(Bouddhisme: une non-violence de l'Intérieur)
		
		
		Jean-Paul Ribes
		
		
		Hoang Phong chuyển ngữ
		 
		 
		
		
		
		 
		
		
		Jean-Paul Ribes
		
		
		Jean-Paul Ribes sinh năm 1939, một nhà văn và nhà báo chuyên về Tây Tạng, 
		và cũng là một người tu tập Phật Giáo đã hơn bốn mươi năm. Ảnh chụp ngày 
		27 tháng 4, năm 2008, trong một cuộc phỏng vấn của một chương trình Phật 
		Giáo trên đài truyền hình quốc gia Pháp)
		 
		
		
		Người ta thường xem phi-bạo-lực là một trong các phẩm tính tự nhiên của 
		Phật Giáo. Điều này quả hết sức đúng. Thế nhưng sự phi-bạo-lực ấy có 
		phải là một trong các mục tiêu hay chỉ là một phương pháp luyện tập chủ 
		yếu của Phật Giáo? Câu hỏi thật tế nhị. 
		 
		
		
		Người ta có thể so sánh tinh thần phi-bạo-lực của Phật Giáo với bản chất 
		thấm ướt tự nhiên của nước trong đại dương, và đấy cũng là cách so sánh 
		thường thấy trong nền văn hóa Á Châu. Thật vậy phi-bạo-lực là bản chất 
		thật hết sức tự nhiên của Phật Giáo! Tuy thế sự so sánh ấy cũng chẳng 
		giúp được gì nhiều nếu muốn tìm hiểu sâu xa hơn về chủ đề này. Nếu muốn 
		hiểu rõ những lý do nào ẩn chứa bên trong Phật Giáo đã khiến tín ngưỡng 
		này chủ trương không chấp nhận bạo lực, thì trước hết phải tìm hiểu 
		chính xác ý nghĩa của chữ
		
		ahimsa trong tiếng Phạn
		
		(chữ ahimsa vừa là tiếng Phạn và tiếng Pa-li). Đây là một thuật 
		ngữ dùng để chỉ định một thái độ hay một nguyên tắc sống không hề được 
		phổ biến rộng rãi ở Ấn Độ vào các thời kỳ tiền Phật Giáo, và ngày nay 
		cũng chỉ được dịch một cách khái quát là "phi-bạo-lực" (Đức 
		Phật nêu lên giới luật phi-bạo-lực trước hết là nhằm chống lại tục lệ 
		giết súc vật để tế lễ của những người Bà -la-môn, rất phổ biến vào thời 
		bấy giờ - kinh Aggi-Sutta - nhưng thật ra khái niệm hay chủ trương thật 
		căn bản này bàng bạc trong rất nhiều tạng kinh). Nghĩa từ chương 
		của tiền ngữ
		
		a
		
		(trong chữ ahimasa) nói lên một sự quấy nhiễu
		
		(nuisance/sự phiền toái, khó chịu, bất ổn. Xin lưu ý là nguyên nghĩa của 
		chữ ahimsa trong tiếng Pa-li có nghĩa là vô hại, không gây ra tác hại/inofensiveness, 
		non-hurtling) nhằm phủ nhận ý nghĩa của hậu ngữ
		
		himsa
		
		(himsa trong tiếng Pa-li có nghĩa là bother, hurt/làm phiền toái, gây 
		tác hại hay thương tích). Do đó chữ
		
		ahimsa có thể hiểu là phi-bạo-lực theo cách dịch từ trước đến 
		nay. Thế nhưng cách hiểu đó lại không được thích nghi lắm nếu đặt khái 
		niệm này vào khung cảnh tranh đấu chính trị nhằm mục đích mang lại các 
		kết quả theo chiều hướng này hay chiều hướng khác, hoặc là để giải quyết 
		một sự tranh chấp, mà không cần phải sử dụng đến bạo lực một cách công 
		khai
		
		(tranh đấu hay tìm cách giải quyết một sự tranh chấp dù là mang tính 
		cách phi-bạo-lực đi nữa cũng không tránh khỏi gây ra một sự bất ổn hay 
		xáo trộn nào đó).
		 
		
		
		Chữ ahimsa 
		sau khi được Phật Giáo thu dùng đã biến thành một thuật ngữ mang ý nghĩa 
		thật bao quát là tránh tất cả mọi sự chủ tâm gây ra tác hại 
		(nuisance/tổn hại, thiệt thòi, phiền toái, quấy rầy) cho kẻ khác và cho 
		cả chính mình, dù chỉ là ý định hay ngôn từ
		
		(ý nghĩ gây ra một sự tác hại hay một ngôn từ thô bạo cũng là những hình 
		thức bạo lực tương tự như trường hợp của chữ Karma /Nghiệp//Hành động 
		cũng mang ý nghĩa thật rộng: tư duy mang tính cách chủ tâm trong tâm 
		thức là một "hành động" tâm thần, lời nói là một "hành động" dưới hình 
		thức ngôn từ, một động tác mang tính cách chủ tâm là một "hành động" 
		trên thân xác. Tất cả các "hành động" ấy đều tạo ra nghiệp cho một cá 
		thể). Do đó lời nói dối, phỉ báng hay lèo lái (tuyên truyền) đều 
		là những hành động tiêu cực gây ra tai hại  (préjudiciable/detrimental/mang 
		lại hậu quả không tốt lành), đôi khi còn tệ hại hơn cả việc ẩu đả hay 
		quất một roi vào mông
		
		(hận thù hiện ra trong tâm thức hay những lời nói thiếu ý thức, thô bạo, 
		hằn học - chẳng hạn như nuôi nấng hận thù, hay những lời tuyên truyền 
		hoặc các bài viết với chủ đích khích động hay đánh lừa kẻ khác, đôi khi 
		có thể tạo ra nghiệp nặng nề hơn nhiều so với các động tác trên thân 
		thể. Do đó cũng phải hiểu ý nghĩa của chữ ahimsa liên quan đến cả ba 
		lãnh vực: tư duy, ngôn từ và hành động). 
		 
