Vai trò ngôi chùa trong việc giáo dục thanh thiếu niên
vai tro
Thích Hạnh Chơn
Không biết từ khi nào ngôi chùa bị quan niệm là nơi “gõ mõ tụng kinh” dành cho
những người xa lánh trần tục. Quan niệm ấy vô hình trung đẩy ngôi chùa (mà cụ
thể là đạo Phật) tách rời xã hội và bị xem như là nơi để con người tìm đến những
khi sa cơ lỡ vận. Ngôi chùa hay Phật giáo dĩ nhiên là luôn đón nhận những thành
phần vừa nêu để giúp đỡ họ nhưng chùa còn có chức năng cao hơn, thiêng liêng và
ý nghĩa hơn. Đó là chức năng giáo dục đạo đức và hướng dẫn tu tập tâm linh. Lịch
sử Phật giáo cho thấy tinh xá (tên gọi thời Đức Phật) hay chùa (tên gọi phổ biến
ở Việt Nam) có vai trò rất quan trọng trong đời sống tu học và sinh hoạt của
Tăng Ni và hàng Phật tử tại gia. Bài viết này tìm hiểu chức năng giáo dục của
ngôi chùa thời Phật tại thế và ở Việt Nam vào thời Phật giáo hưng thịnh, và thảo
luận vai trò ngôi chùa trong việc giáo dục thanh thiếu niên ở Việt Nam hiện nay.
Ngôi chùa là nơi giáo dục khi Phật còn tại thế
Tinh xá hay chùa được hàng Phật tử tại gia kiến thiết cúng dường cho Đức Phật và
chư Tăng vào những năm đầu sau khi Thế Tôn thành đạo. Sử liệu ghi rằng trong
chuyến viếng thăm và hoằng pháp đầu tiên của Đức Phật và Tăng đoàn ở xứ
Ma-kiệt-đà (Magadha), vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) đã diện kiến Đức Phật và nghe
Thế Tôn thuyết pháp. Sau thời Pháp, đức vua được nói là chứng sơ quả và sau đó
xin quy y với Phật, Pháp, Tăng. Để tỏ lòng biết ơn, vua đã cúng dường vườn Trúc
Lâm cho Đức Phật và Tăng đoàn làm nơi cư trú tu tập. Đây là tinh xá đầu tiên và
là nơi Đức Thế Tôn an cư tổng cộng 6 mùa mưa.
Tinh xá thứ hai và cũng là tinh xá nổi tiếng nhất được biết đến là tinh xá Kỳ
Viên (Jevatana) do cư sĩ Cấp Cô Độc (Anathapindika) hiến cúng. Để có được mảnh
đất xây tinh xá này, trưởng giả Cấp Cô Độc phải dùng vàng miếng để lót hết diện
tích đất trong khu vườn của hoàng tử Kỳ Đà (Jeta). Đây là trung tâm tu học lớn
nhất của Phật giáo thời bấy giờ và là nơi Đức Thế Tôn an cư nhiều nhất – tất cả
19 mùa mưa.
Ngoài ra, chúng ta cũng biết đến các nơi cư trú tu học khác như tu viện của bác
sĩ Jivaka, vườn xoài của Ambapali…
Chức năng của các tinh xá lúc bấy giờ là nơi cư trú và cũng là nơi tu học của
Tăng Ni và tín đồ tại gia. Vào thời Phật, có nhiều du sĩ thuộc nhiều giáo phái
khác nhau thực hành hạnh sống nay đây mai đó. Tăng đoàn của Phật ban đầu cũng
theo hạnh này nhưng về sau khi các tinh xá/tu viện được thành lập họ thường tập
trung ở chung để tu học, đặc biệt là vào mùa an cư. Do đó, tinh xá trước hết có
chức năng làm nơi cư trú, sinh hoạt an ổn cho Tăng chúng. Sống trong một cộng
đồng gồm nhiều thành phần lớn nhỏ và trình độ tu tập khác nhau, việc giáo dục là
vấn đề cốt lõi không thể thiếu được nhất là Tăng đoàn Phật giáo. Rất nhiều bài
kinh ghi lại sinh hoạt giáo dục của Đức Phật và Tăng đoàn diễn ra nơi các tinh
xá. Tất nhiên, giáo dục đạo đức và tu học tâm linh nơi các tinh xá không chỉ
dành riêng cho hàng xuất gia mà còn bao gồm cả hàng tại gia thuộc nhiều thành
phần và tuổi tác khác nhau. Chúng ta dễ dàng tìm thấy nhiều bài kinh đề cập
thính chúng tham dự nghe Phật thuyết pháp nơi các tinh xá bao gồm cả xuất gia và
tại gia. Tín đồ tại gia đến các tinh xá thính pháp ắt hẳn cũng có con cháu của
họ đi theo. Đại thí chủ Visakha khi còn rất trẻ đã được ông ngoại dẫn đi chùa là
một ví dụ.
Đức Phật cũng dành thời gian nhất định để giáo hóa các cháu nhỏ.
