Vĩnh Hảo
Mỗi sáng sớm
khi sương còn mù mịt
trên sông, chiếc
thuyền con của lão
già đã là đà rẽ nước,
hướng về bờ – lúc
thì bờ đông, lúc thì
bờ tây, nơi những
ngôi nhà tranh và
những chiếc ghe nhỏ
tụ tập. Mái chèo
khua nhè nhẹ như thể
sợ động giấc ngủ của
thế nhân.
Chẳng ai biết chắc
lão có gia đình, nhà
cửa ở đâu hay không.
Nhưng người ta có
thể đoán chiếc
thuyền con ấy chính
là nhà của lão, vì
lão phơi thuốc, xắc
thuốc, nấu thuốc
ngay trên đó. Trên
thuyền không còn ai
khác. Ban đêm,
thuyền của lão neo ở
đâu không ai biết,
nhưng sáng sớm thì
thấy lù lù xuất hiện
trên sông hoặc nơi
bờ cát. Lão già đến
và đi, một mình. Mỗi
ngày xách cái túi
nhỏ rời thuyền, thường
là đi hái thuốc trên
núi, ven rừng, bờ
suối, có khi vào
làng chữa bệnh cho
bá tánh rồi ghé chợ
mua vài thứ lĩnh
kĩnh.
Lão sống trên chiếc
thuyền, trôi giạt
hoặc tấp ở đâu đó
bất định, nhưng khi
cần gặp lão thì cũng
không khó. Người ta
chỉ việc đứng bên
sông, gọi lớn “ông
già ơi, ông già ơi!”
thì trước sau gì
cũng sẽ thấy lão
xuất hiện. Không ai
biết tên lão, có hỏi
lão cũng chỉ cười mà
lặng thinh, nên cứ
gọi lão là “ông già.”
Những bệnh lặt vặt
thời tiết, tai nạn
cấp cứu… thì trong
làng đã có các thầy
thuốc bậc trung, bậc
hạ, không thiếu. Chỉ
các bệnh nan y mà
những lang y của
làng không chữa nổi,
người ta mới rước
lão già ấy vào làng,
hoặc chịu khó đem
bệnh nhân ra bờ sông,
đưa lên thuyền của
lão để được chữa trị.
Mà đã đến tay lão
thì bệnh gì cũng
khỏi. Cho nên, dù
lão chưa bao giờ
xưng là y sĩ, bác sĩ,
cũng chưa có một
bảng hiệu hay giấy
chứng nhận, bằng
hành nghề, giấy giới
thiệu, bảng tuyên
dương… nào cả, thiên
hạ vẫn mặc nhiên gọi
lão một cách tôn
kính là “thần y.”
Sự xưng tụng ấy
không đến tai lão,
hoặc có đến nhưng
lão bỏ ngoài tai.
Tôn hiệu ấy là để
nói với nhau khi
vắng mặt lão, chứ
khi trực tiếp gặp
lão, người ta vẫn cứ
gọi hai chữ thân mật,
gần gũi: “ông già.”
Một hôm có chàng
trai trẻ lặn lội từ
xa, những mấy ngày
đường, đến bên sông,
chờ đợi thuyền của
lão tấp vào bờ, liền
xin được làm học trò
của lão. Lão vẫn còn
ngồi trên thuyền, im
lặng không nói gì,
chỉ tiếp tục lui hui
nơi bếp lò với một
món thuốc nào đó.
Chàng tuổi trẻ quỳ
sụp dưới đất, tỏ vẻ
khẩn khoản, mong
cầu. Một chặp, lão
già mới nói, tay
không ngưng làm
việc:
“Ta chưa hề nhận học
trò.”
“Con từ làng xa tìm
đến thầy, mong thầy
phá lệ nhận con, vì
nếu thầy không
truyền dạy, mai sau
nghề của thầy sẽ
thất truyền.”
Lão già cười nhạt:
“Con tưởng rằng tay
nghề của ta chỉ ở
nơi những rễ cây, lá
thuốc này hay sao?”
Chàng thanh niên hơi
lúng túng, rồi lại
nhanh miệng nói:
“Dạ, dạ.. dĩ nhiên
không phải chỉ nơi
lá thuốc, mà thầy
còn châm cứu, bấm
huyệt, hướng dẫn thể
dục, vận động… con
từng nghe như vậy.”