		
		
		Hơn nữa, chủ trương không-gây-ra-tác-hại (phi-bạo-lực) trên đây không 
		nhất thiết là chỉ giới hạn trong lãnh vực con người mà còn bao gồm tất 
		cả chúng sinh có giác cảm (tức là cả thú vật), và môi trường sống của 
		toàn thể sinh linh trên địa cầu này kể cả trong bầu không gian rộng lớn. 
		Thật vậy John Snelling
		
		(một người Phật Giáo trung kiên, tác giả của một quyển sách nổi tiếng 
		"The Buddhist Handbook") khẳng định rằng: "Không có bất cứ một 
		thứ gì lại có thể thoát ra khỏi lãnh vực trách nhiệm đạo đức của chúng 
		ta được"
		
		(một hành động thiếu đạo đức là một hành động bạo lực). Khái niệm
		
		ahimsa mang lại cho chúng ta một thái độ hành xử "đúng đắn" mà 
		Phật Giáo gọi là "Con Đường Cao Quý của Tám Điều Đúng Đắn" (Bát Chánh 
		Đạo), tức là gồm tám quy tắc mà người Phật Giáo phải tuân thủ: 1- sự 
		hiểu biết đúng hay tư duy đúng là những gì đưa đến trí tuệ (prajna), 
		2- ngôn từ đúng, 3- hành động đúng và 4- phương tiện sinh sống đúng, là 
		những gì mang lại đạo đức (sila), 
		-5 cố gắng đúng, 6- chú tâm đúng và 7- sự tập trung tâm thức đúng, là ba 
		phẩm tính giúp vào việc 8- thiền định (dhyana). 
		 
		
		
		Ý nghĩa của khái niệm
		
		ahimsa trong Phật Giáo phải được hiểu như là một quá trình toàn 
		diện liên quan đến sự ý thức về bản chất tối thượng của mọi sự vật và cả 
		nội tâm của chính mình. Điểm khởi đầu của quá trình này là phải nhận 
		biết được các triệu chứng hé lộ cho thấy tình trạng khổ đau -
		
		dukkha - đang chi phối mình
		
		(chỉ khi nào ý thức được các triệu chứng khổ đau sâu kín đang hành hạ 
		mình thì khi đó mình mới cố gắng tìm hiểu nguyên nhân làm phát sinh ra 
		chúng, hầu giúp mình loại bỏ chúng).     
		 
		
		
		Đấy cũng chính là điểm tiên khởi của toàn bộ giáo huấn mà Đức Phật đã 
		lưu lại cho chúng ta. 
		 
		
		
		Tất cả những gì mà chúng ta có thể biết được qua các huyền thoại nằm 
		chung trong lịch sử của nước Ấn về Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, là Đức Phật 
		cũng chỉ là một con người, chỉ khác là đã được hưởng một nếp sống và 
		giáo dục che dấu tất cả những nỗi khổ đau và bất hạnh trong thế giới 
		này. Thế nhưng cũng có thể là chính vì thế nên Ngài đã không thể nào 
		ngồi yên được khi bất chợt chứng kiến những nỗi khổ đau của sự sinh, già 
		nua, bệnh tật và cái chết. Bất cứ cái gì xem là một sự khổ đau thì tất 
		phải có một nguyên nhân làm phát sinh ra nó? Đức Phật đã ra sức tìm kiếm 
		cái nguyên nhân ấy. Thế rồi Ngài đã khám phá ra được nó: cái nguyên nhân 
		ấy tàng ẩn bên trong sự u mê luôn xúi dục chúng ta bám víu vào những gì 
		chỉ toàn là ảo giác, chúng chỉ là các hiện tượng phải nhờ vào điều kiện 
		mà có (các 
		hiện tượng chỉ có thể hiện hữu nhờ vào sự liên kết và tương tác với các 
		hiện tượng khác qua quy luật tương liên hay lý duyên khởi, do đó chúng 
		không hiện hữu một cách thật sự như chúng ta tưởng, nếu cứ nắm lấy 
		chúng, tựa vào vai chúng hay ôm lấy chúng thì cũng có nghĩa là nắm lấy 
		khổ đau, tựa vai vào khổ đau và ôm lấy khổ đau), và cũng chỉ là 
		những gì tạo ra các thứ thích thú phù du nhưng lại đưa đến những khổ đau 
		bất tận. 
		 
		
		
		Sự kiện tin tưởng vào một cái tôi trường tồn, còn gọi là cái ngã, đã 
		khiến chúng ta phải trả một cái giá thật đắt. Sự tin tưởng ấy chỉ là một 
		trong số các ảo giác "đắt giá" nhất, buộc chặt chúng ta vào một chuỗi 
		dài những cuộc phiêu lưu bất tận mà chúng ta đều có thể tiên đoán được 
		là gì: đó là samsara 
		hay cõi luân hồi, tức là chu kỳ xoay vần bất tận của những sự hiện hữu 
		phát sinh từ những điều kiện trói buộc. Vì thế chúng ta cũng nên tự vấn 
		là tại sao mình lại không tìm cách để thoát ra khỏi cái vòng xoay bất 
		tận ấy?
		 
		
		
		Thật ra công việc tháo gỡ cấu trúc của các định kiến và xóa bỏ các tấm 
		màn u mê, nói chung là những sự hiểu biết nông cạn, các thói quen lười 
		biếng không đắn đo hay chỉ biết suy nghĩ một cách máy móc, thì cũng 
		không khác gì cách khảo cứu tìm tòi của một khoa học gia. 
		 
		
		
		Chủ đích của công việc trên đây cũng chính là mục tiêu cao cả nhất của 
		Đức Phật. Ngài quyết tâm đạt cho bằng được cái mục tiêu ấy, dù phải trả 
		một giá rất đắt gồm thật nhiều suy tư khắc khoải và cả một sự thách 
		đố điên rồ: "Hễ khi nào ta chưa tìm thấy được giải pháp thì ta nhất 
		quyết sẽ không rời khỏi thể dạng thiền định này"*.  
		 
