Tôi đã ưa thích màu
nắng ở quê nhà từ
những ngày thơ ấu.
Nó không thực sự là
màu gì nhất định. Có
thể gọi màu nắng là
màu trắng ngà.
Không, không hẳn
thế. Bạn không thể
nói cho đúng, rằng
màu nắng là màu gì.
Vì bạn chỉ nhận ra
màu nắng khi nó
chiếu rọi vào một
cái gì, và nó không
còn là cái mà chúng
ta muốn nói nữa.
Tôi đã từng thử
nhìn thẳng vào mặt
trời. Lúc đó, tôi
học xong lớp 9, tức
là lớp đệ tứ, đang
chờ lên lớp đệ tam ở
Chu Văn An. Trong
một buổi chiều chủ
nhật, đạp xe tới xóm
tên bạn ở gần nhà,
nhìn thấy màu nắng
chói trên các bức
tường trên những căn
phố người Hoa gần
chợ Bình Tây, màu
nắng rực rỡ hiện lên
màu vàng của tường,
dưới những mái ngói
đỏ ngả màu cũ kỹ.
Tôi ngây ngất nhìn
màu nắng, và rồi
nhìn thẳng vào mặt
trời – chói kinh
khủng, chẳng thấy
gì. Phải đứng một
chỗ, nhắm mắt cả
mười phút, mới thấy
đường trở lại. Lúc
đó mới biết, tôi chỉ
có thể nhìn được màu
nắng trên mọi thứ
khác. Lúc đó, tôi đã
thấy rằng có một cái
không thấy được,
nhưng nó là cái làm
cho mọi thứ hiện
lên. Thế nhưng, tại
sao lại nói chuyện
này nhỉ? Tôi chỉ
đang muốn kể cho bạn
nghe một chuyện tình
thôi -- nếu gọi
được, thì đó là
chuyện tình, nhưng
nói cho nghiêm túc,
cũng chỉ gần gần là
một chuyện tình.
*
Màu nắng Sài Gòn đó
vẫn còn rực rỡ mãi
trong tôi, nhiều
thập niên sau. Tôi
vẫn nhớ màu nắng như
dường nghiêm trang
hơn trong sân
trường, như dường
ngả nghiêng đùa cợt
trên các lối đi xe
đạp chen nhau khi
tan trường, như
dường loang vữa
tường rêu ở các hẻm
Phố Tàu gần nhà tôi,
và cũng như dường
nhảy múa dịu dàng
trên mái tóc mấy cô
nữ sinh trường Bác
Ái đi xe đạp trên
đường Nguyễn Trãi.
Nhà tôi trong một
khu chung cư gần
Chùa Ông Bổn. Quanh
chung cư đầy những
hẻm phố, và rồi các
hẻm biến thành chợ,
có nơi biến thành
chợ vải, nơi thành
chợ giày, nơi là
những ván cờ tướng
với các cao thủ thi
đấu ăn tiền, nơi là
chỗ tụ họp cùa mấy
anh thợ làm con dấu
và sửa đồng hồ.
Những âm thanh quanh
các phố thị luôn
luôn là khúc nhạc gì
bí hiểm, và thường
là, khi tôi ngẩng
người nghe, hay
nhìn, lại thấy một
mùi dễ chịu của xe
hủ tiếu từ dưới phố
thoảng tới. Hay là
khi đi ngang Tang
Nghi Quán, tiếng kèn
đám ma thê thiết,
tiếng tụng kinh vang
không ngừng, và mùi
nhang khói bay ra
tận hè phố trong
những ngày nơi đây
bận rộn.
Trở lại, nói chuyện
Chùa Ông Bổn, nơi ai
ở Chợ Lớn cũng đều
biết ngôi chùa này ở
phố Hải Thượng Lãn
Ông. Chùa này gọi
đúng là miếu, vì thờ
Ông Bổn, một vị thần
trong tín ngưỡng
người Hoa, được tin
tưởng là rất mực
linh thiêng. Trong
những lễ hội hàng
năm, chùa này tưng
bừng đủ thứ -- không
kể chuyện cúng lễ,
mà tôi chẳng hiểu
gì, chỉ ưa chạy theo
xem múa lân, xem múa
võ, xem rước kiệu…
dần dà, lớn một chút
mới thôi, khi tới
tuổi học thi Tú Tài
1, mới thấy thực ra
mình không ưa lễ hội
tí nào.