Lão già im lặng. Một
lúc, lão vừa chế một
loại thuốc vào một
cái lọ nhỏ, vừa hỏi:
“Vì mục đích nào mà
con muốn học thuốc?”
Chàng thanh niên
mừng rỡ, trả lời
ngay:
“Dạ, vì lòng hiếu
với mẹ, muốn học
nghề thuốc để chữa
trị bệnh nan y của
mẹ.”
Lão già ngưng một
lúc lâu, rồi nói,
giọng lạnh nhạt:
“Thế à! Bệnh thế nào
mà gọi là nan y?”
“Thưa, từ ngày cha
của con bệnh nặng,
qua đời, mẹ con
không ngủ được nữa.
Mà chứng bệnh ấy,
cũng là chứng bệnh
mà cha con mắc phải
suốt nhiều năm trước
khi mất. Con nghĩ
nếu con không học
ngành y để chữa bệnh
cho mẹ, e có ngày…”
“Không sao đâu,” lão
già nói. “Con muốn
học gì thì cứ học,
bệnh của mẹ con
không liên quan gì.”
“Thưa, ý của thầy là
thế nào? Dù con có
học y dược cũng
không chữa trị được
cho mẹ hay sao? Thầy
chấp nhận con làm
học trò rồi, phải
không thưa thầy?”
“Không. Ta đã nói ta
không nhận học trò.”
“Vậy… thầy nói bệnh
của mẹ con không
liên quan là ý thế
nào, con không hiểu.
Có phải là chính
thầy cũng không chữa
được?”
Lão già xua tay,
nói:
“Ý ta là mẹ của con
không sao, sẽ còn ở
đời nhiều năm nữa
chờ đợi chính tay
con chữa. Còn việc
con học ngành Y… ta
cho là không thích
hợp. Dù ta có dạy,
con cũng không thể
là một y sĩ giỏi.”
Chàng thanh niên
sửng sốt, trố mắt
nhìn lão già một
lúc; rồi cúi đầu
nhìn đăm đăm dưới
đất, sắc diện thay
đổi từ đỏ ửng sang
tím ngắt… Một hồi
lâu, chàng im lặng
đứng dậy, từ từ quay
đi. Lão già nhìn
theo, lắc đầu.
*
Quyết tâm học ngành
thuốc cho kỳ được để
chữa trị cho mẹ, và
cũng để chứng minh
cho lão “thần y”
thấy rằng lão đã
sai, chàng thanh
niên tìm đến nhiều
vị danh y khác để
cầu học. Với trí
thông minh chỉ trên
trung bình nhưng nhờ
chịu khó, và biết
tranh thủ nhân tâm,
chàng đã lần lượt
chiếm được sự tin
yêu của nhiều vị y
sư với từng chuyên
khoa khác nhau; đến
nỗi hầu như các y sư
đều tận lực dành
thời gian và tâm
huyết để truyền hết
sở học và kinh
nghiệm của họ cho
chàng.
Mười năm sau, chàng
thanh niên trở thành
một danh y chữa bá
bệnh, mở phòng mạch
thật lớn ở thành
phố. Không những
chữa bệnh, danh y
này còn biết cóp
nhặt và pha trộn các
môn thiền vận động,
chú tâm nơi hơi thở
và các động tác của
thân như thái cực
quyền, du-già
(yoga), khí công,
dưỡng sinh, võ
thuật… để lập nên
một môn phái gọi là
Thiền Y, với châm
ngôn “Tự trì, tự
trị.” Lý thuyết
và sự thực hành của
Thiền Y không có gì
mới lạ, vì chỉ là sự
vay mượn rồi chế
biến từ các môn
Thiền, Võ và Y đã có
sẵn từ ngàn xưa;
nhưng hậu ý của
Thiền Y là đánh bạt
đi tất cả những
thiền sư và y sư
khác, bằng chủ
trương mọi người đều
có thể tự hành trì,
tự chữa trị, mà
không cần thiền sư
hay y sư (tự trì, tự
trị). Đã có một số
môn sinh đến học môn
Thiền Y này, với hy
vọng tiến đến trình
độ “vô sư” – nghĩa
là có thể tự độ, tự
trị. Nhưng mánh khoé
của môn chủ Thiền Y
mà đám môn sinh
không thể nào biết
được, đó là kéo họ
ra khỏi vòng ảnh
hưởng của các thiền
sư và y sư khác, qui
tụ về dưới sự dẫn
dắt của mình để họ
được “tự trì tự trị”
mà kỳ thực, suốt cả
đời họ vẫn không thể
tự độ hay tự trị,
vẫn không thể ra
khỏi vòng ảnh hưởng
của Thiền Y.