		
		
		*(Trong suốt lịch sử nhân loại cho đến tận ngày nay, dường như chưa có 
		một ai dám tự nhận mình thông thái hơn Đức Phật, kể cả các khoa học gia 
		uyên bác nhất, các triết gia lừng danh nhất, các nhà lănh đạo chính trị 
		tài ba nhất, cũng như các vị sáng lập những tôn giáo khác. Họ có thể có 
		nhiều quyền lực hơn Đức Phật, thành công hơn Đức Phật, danh tiếng hơn 
		Đức Phật, nhờ dựa vào sức mạnh, trí thông minh, phương tiện phong phú, 
		thời cơ thuận lợi hay một sức mạnh thiêng liêng mang ít nhiều tưởng 
		tượng nhằm trấn áp, khuyến dụ và thu phục con người. Duy nhất chỉ có Đức 
		Phật là dựa vào sự hiểu biết để giải thoát con người, một sự hiểu biết 
		mà Ngài đã phải trả một cái giá thật đắt trong kiếp nhân sinh của chính 
		mình).  
		
		
		Thực chất của thế giới trong đó hàm chứa mọi thứ độc tố và cả đạo đức, 
		cũng như bản thể của tâm thức giúp mình cảm nhận và biến cải con người 
		của chính mình trong cái thế giới ấy, và cả phương pháp mang lại sự Giác 
		Ngộ - có thể xem như là cả một sự chấn động nói lên cả một cuộc cách 
		mạng trọng đại mà tất cả chúng ta đều mang tiềm năng đạt được -  tất 
		cả đều vụt hiện lên với Đức Phật qua một vầng hào quang rạng rỡ, như là 
		một sự khám phá thật tuyệt vời, hoàn toàn dựa vào trực giác và lý trí.
		 
		
		
		Nếu phải trình bày toàn bộ cấu trúc về sự khám phá ấy [của Đức Phật] qua 
		tất cả các thể dạng phong phú của nó thì quả hết sức là dài dòng. Do đó 
		thiết nghĩ cũng chỉ cần tìm hiểu các yếu tố nào đã mang lại những thứ u 
		mê gọi là Klesha*
		cũng là đủ, và theo kinh sách thì có đến 84.000 thứ khác nhau
		
		(84.000 là một con số tượng trưng trong nền văn hóa Ấn Độ, có nghĩa là 
		nhiều vô kể không sao đếm hết được). Chúng ngăn chận và gây ra 
		mọi thứ chướng ngại trên đường Giác Ngộ bằng cách nhận chìm chúng ta 
		dưới sự kiềm tỏa của các thứ xúc cảm tiêu cực, xui khiến chúng ta phạm 
		vào các hành động (nên hiểu hành động ở đây gồm cả tư duy, ngôn từ và 
		hành động trên thân xác) mà chúng ta phải gánh chịu mọì hậu quả, đó là 
		khái niệm
		
		Karma (Nghiệp) mà ai cũng biết
		
		(luôn nên ghi nhớ trong tâm là "hành động" tạo nghiệp gồm có "tư duy", 
		"ngôn từ" và các "động tác mang tính cách chủ tâm" trên thân xác. Chúng 
		ta thường có thói quen nghĩ rằng nghiệp là những hành động gây ra tác 
		hại một cách cụ thể "trông thấy" bằng mắt, do đó chúng ta thường thiếu 
		cảnh giác và không kiểm soát được một cách toàn diện và hiệu quả các 
		hành vi thật tinh tế và nhỏ nhặt của mình - chẳng hạn như những sự suy 
		nghĩ, các ngôn từ và cử chỉ mang hậu ý không tốt nhưng đã trở thành thói 
		quen - trong cuộc sống thường nhật của mình).
		 
		
		
		*(Rất nhiều thuật ngữ Phật Giáo đã trở thành các từ thông dụng trong 
		ngôn ngữ Tây Phương, chẳng hạn như klesa, nirvana, samsara, karma, 
		v.v... Chữ klesha là tiếng Phạn còn viết là klesa, tiếng Pa-li là 
		kilesa, nguyên nghĩa của các từ này là dục vọng, thèm khát, đớn đau, ô 
		nhiễm, buồn khổ... -  depravity, dirt, impurity, passion, lust, 
		affliction.  Đức Đạt-lai Lạt-ma thường gọi chung là các xúc cảm tiêu cực 
		hay bấn loạn. Theo Phật Giáo Theravada thì kilesa là "ba thứ độc tố tâm 
		thần" gồm vô minh, bám víu và ghét bỏ, ba thứ xúc cảm này là ba yếu tố 
		quan trọng nhất làm phát sinh ra tất cả các xúc cảm bấn loạn khác. Trong 
		khi đó kinh sách Hán ngữ lại dịch chữ klesa/kilesa là "phiền não" 
		
		(煩惱),cách 
		dịch này quả không được chính xác lắm. Quyển Hán Việt Từ Điển của Đào 
		Duy Anh dịch chữ "phiền não" là "buồn rầu". Nếu tra cứu thêm thì sẽ thấy 
		rằng chữ "phiền" 
		
		(煩)có 
		nghĩa là buồn rầu, rắc rối; chữ "não" 
		
		(惱)có 
		nghĩa là buồn bực, buồn giận, ảo não. Tóm lại là chữ "phiền não" chẳng 
		những không nói lên được ý nghĩa của chữ "klesa" trong giáo lý Phật Giáo 
		là các thứ xúc cảm mang tính cách khổ đau và bấn loạn, mà còn có thể 
		khiến đánh lạc hướng và mang lại các sự hiểu biết "hời hợt" và lệch lạc 
		về các khái niệm liên quan đến sự vận hành của tâm thức nói chung. Sở dĩ 
		xin mạn phép dài dòng là vì một chữ dịch không sát nghĩa hoặc sai không 
		những khiến cho một khái niệm trở nên tối nghĩa mà còn có thể tạo ra 
		thêm nhiều hoang mang. Tiếc thay trong các kinh sách dịch từ Hán ngữ 
		sang tiếng Việt còn quá nhiều chữ Hán và một số thuật ngữ không sát 
		nghĩa, khiến việc đưa Giáo Huấn đến gần với quảng đại quần chúng có thể 
		gặp nhiều khó khăn. Thiết nghĩ khi dịch cũng nên so lại với tiếng Pa-li 
		và tiếng Phạn cũng như các ngôn ngữ Tây Phương. Tự điển ngày nay có rất 
		nhiều và đủ loại mà chỉ cần chịu khó bỏ chút thì giờ tra cứu tìm tòi là 
		sẽ rõ).
		 