Ngẫm ra, lúc nhỏ ham
vui, chỉ là chạy
theo mấy đứa trong
xóm thôi, trong đó
nhiều đứa gốc Hoa,
phảỉ tập luyện gian
nan và rồi trình
diễn trong lễ hội
Chùa Ông Bổn -- bọn
con trai gốc Hoa
phảỉ luyện võ, tập
múa lân, bọn con gái
mặc trang phục thướt
tha để múa, hay xếp
hàng cúng lễ gì đó.
Có những buồi chiều,
tôi đứng ở hành lang
lầu hai chung cư,
nơi bây giờ là đường
Trần Hưng Đạo B,
nhìn xuống dưới phố,
bọn thiếu niên bước
đi tung tăng trên
phố để sang Chùa Ông
Bổn tập luyện, con
trai mặc võ phục, có
đứa cầm côn, có đứa
cầm kiếm… con gái
mặc kiểu áo cổ
truyền như trong
phim Tàu xưa. Có lúc
đi nhanh, có lúc như
chạy vội, màu nắng
lấp lánh trên lưỡi
kiếm của mấy cậu con
trai, trên các tua
kim tuyến trên trang
phục mấy cô con gái.
Lúc đó, tôi thấy
nắng chói thật đẹp
trên các tường vôi
ngả vàng của tường
phố, và thấy lòng
mình như chết trong
màu nắng. Không hiểu
sao lại thấy thế.
*
Kỳ lạ, tôi muốn kể
một chuyện tình,
nhưng sao cứ mãi nói
chuyện nắng, rồi lại
kể chuyện lễ hội với
chuyện chuẩn bị lễ
hội. Nói cho đúng
ra, thời thơ trẻ của
tôi chẳng hề có cái
gì gọi là mối tình.
Kể cả khi làm thơ
cho báo xuân trường
Chu Văn An, cũng
chưa từng nắm tay
một cô nào, chớ đừng
nói gì tới -- thế
mới lạ.
Một lần, tôi có làm
một bài thơ, kể về
những âm vang tiếng
guốc của một cô bé
theo tôi vào giấc
ngủ, những âm vang
này ru tôi ngủ, y
hệt như lời ca dao
mẹ ru con. Bây giờ
không nhớ được bài
thơ này. Mấy tên bạn
trong nhóm làm báo
xuân cho trường gọi
đó là tình chay, vì
chẳng có con nhỏ nào
thật đâu. Mà, ai lại
làm thơ, viết là như
mẹ ru con -- bộ con
nhỏ tưởng tượng của
mày là má của mày
hay sao. Lúc mấy tên
kia giễu như thế,
tôi chợt nhớ mấy đứa
con gái gốc Hoa
trong khu Phố Tàu
tôi đang ở. Thực ra,
mấy tên bạn tôi nói
đúng, vì tôi làm thơ
tình là vì đặc san
nhà trường cần mấy
bài thơ. Lúc đó, tôi
chỉ say mê đọc sách,
và dĩ nhiên, học
thi.
Tôi không nhớ tên
nào giễu tôi như
thế. Chỉ nhớ mấy tên
trong ban biên tập
đang ngồi uống cà
phê ở quán, nơi lối
vào Ký túc xá Minh
Mạng, gần trường Chu
Văn An. Nơi đó, tôi
cũng thích ngồi nhìn
nắng trên mái ngói
nhà thờ đối diện,
giữa một công viên
thơ mộng. Nơi đó,
gió thổi cây lá xao
động, và nắng lung
linh trong lá.
*
Cũng nên kể thêm
chuyện này. Một thời
tôi say mê ngồi
thiền. Hồi đó học
thi căng thẳng lắm.
Tên nào cũng sợ thi
rớt, vì tin chiến sự
hàng ngày lúc nào
cũng sôi động. Lúc
đó, tôi say mê đọc
sách Krishnamurti.
Dĩ nhiên là đọc bản
dịch Việt ngữ. Thấy
khó hiểu kinh khủng,
chỉ lờ mờ thấy rằng
ngôn ngữ
Krishnamurti đầy sức
mạnh như Kinh Phật,
nghe âm vang như
Thiền Tông khi nói
rằng chân lý là mảnh
đất không có lối đi.