Ngoài khả năng chữa
bệnh và môn thể dục
tổng hợp Thiền – Y,
môn chủ còn được các
môn sinh ca tụng
lòng hiếu thảo, tôn
kính gọi “sư phụ”
bằng một mỹ danh
khác là “Hiếu Y,”
tức một y sĩ nổi
tiếng vì lòng hiếu,
đã dành hết tâm chí
và thời gian học
ngành Y chỉ vì muốn
chữa trị cho mẹ.
Sau mười năm cặm cụi
học Y, rồi mười năm
nỗ lực tạo danh
tiếng, ảnh hưởng của
Hiếu Y vẫn còn rất
hạn chế, chưa đúng
với ý nguyện. Môn
sinh theo học vẫn
còn lác đác, mà
trong số đó cũng
chẳng ai xuất sắc;
phòng mạch chữa bệnh
treo bảng to lớn, mà
bệnh nhân cũng xấp
xỉ ngang bằng với
các y sĩ chung quanh;
chưa có gì gọi là
nổi trội. Môn sinh
của Hiếu Y còn tìm
cách mời những thiền
sư và y sĩ khác đến
nghe môn chủ thuyết
giáo, diễn đạt về
Thiền Y, mục đích là
mượn sự có mặt của
các thiền sư và y sĩ
kia mà nâng cao uy
tín của Hiếu Y.
Nhưng rồi những lọc
lừa ấy cũng không
qua mặt nổi các
thiền sư và y sĩ
thực thụ. Đâu vẫn
hoàn đó, vì thực
chất kiến giải và
trình độ của Hiếu Y
chỉ là sự vay mượn,
cóp nhặt.
Thực ra, điều mà
Hiếu Y mong mỏi là
danh vọng phải hết
sức lẫy lừng để cho
tiếng đồn có thể lan
đến chiếc thuyền của
lão thần y trên sông.
Nỗi căm giận và lòng
tự ái năm xưa, mỗi
khi nhớ lại, Hiếu Y
vẫn thấy trong lòng
sôi lên sùng sục.
Ngày ấy, phòng mạch
vắng khách, môn sinh
rủ nhau đi dự tiệc
vui chơi ở nhà bằng
hữu, Hiếu Y cảm thấy
nỗi cô đơn trống
vắng như bao trùm cả
cuộc đời. Khi môn
sinh và bệnh nhân
quây quần chung
quanh, Hiếu Y có cảm
giác mình là trung
tâm vũ trụ, được mọi
người ngước nhìn và
lắng nghe với lòng
ngưỡng mộ; nhưng khi
họ rời khỏi, chàng
là con số không,
chẳng là gì cả.
Tại sao, tại sao ta
chẳng là gì, chẳng
thể nào là y sĩ giỏi…
như lời lão thần y
nói năm xưa! Không
thể kềm lòng được
nữa, Hiếu Y lặng lẽ
lên đường, tìm đến
con sông ngày ấy,
nơi cách xa phòng
mạch của chàng đến
mấy trăm dặm.
Lúc ấy là lúc thuận
tiện cho Hiếu Y gặp
lão già, vì thuyền
đang neo bên sông.
Lão già vừa xắc
những rễ lá đã phơi
khô, vừa canh lửa
sắc thuốc trong cái
siêu nhỏ. Hiếu Y xin
được lên thuyền,
ngồi nơi mũi thuyền,
nhìn chăm chăm vào
lão già, nói giọng
ngạo nghễ:
“Ông nói tôi không
thể là y sĩ giỏi.
Bây giờ tôi là danh
y, là hiếu y, khắp
thiên hạ ai cũng
biết.”
Lão già ngưng một
chốc, rồi tiếp tục
làm thuốc. Hồi lâu,
lão nói, giọng rất
đỗi từ bi:
“Đã hai mươi năm qua
rồi, những gì ta dạy
con năm ấy, con vẫn
chưa lãnh hội được
sao, thật đáng
tiếc!”
Hiếu Y đứng bật dậy,
nổi sung nói:
“Ông chưa dạy tôi
điều gì, tôi chưa
học ông cái gì cả!
Tất cả thành tựu của
tôi là do tôi, do
sức và trí của chính
tôi! Tôi đến đây hôm
nay là để nói ông
biết điều ấy, rằng
tôi đã thành công,
đã là một danh y,
không những thế, còn
là một hiếu y!”