		
		
		Sự thèm-muốn
		
		(tanha/craving, desire/thèm khát, ham muốn, dục vọng) và bám-víu
		
		(upadana/clinging, grasping/gắn bó, níu kéo, nắm bắt, chiếm giữ) 
		là các nguyên nhân đưa đến các thái độ hành xử mang lại đủ mọi thứ tai 
		hại cho mình và cho cả kẻ khác (khó tiêu, sát nhân!)
		
		(ý tác giả muốn nói là sự thèm-muốn và bám-víu gây ra các tai hại có thể 
		chỉ là thứ yếu chẳng hạn như tham ăn thì sẽ bị chứng "khó tiêu", hoặc 
		cũng có thể biến thành các thứ dục vọng điên rồ xui khiến mình phạm vào 
		tội "sát nhân". "Thèm muốn" và "bám víu" là một cặp bài trùng: thèm muốn 
		luôn đưa đến bám víu và bám víu thì sẽ đưa đến muôn nghìn hậu quả không 
		sao lường hết được, và càng bám víu thì lại càng làm cho sự thèm 
		muốn/dục vọng gia tăng. Các xúc cảm "bấn loạn" này tai hại hơn nhiều so 
		với các xúc cảm gọi là "phiền não"). Ngoài ra lại còn có một thứ 
		độc tố khác thô thiển hơn nhiều - đúng với ý nghĩa bạo lực của nó - có 
		thể đưa đến các hành động vô cùng tệ hại như tra tấn hay giết người, đấy 
		là hận thù đưa đến sự giận dữ. Phải hiểu rằng các xúc cảm này đều trực 
		tiếp phát sinh từ ảo giác về một cái tôi và sự bảo vệ của mình đối với 
		nó, và đấy cũng là nguyên nhân của tất cả. Nói thế để hiểu rằng chỉ cần 
		một phút nóng giận phát sinh từ hận thù cũng đủ để tàn phá cả một cuộc 
		đời đạo hạnh! 
		 
		
		
		Tuy nhiên cũng không nên hoảng sợ, bởi vì đối với mỗi thứ độc tố  đều có 
		một phương thuốc hóa giải thích nghi. Trong trường hợp trên đây phương 
		thuốc chính yếu nhất chính là sự nhẫn nhục. 
		 
		
		
		Tam Thừa trong Phật Giáo
		 
		
		
		Trước khi đào sâu thêm chủ đề trên đây thiết nghĩ cũng cần tìm hiểu một 
		vài nét đại cương về Phật Giáo. Tín ngưỡng Phật giáo được hình thành từ 
		một tổng hợp văn liệu (corpus) lịch sử, được ghi chép với các mốc thời 
		gian chính xác, vì thế nên không sao tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi sự tiến 
		hóa của tâm tính con người, các sự diễn đạt khác nhau và sự hình thành 
		sau này của nhiều học phái tư tưởng cũng như các phương pháp tu tập khác 
		nhau. Các "cỗ xe" hay "Yana" 
		này
		
		(tức là các hình thức diễn đạt về giáo huấn của Đức Phật và các phương 
		pháp tu tập được hình thành trên dòng lịch sử phát triển của Phật Giáo 
		sau khi Đức Phật đã tịch diệt) gồm có ba thứ tất cả
		
		(tức là ba "Thừa" trong Phật Giáo). Mỗi "cỗ xe" đều được dựa vào 
		một số kinh sách riêng nhằm vạch ra một đường hướng tu tập thích nghi 
		[với các kinh sách ấy] nhằm mục đích giúp người tu tập đạt được Giác 
		Ngộ. Không nên nghĩ rằng sự kiện này là một sự mâu thuẫn [giữa các thừa 
		với nhau] mà chỉ nên xem đấy là một sự phong phú mà mỗi thừa đều góp 
		phần mình bằng cách đưa ra nhiều phép tu tập mang những nét đặc thù khác 
		nhau. 
		 
		
		
		Cỗ xe xưa nhất được gọi với một chút khinh thị là Cỗ Xe Nhỏ hay
		
		Hinayana mà ngày nay chỉ còn một chi phái tồn tại là Phật Giáo 
		Theravada hay "Con đường của những Người Xưa". Cỗ xe ấy là của những 
		người Ahrat (A-la-hán), tức là các sinh linh đã thực hiện được sự giải 
		thoát cho mình, và họ cũng thường được xem là những người tu tập với chủ 
		đích đạt được sự Giác Ngộ cho riêng mình. Mục đích chủ yếu nhất trong 
		việc tu tập của thừa này là một mặt phải loại bỏ mọi sự bám víu và một 
		mặt phải tuân thủ thật nghiêm nhặt các giới luật (sila). 
		Vậy những người xuất gia (tăng đoàn) phải tu tập như thế nào để có thể 
		chấp hành các kỷ luật vô cùng khắt khe đó? Tạng Luật nêu lên hơn 270 lời 
		nguyện của ngườì tu hành. Lời nguyện giữ gìn phi-bạo-lực đã được nghi lễ 
		hóa và trở thành một quy tắc, tương tự như việc khất thực, việc tụng 
		niệm hằng ngày
		
		(người tỳ-kheo Theravada trên nguyên tắc phải thuộc lòng tất cả các bài 
		kinh trong Kinh Tạng, hoặc ít nhất là tất cả các bài kinh trong Trung A 
		Hàm) và trên một bình diện tổng quát hơn là phải tránh các hành 
		vi của người "thế tục", vì các hành vi này có thể mang lại sự ô uế cho 
		những người A-la-hán tương lai. Những người tu tập theo "cỗ xe" này 
		thường bị phê bình là chỉ biết nêu cao lý tưởng của người xuất gia (có 
		nghĩa là người tu hành phát động tinh thần phi-bạo-lực, trong khi
		
		
		đó thì kẻ thế tục lại thực thi bạo-lực dưới đủ mọi hình thức: tư duy, 
		ngôn từ và các tác động trên thân thể), và vô cảm trước những" khổ đau 
		của xã hội" kể cả đối với những sự bất công.
		