Không hiểu cách nào
để tập thiền như
thế, lúc đó cũng
không rõ rằng ông
Krishnamurti có thực
sự dạy thiền hay
không.
Thế rồi gặp một cuốn
sách mỏng dạy Thiền
Chỉ Quán, tôi mua từ
một tiệm sách cũ.
Thời đó, tiệm sách
cũ đầy khắp Sài Gòn,
và dĩ nhiên, cả Chợ
Lớn, nơi tôi ưa
thích lang thang đi
bộ, và có khi lang
thang đi xe đạp
quanh phố phường, để
nghe đủ thứ âm vang
ngôn ngữ và tiếng
xe, tiếng hô phủ ky,
tiếng gõ hủ tiếu,
ngấm vào da thịt
tôi.
Không phảỉ tôi nghe
bằng tai đâu. Tôi
nghe bằng cả da
thịt, nghe bằng mắt,
nghe bằng mũi, nghe
bằng trọn cả gân
xương tóc tai da
thịt. Có những khi
học thi với mấy tên
bạn ở sân Chùa Xá
Lợi xong, là đi xe
đạp về Chợ Lớn, và
cứ mải mê thấy cuộc
đời ngấm lạnh vào da
mình, mà lòng như
say hương đời. Tôi
yêu thích cuộc đời
này biết là bao
nhiêu.
Tôi ngồi quay mặt
vào vách tường để
tập thiền mỗi đêm,
và phê biết là bao
nhiêu. Những lúc
thấy lòng mình lặng
như tờ, hạnh phúc vô
cùng tận. Thế rồi có
một lúc, trong khi
chạy nhảy, bị té vấp
chân, móng chân cái
bên phảỉ văng luôn,
đau kinh khủng. Hễ
đụng tới là đau. Lúc
đó đang học thi, đau
chân thế là phiền
lắm, vì di động hạn
chế. Nhưng tối về,
tôi ngồi trên ghế,
tập thiền. Và khám
phá ra rằng ngồi,
đứng, hay đi cũng
thế, nhiều khi tâm
lặng như tờ. Cái đầu
đỡ căng thẳng, đỡ lo
âu.
Nghĩa là, một tuổi
thơ của tôi ngập
nắng, lòng cực kỳ
hồn nhiên, và các
phố Tàu Sài Gòn –
nơi vẫn quen gọi là
Chợ Lớn – là một
phần đời của tôi,
một mảng da thịt tim
óc của tôi. Đó cũng
là lý do sau này,
khi từ Virginia về
thăm Quận Cam, nhìn
thấy màu nắng trên
các hè phố Bolsa,
màu nắng chói rực rỡ
trên thương xá Phước
Lộc Thọ, nơi có tên
tiếng Mỹ là Asian
Garden Mall, tôi
biết ngay là bằng
mọi giá là phải dọn
về Quận Cam định cư.
Không hoàn toàn vì
sợ tuyết lạnh tiểu
bang Virginia, nhưng
khi tôi nhìn thấy
màu nắng nơi này,
tia nắng hắt trên
những pho tượng
nghiêm và buồn kiểu
Chợ Lớn như thế,
chân tôi đã đứng
khựng lại nhiều phút
sững sờ.
Tôi biết rằng, tôi
yêu màu nắng này.
Tôi thấy ngay lúc
đó, rằng tôi sẵn
sàng ngồi trên ghế
đá ở phố Bolsa, chỉ
để suốt đời ngồi
nhìn nắng thôi. Định
phận của tôi là ở
đây, gần như là một
Chợ Lớn thời niên
thiếu của tôi. Chỉ
thiếu có Chùa Ông
Bổn với những thiếu
niên võ phục và áo
thướt tha phim bộ,
chỉ thiếu có sân
Tinh Võ với những
bích chương dán đầy
hình ảnh về các trận
võ đài, chỉ thiếu
một Tang Nghi Quán
thê thiết tiếng kèn
đám ma… và thiếu
nhiều nữa. Nhưng làm
sao bây giờ, cũng
đâu có cần nhiều:
tôi chỉ muốn nhìn
màu nắng trên phố
Bolsa này.
*
Suýt nữa là tôi quên
kể câu chuyện tình.
Đúng ra, chỉ là mặc
định thôi, vì trong
truyện ngắn, hễ có
nhân vật nam và nhân
vật nữ, thế nào cũng
có chuyện tình xảy
ra. Tôi cũng đoán
chuyện của tôi như
thế.