Như vậy, Phật giáo và giáo dục thanh thiếu niên mà ngày nay gọi là giáo dục
trung tiểu học đã có từ thời Đức Phật còn tại thế.
Vai trò giáo dục của ngôi chùa ở Việt Nam thời Phật giáo hưng thịnh
Đọc các tài liệu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, một điều phải công nhận là vai
trò giáo dục của các ngôi chùa ở Việt Nam phần lớn nhắm vào giáo dục đạo đức tâm
linh hơn là kiến thức xã hội. Cho đến ngày nay có thể nói Phật giáo Việt Nam
thời Lý – Trần là hưng thịnh nhất. Vào thời ấy, mặc dù Phật giáo được xem là
quốc giáo nhưng nền giáo dục Phật giáo phần lớn chú trọng vào đạo đức Phật giáo
và tín ngưỡng tâm linh. Các kiến thức xã hội ít được giảng dạy cho tín đồ ngoại
trừ số ít tu sĩ thông Nho giáo thực hiện. Do đó, các ngôi chùa nơi được xem là
trung tâm văn hóa giáo dục cũng chỉ giảng dạy đạo đức làm người, sinh hoạt văn
hóa cộng đồng và cao hơn là truyền bá tinh thần từ bi hỉ xả, thoát tục giữa đời
thường. Ngoại trừ một số ít thiền sư bao gồm xuất gia và tại gia có thể đạt
trình độ tâm linh cao, phần lớn tín đồ Phật tử vẫn thực hành Phật giáo theo tín
ngưỡng cúng bái. Vì Phật giáo không đảm trách nổi vai trò giáo dục chính trị xã
hội nên nền Nho học đã được đưa vào để thế vị trí. Từ thời Lý, Văn Miếu Quốc Tử
Giám đã được xây dựng để làm nơi giảng dạy và thi cử theo nền Nho học. Càng về
sau nền Nho học càng khẳng định vị trí của nó trong đời sống chính trị xã hội
Việt Nam. Tuy nhiên, tinh thần Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng mạnh trong giới lãnh
đạo thời Lý – Trần nên các chính sách xã hội vẫn phản ảnh đạo lý Phật giáo. Với
giới bình dân, các ngôi chùa vẫn tiếp tục đóng góp giáo dục đạo đức và hướng dẫn
đời sống văn hóa tâm linh. Nhìn chung, các ngôi chùa ở Việt Nam ngay trong lúc
hưng thịnh cũng chỉ đáp ứng phần đời sống đạo đức và tín ngưỡng tâm linh. Từ đó
có thể suy luận giáo dục thiếu niên tại các ngôi chùa chưa được chú trọng và
quan tâm đúng mức. Phải chăng đây là bản chất của giáo dục Phật giáo Việt Nam?
Các ngôi chùa có nên bổ sung kiến thức xã hội để thích nghi và đáp ứng nhu cầu
giới trẻ chăng? Đây là vấn đề thời sự của Phật giáo Việt Nam đương đại.
Vai trò ngôi chùa trong việc giáo dục thanh thiếu niên thời đương đại
Vai trò giáo dục thanh thiếu niên của các ngôi chùa ở Việt Nam bị lãng quên
trong suốt thời gian dài. Sau khoảng 4 thế kỷ Phật giáo có sự ảnh hưởng sâu sắc
giới lãnh đạo và quần chúng thời Lý – Trần, Phật giáo đã dần dần chỉ còn ảnh
hưởng mạnh đối với quần chúng và phần lớn là về mặt tín ngưỡng. Cùng lúc ấy, nền
Nho học trở nên vững mạnh và chiếm vị trí độc tôn chi phối sâu sắc đời sống
chính trị xã hội ít nhất tới thế kỷ XIX. Cho nên, giới thanh thiếu niên theo học
Nho giáo để có cơ hội thăng tiến là điều dễ hiểu. Trước xu thế ấy, Phật giáo
chưa có bước đột phá nào ngoài việc tiếp tục phục vụ sinh hoạt tâm linh cho
những người có nhu cầu tìm đến các chùa chiền. Như vậy, việc giáo dục thanh
thiếu niên tại các ngôi chùa từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX còn bị bỏ ngỏ.
Sang thế kỷ XX với phong trào chấn hưng Phật giáo, vấn đề giáo dục thanh thiếu
niên được quan tâm và đã đạt được kết quả khả quan. Trong xu thế Tây học ảnh
hưởng xã hội Việt Nam, nền giáo dục nước nhà bắt buộc phải thay đổi để tồn tại.