		
		Thế nhưng trên thực tế các phong trào phản kháng lại thường hay phát 
		sinh từ các học phái của Phật Giáo Theravada, chẳng hạn như phong trào 
		INEB 
		
		(International Networks of Engaged Buddhists/Mạng lưới quốc tế những 
		người Phật Giáo dấn thân) 
		mà người lãnh đạo là Sulak Siravasta của Phật Giáo Thái Lan. 
		 
		
		
		Phật Giáo Mahayana (Đại Thừa) được hình thành vào đầu thiên niên kỷ thứ 
		I, nhưng thật ra có thể đã được thai nghén từ trước đó (Kinh 
		Hoa Sen là một trong số các bộ kinh tiêu biểu nhất của Đại Thừa, đã được 
		trước tác qua nhiều lần từ giữa thế kỷ thứ I trước Tây Lịch đến giữa thế 
		kỷ thứ I sau Tây Lịch. Thuật ngữ "Đại Thừa" lần đầu tiên đã được nhắc 
		đến trong kinh này). Phật Giáo Mahayana tự cho mình là cỗ xe lớn 
		và chủ trương sự kết hợp chặt chẽ giữa trí tuệ và lòng từ bi, thể hiện 
		qua cung cách hành xử của một con người lý tưởng mà mọi người phải noi 
		theo: đó là người bodhisattva (bồ-tát), một vị anh hùng đứng lên vì sự 
		giác ngộ của tất cả chúng sinh, và xem sự giác ngộ ấy cũng là điều kiện 
		tiên quyết và cần thiết cho sự giác ngộ của riêng mình. 
		 
		
		
		Sau hết là Phật Giáo Vajrayana (Kim Cương Thừa), phát sinh từ Mahayana 
		(Đại Thừa). Kim Cương Thừa chủ trương tận dụng tất cả các sinh khí cũng 
		như tất cả mọi sức mạnh
		
		(tiêu cực cũng như tích cực) trong thế giới hiện thực tương đối 
		này, nhưng đồng thời cũng vượt lên trên và biến chúng trở thành một 
		phương tiện giúp mình giải thoát cho tất cả chúng sinh. Một số các phép 
		tu tập gọi là tan-tra thần bí
		
		(trong Kim Cương Thừa) đôi khi được xem là mang tính cách "mầu 
		nhiệm", thế nhưng thật ra cũng chỉ dành riêng cho một số nhà sư cao thâm 
		mà thôi. Trên phương diện tổng quát các phép tu tập tan-tra nói chung 
		sau khi được phát triển ở Tây Tạng đã mang thêm một số các đường nét 
		thật đặc thù, khác hơn với các thừa khác, và được gọi là "cỗ xe" của 
		những người tu tập tan-tra (Tăng-tra Thừa). Thừa này mang nhiều khía 
		cạnh tượng trưng thật phong phú và các nghi lễ đủ loại có thể - và đôi 
		khi cũng là điều kiện cần thiết - mang lại những sự quán thấy xuyên qua 
		các vị "thần linh hung tợn" giúp mình chuyển biến sự sợ hãi cũng như các 
		thể dạng tâm thần bấn loạn trở thành một sức mạnh mang lại sự an bình 
		cho mình. Hình ảnh Văn Thù Sư Lợi (Manjushri), một vị "tối thắng thật 
		hiền hòa" vung lên một thanh kiếm sắc bén không phải là cách chỉ dạy các 
		môn đệ của mình cách sử dụng binh khí khi phải xông vào một trận chiến. 
		Thanh kiếm chỉ nhằm nhắc nhở chúng ta là phải đâm thủng các thứ ảo giác, 
		chẳng hạn như khổ đau. Thanh kiếm cũng biểu trưng cho một sức mạnh, một 
		sự quyết tâm và đôi khi cả khả năng chịu đựng sự khổ đau của chính mình. 
		Một số các phép thiền định đã được nghi lễ hóa chẳng hạn như nghi lễ 
		hiến dâng thân xác mình cho bọn ma vương đói khát, nghi lễ này có thể 
		làm bùng lên lòng từ bi của mình một cách thật cụ thể và làm hiện ra trí 
		tuệ
		
		(từ bi và trí tuệ luôn kết chặt và cùng vận hành chung với nhau, một khi 
		phát động được lòng từ bi thật mạnh thì trí tuệ sẽ tự nhiên hiện ra: 
		chẳng hạn như trí tuệ giúp mình "quán thấy" được bản chất của thực tại, 
		"ý thức" được sai lầm và khổ đau của con người, "cảm nhận" được bổn phận 
		của mình, và sự "cảm nhận" đó về bổn phận của mình thì cũng có nghĩa là 
		mình lại "quay về" với lòng từ bi của mình. Thí dụ trên đây cho thấy sự 
		níu kéo và xoay vần giữa từ bi và trí tuệ. Từ bi không trí tuệ chỉ là 
		những hành động vô nghĩa hay mang tính cách bám víu, trí tuệ không từ bi 
		thường là rất nguy hiểm).  
		 
		
		
		
		 
		
		
		Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
		 
		
		
		Điều cần quan tâm là phải thường xuyên luyện tập về cung cách hành xử 
		phi-bạo-lực trong cuộc sống thường nhật, và tốt nhất là nên luyện tập 
		theo giáo huấn Đại Thừa, tuy nhiên đồng thời cũng phải thực hiện được 
		toàn bộ phần căn bản chung của cả ba thừa Phật Giáo. Căn bản chung đó 
		chính là phép thiền định Samatha/Vipassana
		
		("Chỉ" và "Quán" hay tĩnh lặng tâm thần" và sự "quán thấy", quán thấy ở 
		đây có nghĩa là cách thấu triệt được bản thể của hiện thực), các 
		phép luyện tập này đòi hỏi sự chuyên cần và kiên trì nhằm mang lại một 
		thể dạng tâm thức bình lặng, mới mẻ, tinh khiết và trong suốt, giúp mình 
		thực hiện một sự quán thấy trong sáng, tương tự như nhìn xuyên qua "một 
		mặt nước phẳng lặng". 
		 