Đầu tiên là chuyện
ngồi thiền. Nơi đây,
tôi ở một phòng nhỏ,
trên lầu hai, ở một
khu chung cư cho
người cao niên --
định nghĩa cao niên
của Quận Cam ở
trường hợp này là
trên 55 tuổi. Căn
phố này nằm ẩn sau
lối đi ngang nhà
hàng Song Long. Tôi
ưa thích những buổi
sáng ở đây, cả buổi
trưa, buổi chiều,
buổi tối. Ngàỳ và
đêm là một phần cơ
thể tôi.
Nhiều đêm ngồi
thiền, trong căn
phòng tắt đèn tối
mịt. Thỉnh thoảng có
tiếng xe chạy dưới
phố vọng lên, có khi
có hàng xóm nào mở
truyền hình vọng
tiếng nhạc sang. Tôi
không bực dọc với
những âm thanh đó từ
lâu rồi, một thời
tôi xem tiếng động
là những gì quấy rối
mình, và rồi bây giờ
xem âm thanh đó, xem
mọi thứ hiện tới đều
là một phần than thể
mình. Có lẽ, đó là
lý do tôi không bực
dọc với những tiếng
động lạ đó nữa -- kể
cả, đôi khi, vài
người say lướt khướt
đi trên phố la om
xòm, giọng nhừa
nhựa.
Năm ngoái, tức là
năm 2013. Liên tục
nhiều đêm, hễ ngồi
thiền một chặp, tôi
lại thấy trước mắt
hình ảnh một nhóm
thiếu niên đi trong
nắng về hướng Chùa
Ông Bổn, nghĩa là
những hình ảnh nhiều
thập niên trước tái
hiện trước mắt tôi.
Tôi nghĩ, thế là
bệnh rồi. Lúc đó,
tôi mở mắt ra, nhìn
thẳng vào vách
tường. Chặp sau, bức
tường trong phòng
tối có lúc như bật
sáng. Tôi nghĩ, đây
là màu nắng quê nhà.
Nắng hiện rực rỡ
trong tâm tôi. Những
lúc đó, tôi bật đèn
sáng, lấy sách ra
đọc, có khi lấy giấy
mực ra vẽ. Lúc đó,
niệm gì cũng biết là
hỏng, niệm thân thọ
tâm pháp… niệm gì
cũng thâý màu nắng
hiện ra trước mắt.
Đức Phật đã dạy rồi,
khi thấy màu nắng,
chỉ là màu nắng
thôi. Khi nghe tiếng
xe chạy, hay khi
nghe bất kỳ tiếng ai
dưới phố say rượu om
xòm… thì chỉ là
tiếng xe chạy thôi,
và chỉ là tiếng say
rượu om xòm thôi.
Thế nhưng, bây giờ
tôi biết mình bị
vướng. Tôi lấy tạ
ra, tập thể dục
nặng… tới khi mệt
thì nằm ngủ.
*
Mấy hôm sau, tôi tới
xem Lễ Hội Vu Lan ở
chùa Nhật Bản. Chùa
này ở trên đường
Dale, thành phố
Anahiem. Lễ Hội Vu
Lan là nói theo
tiếng Việt, chùa
Nhật gọi là Obon.
Chùa này năm nào
cũng làm Lễ Vu Lan
thật lớn, có đủ thứ
triển lãm cắm hoa,
triển lãm cây
bonsai, triển lãm
kiếm cổ, văn nghệ,
vân vân. Năm nào tôi
cũng tới chùa này
xem lễ hội, và xem
kinh sách trưng bày,
thường bán với giá
rất rẻ.
Một phụ nữ trong
trang phục kimono
bước ra từ chiếc bàn
trưng bày hoa, dưa
tay chào trước mắt
tôi. Tôi không thể
nhớ được rằng đó là
ai, chỉ nói một chữ
“Hi” để chào.
Tôi thấy ngay hình
ảnh như từ thơ cổ
Đường thi, một phụ
nữ tuyệt sắc từ
những chiếc bàn
trưng bày cắm hoa
bước ra chào bằng nụ
cười tươi tắn. Và
trong bộ trang phục
kimono trắng, điểm
hoa đào thêu trên
vải.
“Chào anh Hải.”