Nói rồi, Hiếu Y dợm
quay đi, tính rời
thuyền, thì lão già
cười bật lên một
tràng. Hiếu Y dừng
chân, quay lại chờ
đợi xem lão muốn nói
gì. Lão thần y vừa
cười, vừa nói:
“Nổi tiếng chưa hẳn
là giỏi. Ta đã nói
rồi, con không thể
nào là một lương y,
một y sĩ giỏi.”
Hiếu Y đỏ bừng sắc
mặt, giận căm, nói
không ra lời; nghiến
hai hàm răng, hai
nắm tay xiết lại,
như thể muốn giết
lão thần y cho bõ
ghét. Nhưng rồi Hiếu
Y cũng tự chế, cố
gắng nuốt hận, nhảy
phóc lên bờ, bỏ đi.
Lão già từ thuyền
con nhìn theo, lắc
đầu.
Mười năm sau, Hiếu Y
trở lại bờ sông. Bây
giờ chàng đã là y sĩ
trên năm mươi tuổi,
trong khi lão thần y
đã chín mươi ngoài.
Thất thểu, dè dặt,
bước lên thuyền,
thấy lão già đang
chăm chú vê những
viên thuốc tễ, Hiếu
Y quỳ sụp xuống lòng
thuyền, khóc òa,
khóc thảm thiết. Lão
già ngừng làm việc,
rửa tay, lau tay, im
lặng một lúc, lão
nói, giọng đầy
thương yêu:
“Thoắt cái đã ba
mươi năm qua rồi.
Chuyện gì đã xảy ra
cho con?”
Hiếu Y lại khóc rống
lên, vô cùng thảm
não. Phải một lúc
lâu mới hết nức nở,
Hiếu Y bắt đầu kể lể:
“Năm đó rời khỏi
đây, con trở về
thành phố để tiếp
tục chữa bệnh thì
không may đưa lầm
thuốc làm chết một
người; phòng mạch bị
niêm phong không cho
hoạt động, nhà cửa
phải bán đi để đền
bồi nhân mạng, phần
con phải đi tù 9
năm. Ra khỏi tù,
trắng tay, vợ con đi
đâu mất biệt tìm
không ra. Chỉ còn mẹ
già sống nương nơi
nhà một môn sinh
thân tín. Tất cả
những gì con gầy
dựng nên đều mất
hết, mất tất cả.
Suốt nhiều ngày qua,
con như kẻ khùng
điên, đầu óc mơ hồ,
mang mang, dường như
không còn ý thức hay
suy nghĩ một điều
gì. Nỗi đau khổ,
khốn đốn cùng tột đã
đẩy con đến một
trạng thái thật
trống rỗng, trống
rỗng… Cho đến mấy
hôm trước, sau một
giấc ngủ dài trong
mệt mỏi, con thức
dậy thì chợt nhớ đến
thầy, nhớ đến những
gì thầy dạy con năm
xưa… Thưa thầy, xin
hãy dạy con, cho con
biết con phải làm
sao? Tại sao con
không thể là lương
y, là y sĩ giỏi?”
Lão già im lặng, pha
trà, đưa tay ra dấu
mời Hiếu Y. Gió mơn
man lùa nhẹ trên mặt
sông rộng. Một đàn
cá trồi lên mặt
nước, chép chép
miệng, gợn những
vòng sóng nhỏ gần
nơi chiếc thuyền có
hai lão già ngồi im.
Lá vàng lác đác rụng
xuống bờ sông. Mặt
nước yên tĩnh, in
dấu từng cụm mây
trắng cuồn cuộn giữa
bầu trời xanh ngát.
“Thiền không thể
thất niệm; Y không
thể thất đức,” lão
già nói.
Hiếu Y im lặng, cúi
đầu, chờ đợi nghe
tiếp.
“Con là người dạy
Thiền, phối hợp
Thiền vào Y thuật
thì không thể nào có
sự thất niệm đưa đến
nhầm lẫn, sơ xuất
trong trị liệu,” lão
già nghiêm khắc nói.
“Dạ, con biết, con
biết lỗi,” Hiếu Y
ngoan ngoãn đáp.
“Về chuyện thất đức
trong ngành Y, ta
không nói con có mưu
ý gì trong việc thủ
lợi qua chữa trị. Ta
chỉ muốn nói rằng,
cái đức của y sĩ là
ở lòng thương, ở
niềm xót xa đối với
người khổ bệnh.