		
		
		Thể dạng phi-bạo-lực luôn tương kết với sự giác ngộ
		 
		
		
		Việc luyện tập phi-bạo-lực của Đại Thừa được thể hiện qua hình ảnh một 
		người bồ-tát và là một thành phần không thể thiếu sót trong việc "phát 
		huy tinh thần Giác Ngộ". Vậy sự luyện tập ấy là gì? Là phải khởi động 
		một cuộc cách mạng khá triệt để, bởi vì nó phải đủ sức giúp mình loại bỏ 
		tuần tự các tư duy có sẵn
		
		(các sự hìểu biết công thức thu đạt được nhờ giáo dục và các kinh nghiệm 
		sống) ra khỏi những gì chủ yếu
		
		(tâm thức nguyên sinh) liên quan đến bản thân mình, và đồng thời 
		cũng giúp mình ý thức được là lúc nào cũng phải sẵn sàng giúp đỡ và mang 
		lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Niềm hạnh phúc đó không phải chỉ 
		giới hạn trong các lãnh vực vật chất, xã hội hay chính trị, mà nhất 
		thiết là một niềm hân hoan tỏa rộng trong nội tâm mình, thế nhưng cũng 
		không phải vì thế mà gạt qua một bên các hạnh phúc vật chất trên đây. 
		Niềm hạnh phúc tâm linh đó không hề được tạo ra bởi những lời hứa hẹn về 
		một cõi "thiên đường" (dù rằng khái niệm này cũng thấy được đề cập đối 
		với một vài tông phái Phật Giáo, chẳng hạn như đạo Amidism (đạo A-di-đà) 
		chủ trương phải dựa vào một vị "cứu khổ" là Đức Phật A-di-đà) mà đúng 
		hơn là một sự thực hiện các kinh nghiệm cảm nhận của chính mình trong 
		những giây phút của hiện tại
		
		(tác giả nêu lên điều này quả là cả một sự tế nhị. Trước hết nên hiểu 
		rằng Đức Phật A-di-đà không phải là một vị Phật lịch sử, và Tịnh Độ nhất 
		thiết chỉ là một phương tiện tu tập cực mạnh. Phật Giáo Tây Tạng tôn thờ 
		và cầu khẩn Đức Phật A-di-đà thế nhưng luôn ý thức đấy cũng chỉ là một 
		phương tiện thiện xảo, tương tự như tất cả các phương tiện thiện xảo 
		khác, nhằm mang lại sức mạnh giúp mình đạt được giác ngộ. Tu tập Tịnh độ 
		rất tốt vì phù hợp với tính khí của một số người, thế nhưng phải thật 
		cảnh giác, không nên dừng lại ở "phương tiện" mà phải nhìn vào "cứu 
		cánh" là sự giải thoát và giác ngộ). Phép "luyện tập" phi-bạo-lực 
		này được nêu lên thật tuyệt vời trong tác phẩm của Shantideva (Tịch 
		Thiên) dưới hình thức một Phong Cách Sống thật dũng cảm nhằm mục đích 
		đạt được giác ngộ . Đó là một cách luyện tập nhất thiết dựa vào Bốn phẩm 
		tính "vô biên" (Tứ vô lượng) gồm tình thương, lòng từ bi, sự hân hoan và 
		sự bình đẳng "
		
		(tiếng Phạn là apramana, tiếng Pa-li appamanna, là một khái niệm nói lên 
		bốn cảm tính đạo đức hay bốn thể dạng tâm thần của một người tu tập: 
		Maitri/Lòng vị tha, Karuna/Lòng từ bi, Mudita/Sự hân hoan, Upeksa/Sự 
		bình đẳng, tức là sự buông xả, không phân biệt. Kinh sách gốc Hán ngữ 
		gọi bốn cảm tính nội tâm này là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Sự bình đẳng
		
		(thanh thản, thăng bằng, không phân biệt và so sánh) có nghĩa là 
		một thể dạng tâm thức xem tất cả đều ngang hàng như nhau, tức là một 
		cách giúp mình tháo gỡ mọi quan điểm thái quá hầu giúp mình kiểm soát 
		một cách thật tự nhiên các xúc cảm hiện đến với mình. Dưới một góc nhìn 
		nào đó cũng có thể xem cảm tính này như là một hình thức phi-bạo-lực 
		trong tâm thức
		
		(buông xả không chấp nhất, không so sánh, đánh giá, diễn đạt hay phân 
		biệt gì cả, tức là không gây ra một chướng ngại nào trong tâm thức đối 
		với bất cứ gì xảy ra trong nội tâm cũng như trong bối cảnh bên ngoài, và 
		đó cũng là cách tạo ra cho mình một tâm thức phi-bạo-lực). Hãy 
		nêu lên một thí dụ, trong trường hợp phải đối phó với các nỗi khổ đau 
		(dù là của mình hay của kẻ khác) mà nếu cứ để cho sự phẫn nộ bùng lên 
		thì có thể sẽ chẳng mang lại một hiệu quả nào. Thái độ đó cũng chẳng 
		khác nào như một vị bác sĩ nổi nóng hay là ràn rụa nước mắt khi khám một 
		bệnh nhân bị bệnh sởi. Đối với con người cũng thế: nếu thù ghét đối thủ 
		của mình và xem người này như là một "kẻ thù không đội trời chung", thì 
		đấy cũng chỉ là cách tự chui đầu vào ngõ cụt. Vì thế phải biết "xoay 
		chiều", và đấy cũng là chủ đích của phép luyện tập tonglen về sự hiến 
		dâng và nhận chịu, sẽ được nói đến trong phần dưới đây
		
		(tonglen là một phép luyện tập của Phật Giáo Tây Tạng: hiến dâng hạnh 
		phúc của mình cho kẻ khác để đổi lấy tất cả khổ đau của họ).
		