Trời ạ, cô Nhật Bản
này nói tiếng Việt,
giọng y hệt dân Sài
Gòn.
Trong khi tôi còn
đứng khựng người, cô
giải thích thêm.
Rằng cô là hàng xóm
của tôi. Không phảỉ
là cùng khu chung cư
đâu, nhưng là ở
trong ngõ hẻm tôi
thường gọi là chợ
vải Soái Kình Lâm vì
gần đối diện nhà
hàng này.
Tôi gật gù, chưa
biết nói gì, nghĩ
được rằng đây là một
cô Tàu hàng xóm. Tôi
đoán, với giọng nói
này, hẳn là cô chào
đời ở Sài Gòn, dĩ
nhiên tiếng Việt
phải giỏi.
Ờ, lâu quá hen, mấy
chục năm rồi, làm
sao cô nhớ mặt tôi
được. Tôi nói một
cách vụng về, hẳn là
mặt tôi nghệt ra,
kiểu mà mấy tên bạn
thời trung học đã
từng giễu cợt rằng
các nàng thơ của tôi
chỉ là “một con nhỏ
tưởng tượng” khi cả
đám ngồi duyệt lại
bài cho báo đặc san.
Không, không hề
tưởng tượng đâu,
Đứng trước mắt tôi,
cô cươì tươi như
hoa, lại có mùi
hương từ bộ áo
kimono cô mặc như áo
mới ngoài tiệm.
Tôi hỏi, vậy là cô
thường đi tập văn
nghệ ở Chùa Ông Bổn,
chắc tôi nhớ mang
máng như thế.
Cô nói, em đọc bài
anh viết hàng ngày,
đọc anh đủ thứ bài
chính trị, văn nghệ,
Phật học…
Tôi ngạc nhiên, tự
nghĩ, sao lại có ai
mê đọc mình như thế.
Tôi đáp, như thế
cũng là cái nghiệp.
Cô hỏi, sao là
nghiệp hả anh.
Tôi đáp, không nên
như thế, vì mê văn,
đọc văn, quyến luyến
văn là sẽ ở mãi cõi
này; chỉ nên đọc cái
gì làm mình không
dính vào chữ nào
nữa.
Cô nói, anh nói khó
hiểu quá.
Tôi hỏi, cô tên gì,
sao lại làm việc ở
Lễ Hội Obon của Nhật
Bản, sao không kiếm
Chùa Ông Bổn sinh
hoạt như thời nhỏ.
Cô nói, anh biết
rồi, thời đó, người
Hoa chạy tan tác, mà
người Việt mấy anh
cũng chạy nữa. Em đi
ghe vượt biên, gió
thổi sang Nhật, lấy
chồng Nhật, bây giờ
sang Mỹ, mà… hai vợ
chồng em trục trặc
rồi.
Tôi ái ngại, không
biết nói gì. Nhìn
quanh, chỉ ngại
chồng cô ta thấy,
rồi ngộ nhận.
Người xưa nói, tình
cũ không rủ cũng
tới. Tôi nghĩ thầm,
tôi đã nhận ra cô
này rồi, cô là một
phần tuổi thơ của
tôi, cô là màu nắng,
là vạt áo gái Tàu
trên đường Đồng
Khánh năm xưa. Cô
không hề là “tình
cũ,” nhưng tôi vẫn
sợ.
Đúng vậy, tôi sợ. Cô
là màu nắng hiện ra
trên vách tường, khi
tôi ngồi thiền mấy
hôm trước.
Tôi hỏi, cô tên gì.
Cô nói, em tên
Michelle Chen.
Tôi nói, vậy là
trùng tên với một ca
sĩ Đàì Loan.
Cô nói, vâng, trùng
tên, mà em cũng
thích nghe cô ta
hát.
Tôi nói, tôi không
hiểu nhạc Đàì Loan,
chỉ ngồi dịch tin
tức mới biết cô đó…
thôi tạm biệt nhen,
cô Michelle Chen.
Rồi tôi bước đi.
Cô nhìn tôi, cười
(trời ạ, tươi như
hoa đấy) và vẫy tay
chào từ biệt.
*
Hôm sau, cô tới gặp
tôi ở tòa soạn. Cô
nói, cô muốn xin mấy
cuốn sách về Thiền
tôi dịch mấy năm
trước. Tôi mời cô
ngồi, trong khi lục
tìm sách để ký tặng.
