.net/english/suttas/khuddaka-nikaya/sutta-nipata/atthakavagga%20-%20php%20version%201.4/15-violence.php
- Kinh SN 1.1: https://suttacentral.net/sn1.1/vi/minh_chau
- Kinh AN 11.9: https://suttacentral.net/an11.9/vi/minh_chau