		 
		
		
		Cách luyện tập về "Bốn cảm tính vô biên" (Tứ vô lượng) được dựa vào "Sáu 
		phẩm tính siêu nhiên" (Lục Ba-la-mật). Các phẩm tính này cũng có thể xem 
		như các phương pháp thực tiễn giúp chúng ta ứng phó với mọi hoàn cảnh 
		xảy ra trong cuộc sống. Tiếng Phạn gọi các phẩm tính này là paramita:
		
		para có nghĩa là "bờ bên kia" hay "tận phía bên kia"
		
		mita có nghĩa là một chủ thể đang hành động, một cách cụ thể là 
		các phong cách hành xử siêu nhiên giúp mình vượt sang bờ bên kia
		
		(phép tu tập về "Sáu phẩm tính ba-la-mật" hay "Lục Ba-la-mật" của Phật 
		Giáo Đại Thừa được xem tương đương với "Con đường của tám điều đúng đắn" 
		hay "Bát Chánh Đạo" của Phật Giáo Theravada). Sở dĩ các phẩm tính 
		ấy được gọi là siêu nhiên là vì một khi đem ra để luyện tập, suy tư và 
		ứng dụng thì chính mình cũng sẽ "trở thành"
		
		paramita, có nghĩa là sẽ hóa thành một với sự siêu nhiên ấy và sẽ 
		đưa đến một sự đột khởi phi cá thể
		
		(thoát ra khỏi cái tôi), vượt lên trên tất cả mọi trói buộc đạo 
		đức hay tín ngưỡng
		
		(tức là các bước đầu tu tập còn câu nệ vào việc giữ giới và lòng tin tôn 
		giáo), không hề do một lời chỉ dạy nào, mà chỉ đơn thuần là kết 
		quả mang lại từ những phút giây của hiện tại, và cũng là một cách biểu 
		lộ tinh khiết của
		
		Karuna (Lòng từ bi) phát sinh từ một con tim cao cả (một con tim 
		đầy can trường), thuật ngữ con tim cao cả thật ra cũng là một cách nói 
		lên lòng từ bi.    
		 
		
		
		Sáu phẩm tính ba-la-mật là: 1- sự rộng lượng biểu trưng bởi sự bố thí (dana), 
		2- đạo đức/kỷ luật (sila), 
		3- sự kiên nhẫn (kshanti), 
		4- nghị lực/sự chuyên cần (virya), 
		5- sự tập trung tâm thần (dhyana) 
		và 6- trí tuệ (prajna). 
		Trí tuệ là ba-la-mật thứ sáu, là phẩm tính khơi động và làm gia tăng sức 
		mạnh cho toàn bộ năm thứ ba-la-mật kia. Mỗi ba-la-mật đều đòi hỏi một sự 
		luyện tập lâu dài. 
		 
		
		
		Tất nhiên sự bố thí (dana) 
		không phải chỉ là hiện vật, mà là cả sinh mạng mình, thân xác mình, gồm 
		cả các hình thức hiến dâng thuộc lãnh vực tâm linh. Đối với việc hiến 
		dâng những lời giáo huấn, có nghĩa là trao truyền Đạo Pháp (Dharma/Giáo 
		Huấn của Đức Phật), thì chỉ có thể mang lại hiệu quả khi nào chính mình 
		cũng đã từng được thụ giáo
		
		(học hỏi và tiếp nhận được sự hiểu biết từ một vị thầy uyên bác), 
		thực hiện được các kinh nghiệm cảm nhận, hội đủ khả năng, tóm lại là 
		những gì mà một người đứng ra giảng dạy cần phải có. Sau hết là thể loại 
		hiến dâng thứ ba gọi là sự "không-sợ-hãi", tức là cách hiến dâng một nơi 
		an trú vật chất và một nơi nương tựa tinh thần cho những kẻ lạc hướng 
		không tìm được một chốn tạm trú nào, nói cách khác là mang lại cho họ 
		một chút che chở, một lời khuyến khích giúp họ can đảm hơn trong lúc mà 
		họ đang lo sợ. Các sự hiến dâng trên đây cũng phải hướng vào súc vật 
		đang gánh chịu cảnh khổ đau, có nghĩa là phải nuôi nấng và bảo vệ sinh 
		mạng của chúng. Tuy nhiên, thể loại ba-la-mật chủ yếu và quan trọng nhất 
		trong việc luyện tập phi-bạo-lực chính là ba-la-mật
		
		Kshanti hay là sự kiên nhẫn đã được nói đến trên đây. 
		 
		
		
		Phải nhìn vào phẩm tính ba-la-mật này với tất cả các khía cạnh của nó.
		
		 
		
		
		Nếu muốn hóa giải hận thù và giận dữ thì phải huy động sức kiên trì giúp 
		mình giữ vững sự bình thản
		
		(buông xả). Điều đó có nghĩa là phải gia tăng khả năng chịu đựng 
		các sự tệ hại mà người khác có thể gây ra cho mình, chẳng hạn như nhục 
		mạ, nói xấu, kể cả hành hung, nhưng mình không hề nuôi dưỡng một ý nghĩ 
		báo thù nào. Trái lại phải giữ tâm thức bình thản và thanh thoát, giúp 
		mình nắm vững và phân tích tình thế một cách sáng suốt, chẳng hạn như 
		tiến sâu vào phía sau lằn ranh phòng thủ của kẻ thù, hầu tìm hiểu thật 
		sâu xa các nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ hành xử theo cung cách đó đối 
		với mình. 
		 
		
		
		Mục đích của sự xâm nhập đó không phải là để nghiền nát họ, tạo ra thêm 
		khổ đau cho họ, mà đúng hơn là tìm cách làm nhẹ bớt đi những khổ đau của 
		họ, bởi vì những khổ  đau ấy chính là nguyên nhân đã khiến họ hành xử 
		thô bạo với mình. Con đường đó thật hết sức chông gai! Và cũng chính vì 
		thế nên
		
		Kshanti (sự kiên nhẫn) cần phải có sự hợp lực của
		
		Virya, là sự can đảm và một nghị lực thật kiên trì, giúp củng cố 
		sự quyết tâm của mình. Và thật ra sự quyết tâm này cũng chỉ có thể trở 
		nên mạnh mẽ nhờ vào phép thiền định
		
		dhyana (sự tập trung tâm thần) và  sự ý thức về vô thường, cũng 
		như sự buông xả và sáng suốt.  
		 