Hôm nay, cô mặc
trang phục áo đầm
chấm đầu gối, màu
xanh trang nhã.
Tôi nói, sách này
viết để cúng Phật,
nên chủ yếu để tặng,
đừng bận tâm gì, hễ
anh còn là sẽ tặng
tự nhiên.
Tôi bất ngờ nhận ra,
ngôn ngữ của mình
đổi khác, xưng anh
và gọi cô là em.
Thực sự, tôi vẫn
ngại, không dám nhìn
thẳng vào mắt cô ta,
vì nhan sắc này hy
hữu quá.
Tôi tự nhiên vẫn sợ,
không dám hỏi thêm
về gia cảnh của cô.
Có vẻ như, tôi sợ
câu trả lời có thể
làm hỏng câu chuyện.
Cô nói, em đọc anh
trên mạng rồi, nhưng
muốn có cuốn sách có
chữ ký, để cầm đọc.
Tôi nói, hễ lúc nào
xuống phố Bolsa
chơi, cứ tự nhiên
vào thăm anh. Tôi
ngớ người, không
hiểu tại sao mình
lại nói như thế. Có
cái gì rất là ngu
ngốc của tôi đã hiển
lộ.
Cô đưa mắt nhìn ra
cửa phòng, như sợ có
ai nghe, rồi nói, đó
là anh nói đó nhen,
em đang muốn ngồi
đây, ngồi trong văn
phòng này, trong tòa
soạn này, cả đời em.
Tôi giựt mình, im
lặng. Dù cô nói chơi
hay nói thiệt, tôi
cũng chết thê thảm.
Tôi nhìn thấy nụ
cười của cô, và đúng
là như thơ cổ viết,
đó là nụ cười đẹp
như hoa nở. Trời ạ,
chữ nghĩa của tôi
cải lương như thế
đấy, nhưng đúng sự
thật là thế đấy.
Thiệt sự, tôi chỉ
sợ, cô ngồi luôn
trong văn phòng này…
Em mà ngồi bên bàn
làm việc của tôi thế
này, sẽ tới một lúc
tôi vỡ tim mà chết.
Hoặc là, tôi sẽ đứng
lên và ngả vào cô.
May quá, một chặp
sau, cô đứng dậy,
nói thôi em về, để
anh làm việc. Tôi
mừng kể gì.
*
Thứ Bảy kế đó, cô
tới căn chung cư của
tôi. Tôi đoán, hẳn
là cô hỏi dò địa chỉ
từ những người bạn
tôi ưa ngồi ở quán
Song Long. Hôm nay,
cô mặc quần jeans,
áo lạnh mấy lớp.
Cô nói, em muốn trọn
ngày Thứ Bảy ở đây
với anh, nấu cơm cho
anh, đọc thơ, ngồi
nghe anh nói chuyện,
hay bất cứ thứ gì.
Tôi gặp cô, lòng tôi
vui biết mấy. Nhưng
tự nhiên vẫn lo sợ.
Mình sống độc thân
trọn đời rồi, xử thế
cũng vụng về, chỉ có
niềm vui là chữ
nghĩa và Phật pháp.
Không hể biết xử thế
với phụ nữ ra sao.
Huống gì, cô này có
chồng, tình trạng
không rõ ràng vì chữ
cô ta nói “trục
trặc” có thể không
có nghĩa gì cả.
Tôi nghĩ, tôi không
dám nói chuyện nhiều
với cô, vì sợ lòng
tôi sẽ buồn biết mấy
khi cô đứng lên ra
về.
Thêm nữa, trời ạ,
rủi cô đòi ở đây với
tôi, đòi ngủ lại đêm
nay thì sao. Tôi
nghĩ, chỉ có nói lời
chánh pháp mới cứu
được cô này, cứu
được cả tôi nữa.
Chuyện này mà kể ra,
sẽ có đứa bạn nói
mày là nhà văn mà
sao ngu thế, phảỉ
hiểu phụ nữ chứ,
không lẽ họ nói
thẳng ra. Rồi cũng
sẽ có tên nói, cô
này là đặc công bông
hồng đỏ của Bắc
Kinh, chắc là có âm
mưu chiếm Biển Đông
bằng cách chinh phục
Bolsa.
Tôi để rộng cửa, để
không ai ở ngoài suy
nghĩ gì bất minh.