Thiếu cái đức này,
không thể nào là
lương y, là y sĩ
giỏi; mà chỉ là một
kẻ biết dùng y thuật.”
Lão già ngưng, châm
thêm nước sôi vào
bình trà nhỏ. Không
gian thật yên tĩnh.
Chỉ nghe gió nhẹ đưa
qua đám lau sậy bên
bờ, tạo nên những
tiếng xào xạc nho
nhỏ, êm dịu. Lão già
tiếp:
“Năm ấy lần đầu gặp
ta, con đã vội vàng
tỏ ý muốn được kế
thừa y nghiệp; ta
hỏi con vì mục đích
gì mà học y, con trả
lời là học để chữa
bệnh cho mẹ,” lão
già thở dài, tiếp
“cả lý tưởng lẫn mục
đích đều đã chệch,
đã sai ngay từ ban
đầu. Lý tưởng và mục
đích của kẻ học Y là
tìm ra phương thuật
hay diệu dược để
chữa trị tất cả bệnh
hoạn của thế gian;
vì lòng thương đối
với kẻ bệnh khổ mà
dấn thân vào con
đường chữa trị, cho
thuốc; không vì sự
nghiệp hay y nghiệp
nào khác, cũng không
vì cá nhân ai mà
nguyện làm y sĩ. Con
vì mẹ mà muốn học y
dược, tốt, chí hiếu!
Nhưng không đủ. Đức
của y sĩ phải bao
trùm cả bá tánh
thiên hạ, không phải
vì cha, mẹ, anh chị
em, thể diện gia tộc,
cũng không phải để
làm rạng rỡ cái tông
môn, tông đường nào
hết. Cũng thế, một
thiền sư, đặt chân
trên đạo lộ giải
thoát là để cứu mình,
cứu người ra khỏi
biển khổ vô tận của
thế gian, không phải
vì sự nghiệp của ông
Phật, ông Tổ nào
khác.”
Hiếu Y nghe đến đó,
giật mình, bừng tỉnh,
sụp lạy lão già ngay
nơi lòng thuyền.
Giọng chàng rưng
rưng xúc động, lòng
như mở ra cả một
khung trời bát ngát
vô biên:
“Thưa thầy, con đã
hiểu, con đã hiểu.”
Lão già đưa tay nâng
Hiếu Y dậy, vỗ về,
khích lệ:
“Con có thể bắt đầu
dấn thân từ hôm nay,
như một lương y, một
y sĩ giỏi. Con sẽ
vượt hơn ta rất xa.
Những gì ta không
làm được, con sẽ làm
được. Ta, một chiếc
thuyền nan trôi giạt
bờ này bờ kia, chỉ
có thể cứu chữa cho
vài người hữu duyên;
nhưng con, khổ bệnh
cùng khắp nhân gian
đang chờ đợi thiện
thủ diệu dược của
con.”
Hiếu Y ôm lấy chân
lão già, không nói
nên lời, lòng tràn
ngập hạnh phúc và
niềm tri ân. Một lúc,
Hiếu Y đứng dậy, dợm
bước, nhưng sực nhớ
ra điều gì, đứng lại,
rụt rè nói:
“Thưa thầy, con còn
một điều che giấu
thầy, xin cho con
được thổ lộ.”
“Không cần. Ta biết
rồi. Mẹ con vẫn chưa
hết bệnh. Con sẽ trị
được cho bà ấy bằng
chính cái tâm ban sơ
của con. Một khi tâm
con đã chuyển, tất
cả mọi diệu thuật sẽ
theo đó mà được vận
dụng một cách thiện
xảo. Ta không còn
điều gì để truyền
dạy cho con. Con đã
có tất cả. Hãy lên
đường.”
Khi Hiếu Y ra đi,
lão già từ chiếc
thuyền con, nhìn
theo, mỉm cười. Lão
lặng lẽ thu xếp mọi
thứ trên thuyền, rồi
ngồi xếp bằng, bắt
đầu đi vào đại định.
Kể từ lúc ấy, cái
tên Hiếu Y không còn
nghe đến trên đời;
nhưng đâu đó trên
khắp các làng mạc,
phố thị, ven biển,
rừng sâu, sông dài
và sa mạc bỏng cháy,
xuất hiện một lương
y tuyệt vời |