Khi ấy, Nho giáo tỏ ra yếu kém nên không thể đảm trách vai trò giáo dục như
trước được. Phật giáo từ chỗ phục vụ tín ngưỡng tâm linh buộc phải gách vác phần
nào trách nhiệm mà Nho giáo bỏ lại. Ý thức được tầm quan trọng và vai trò của
giáo dục xã hội, một số bậc Tôn đức đã có bước đột phá vượt qua những thành kiến
và khó khăn để tiếp cận nền Tây học. Được sự cộng tác của một số cư sĩ cấp tiến
có trình độ Tây học, các bậc Tôn đức đã tiến hành xây dựng hệ thống giáo dục cho
thanh thiếu niên qua việc mở các trường Bồ-đề và các cơ sở nuôi dạy trẻ. Tuy số
lượng trường Bồ-đề Phật giáo còn khá khiêm tốn so với tiềm năng và so với tôn
giáo bạn nhưng nó cũng cho thấy nỗ lực lớn của các bậc Tôn đức và cư sĩ Phật tử.
Nhiều trường học được xây dựng bên cạnh các ngôi chùa để giảng dạy vừa kiến thức
xã hội vừa giáo lý Phật giáo.
Theo tài liệu thống kê Phật giáo miền Nam, năm 1970 có 65 trường trung học
Bồ-đề, 62 trường tiểu học Bồ-đề, 11 trường mẫu giáo với tổng số học sinh là
58.466.
Thành tựu này mang một ý nghĩa rất to lớn đối với giáo dục Phật giáo Việt Nam.
Nó cho thấy Phật giáo không thể chỉ giáo dục đạo đức, tín ngưỡng tâm linh khép
kín mà còn phải tham gia đóng góp vào giáo dục xã hội. Kết quả trên biểu hiện
một sự thích ứng tích cực nhằm đưa giáo lý của Đức Phật được ứng dụng rộng rãi
trong xã hội.
Những năm gần đây, Phật giáo đã có những quan tâm nhất định đối với giới trẻ.
Sau khi đất nước thống nhất, do tình hình chung ở Việt Nam, Phật giáo cũng như
các tôn giáo khác đều không thể tham gia vào giáo dục xã hội chính thống, trong
khi hệ thống giáo dục Phật giáo trước đó đều dừng hoạt động. Cho đến những năm
gần đây, một số rất ít chùa có mở cơ sở từ thiện nuôi dạy trẻ mồ côi và mở các
lớp mầm non dưới hình thức tư thục. Tuy nhiên, phần lớn giáo viên tham gia dạy
là người cư sĩ. Số lượng chư Ni dạy các lớp mầm non khá khiêm tốn vì bị hai cản
lực là hình thức tu sĩ và chuyên môn. Ngoài ra, một số chùa đã tổ chức hoặc kết
hợp tổ chức các khóa tu cho các thanh thiếu niên. Hoạt động ấy có kết quả nhất
định vì giới trẻ tham dự có cách nhìn đúng đắn và tích cực về đạo Phật. Đó là
một đạo Phật thực tế, giúp con người đang sống giải quyết khổ đau chứ không phải
chỉ dành cho người chết như nhiều người quan niệm. Dẫu con số ấy không nhiều
nhưng đó cũng là những dấu hiệu đáng mừng.
Lời kết
Bản chất của giáo dục Phật giáo là sống đạo đức (giới), sống có ý thức (định) và
nhằm đạt trí tuệ (tuệ). Đối tượng giáo dục của Phật giáo là con người được phân
thành hai giới là xuất gia và tại gia. Giới xuất gia thì đương nhiên phải nhận
được sự giáo dục trong các chùa viện. Với giới tại gia nói chung và giới trẻ nói
riêng, Đức Phật có rất nhiều bài kinh về đạo đức nhằm giáo hóa họ trở thành
những người đáng được tôn kính trong xã hội và sống an lạc hạnh phúc ngay cuộc
đời này.
Phật giáo Việt Nam kế thừa truyền thống ấy và tiếp thu thêm những điều mới để
thích nghi với xã hội trong từng thời kỳ. Phật giáo ngày nay không chỉ giáo dục
đạo đức và hướng dẫn tâm linh cho tín đồ mà còn tham gia vào các hoạt động giáo
dục xã hội khác như nuôi người già neo đơn, trẻ mồ côi, mở lớp mầm non…. Do đó,
cho rằng chùa chỉ là nơi gõ mõ tụng kinh là một ngộ nhận hoặc là một quan niệm
xưa cũ lỗi thời.
Vài trò ngôi chùa trong việc giáo dục thanh thiếu niên rất quan trọng và cấp
thiết. Ví như những người nếu hiểu biết cách bảo vệ sức khỏe thì sẽ hạn chế khổ
đau do bịnh tật, giới trẻ nếu được hướng dẫn cách sống và cách giải quyết những
khó khăn trong cuộc sống thì chúng sẽ hạn chế khổ đau khi phải gặp những nghịch
cảnh trong hiện tại và tương lai. Các ngôi chùa tổ chức các khóa tu và thuyết
giải Phật pháp cho giới trẻ là đang thực hiện trọng trách của mình và cũng là
đang góp phần xây dựng xã hội an vui và thịnh đạt. Đó cũng chính là cách hữu
hiệu để duy trì và bảo vệ Phật giáo trường tồn vậy.