Cô nói rằng cô bệnh
nặng lắm, bị ung
thư… Thường mệt, gặp
anh là giả bộ tỉnh
thôi, chứ mệt lắm.
Tôi nói, bác sĩ nói
làm sao.
Cô nói, kệ bác sĩ,
em tới đây, chỉ muốn
nghe anh nói chuyện,
chuyện gì cũng được.
Em vẫn nhớ hồi mấy
chục năm trước, anh
đứng ở lầu 2 ngó
xuống, trong khi bọn
em đi ngang, em con
nít mười hai, mười
ba tuổi đâu biết gì,
nhưng không hiểu sao
vẫn nhớ hình ảnh anh
đứng. Nhà em bây giờ
ở khu Little Tokyo
trên Los Angeles,
ngày mai em sẽ về,
và nhập viện trên
đó. Nhỏ em của em sẽ
tới chở em sáng mai
lên đó.
Tôi hỏi, vậy rồi đêm
nay em ở đâu.
Cô nói, em ở trong
phòng của anh chớ ở
đâu, vì em muốn nghe
anh nói – vì người
viết về chánh pháp,
tất sẽ nói được lời
của Đức Phật.
Cô cười tinh quái,
như kiểu bắt bí tôi.
Tôi nhìn ra cửa, băn
khoăn rằng có thể
vài người hàng xóm
đi ngang qua, liếc
vào hẳn là ngạc
nhiên.
*
Chiều tới, rồi đêm
tới… Tôi đóng cửa
cho khỏi gió, nhưng
để cửa sổ mở, kéo
màn xuống để người
bên ngoài có thể
nhìn qua khung kính.
Tôi bật mấy ngọn đèn
sáng, để không ai
suy nghĩ gì bất
thiện. Tôi bảo cô
lên giường nằm, và
đắp hai lớp mền cho
cô.
Tôi ngồi dưới sàn
nhà, dựa lưng vào bờ
giường, lấy cuốn
Kinh Pháp Cú, đọc
thật chậm từng chữ,
để cô nghe không sót
chữ nào. Thỉnh
thoảng, tôi ngừng
một chút, rồi giảng
vài chữ khó.
Khi lật từng trang
kinh, tôi nghĩ, ngày
mai, ngày mốt, ngày
kia… có tên nhà báo
nào dám nói tầm bậy
về một phụ nữ tuyệt
sắc đã tới đây, đã
chui lên giường mình
nằm ngủ qua đêm,
mình sẽ vặn cổ tên
nào dám suy nghĩ tầm
bậy.
Nghe được mấy trang
Kinh Pháp Cú, cô
nói, em muốn nắm tay
anh, và tự cô chìa
tay qua lớp mền, nắm
một bàn tay của tôi.
Tôi vẫn ngồi dưới
sản, liếc thấy mắt
cô như buồn ngủ,
trong khi bàn tay cô
nắm tay tôi, dịu
dàng nồng ấm… Tôi
siết nhẹ tay cô, rồi
đọc tiếp, thật chậm,
những trang kinh.
Trong khi lần giở
từng trang, tôi thấy
rực rỡ màu nắng
trên từng trang Kinh
Pháp Cú, và rồi tay
cô buông tay tôi, cô
có vẻ như ngủ gục
rồi. Lúc đó là 1 giờ
sáng Chủ Nhật.
Tôi vẫn đọc tiếp,
thỉnh thoảng nhìn ra
cửa sổ, xem có người
hàng xóm nào tò mò
nào nhìn vào không.
Tôi vẫn đọc, chậm
rãi,, rõ ràng từng
chữ. Tôi tin rằng,
trong giấc ngủ, cô
vẫn nghe được Kinh
này.
Tôi cố gắng đọc từng
dòng chữ, với màu
nắng chói sáng rực
rỡ từ lời của Đức
Phật để lại, cho tới
khi tôi ngủ gục trên
sàn thảm.
Đêm phủ khắp nơi,
trên người cô, đang
nằm trên giường, và
trên cả người tôi,
kiệt sức vì đọc kinh
và đang nằm gục trên
sàn. Đèn nơi cửa sổ
vẫn bật sáng.
Và lòng tôi rực
sáng, một màu nắng
chưa bao giờ tắt.
Phan Tấn Hải
Báo Xuân Việt Báo
2015 |