		
		
		Jetsun Milarepa
		
		(Mật-lặc Nhật-ba, 1040-1123, một đại sư Tây Tạng thật uyên bác và tràn 
		đầy nghị lực, tác giả của một tập thơ trường thiên mang tựa là "Thập Vạn 
		Ca") đã nêu lên quá trình tu tập về các phẩm tính ba-la-mật qua 
		những vần thơ thật cô đọng sau đây:  
		 
		
		
		Khi nào không còn nắm bắt khái niệm của cái tôi,
		
		
		Thì sẽ không còn cần đến một sự rộng lượng nào khác nữa.
		
		
		Khi nào đã loại bỏ được mọi thứ đạo đức giả,
		
		
		Thì sẽ không còn cần đến một giới luật nào khác nữa.
		
		
		Khi nào đã vượt lên được mọi sự sợ hãi đúng với ý nghĩa của chúng,
		
		
		Thì sẽ không còn cần đến một sự kiên nhẫn nào khác nữa
		
		
		Khi nào không còn lơ là trong việc tu tập,
		
		
		Thì sẽ không còn cần thêm một sự can đảm nào khác nữa. 
		
		
		Khi nào vẫn còn tiếp tục duy trì được thể dạng tâm thần không sứt mẻ,
		
		
		Thì sẽ không còn cần đến một sự tập trung nào khác nữa.
		
		
		Khi nào đã tạo được một thái độ [đúng đắn] cho mình,
		
		
		Thì sẽ không còn cần đến một sự hiểu biết nào khác nữa. 
		
		
		Khi nào tất cả những gì mình làm đều là Đạo Pháp (Dharma),
		
		
		Thì sẽ không còn cần đến một phương tiện [thiện xảo] nào khác nữa.
		
		
		Khi nào chiến thắng được bốn thứ ma vương*,
		
		
		Thì cũng sẽ không còn cần đến một sức mạnh nào khác nữa. 
		
		
		Khi nào đạt được cả hai mục đích**, 
		
		
		Thì sẽ không còn cần đến một sự khấn nguyện nào khác nữa. 
		
		
		Khi nào nhận thấy được các sự sai lầm tàng ẩn phía sau các xúc cảm,
		
		
		Thì sẽ không còn cần đến một thứ trí tuệ nào khác nữa.
		
		 
		
		
		* (Bốn ma vương (catvaro marah, kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Ma) là: 1- 
		Ma vương thứ nhất (Klesa-mara) là ba thứ nọc độc tâm thần, còn gọi là 
		tam độc: tham lam, giận dữ và vô minh, tức là tham sân  si; 2- Ma vương 
		thứ hai (Skhanda-mara) là năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) tạo ra một cá thể, 
		biểu trưng cho sự hiện hữu trói buộc và các sự thúc dục bản năng gây ra 
		khó khăn trong việc tu tập ;3- Ma vương thứ ba (Mrtyu-mara) tức là thần 
		chết, tạo ra sự gián đoạn trong việc tu tập; 4- Ma vương thứ tư 
		(Tenji-ma, Devaputra-mara) là "Con Trời" (tiếng Phạn là  devaputra) còn 
		gọi là "Ma vương ngụ ở cõi trời thứ sáu", là cõi trời cao nhất trong sáu 
		cõi dục giới, biểu trưng cho dục vọng và sự sợ hãi trước những kẻ quyền 
		thế vì tham vọng có thể gây ra tác hại cho mình. Ma vương thứ tư này rất 
		là khó trị. Mục đích của việc tu tập là phải chiến thắng cả bốn thứ ma 
		vương. Người ta thường gọi Đức Phật là Vị Tối Thắng để cho biết là Ngài 
		đã chiến thắng được tất cả bốn thứ ma vương).
		
		 
		
		
		**
		
		
		Hai mục đích là sự giác ngộ của chúng sinh và của chính mình.
		
		 
		
		
		Tìm hiểu các phép luyện tập trong Phật Giáo
		 
		
		
		Dù rằng các phép luyện tập trên đây mang tính cách thật khẳng định 
		(radicalité/radicalism/quyết liệt, triệt để) và tỏ ra khá trừu tượng 
		(abstract), thế nhưng cũng nên hiểu rằng mỗi tông phái và học phái qua 
		các bối cảnh văn hóa khác nhau, đều đã triển khai các phép luyện tập 
		chuyên biệt cho mình hầu có thể mang ra ứng dụng một cách thích nghi và 
		hiệu quả. Chính vì thế mà phương pháp luyện tập tonglen, tức là sự hiến 
		dâng và nhận chịu, có thể là một động cơ thúc đẩy góp phần không nhỏ vào 
		việc phát triển các phép luyện tập về sự kiên nhẫn và lòng từ tâm trong 
		Phật Giáo Tây Tạng.  
		 
		
		
		Bước đầu trong phép luyện tập tonglen cũng thật hết sức đơn giản và cũng 
		chỉ là sự chú tâm, thường thấy trong tất cả các phép thiền định, chẳng 
		hạn như theo dõi hơi thở của chính mình. Tuy nhiên đối với phép luyện 
		tập tonglen thì việc theo dõi hơi thở lại mang ý nghĩa ngược lại với 
		quan điểm thường thấy, dù rằng chỉ mang tính cách tượng trưng
		
		(đối với các phép thiền định thông thường thì việc chú tâm vào hơi thở 
		là cách theo dõi hơi thở thật sự của mình: hít vào không khí trong lành 
		và thở ra không khí ô nhiễm, trong khi đó đối với phép thiền định 
		tonglen thì việc chú tâm vào hơi thở chỉ mang tính cách tượng trưng: thở 
		ra là cách mang theo tất cả hạnh phúc và những điều xứng đáng của mình 
		để hiến dâng cho tất cả chúng sinh, và để đổi lại thì hít vào là cách 
		mang theo tất cả khói đen ô uế, bệnh tật và khổ đau của tất cả chúng 
		sinh). Hít vào không có nghĩa là tiếp nhận không khí tốt lành mà 
		là cách thu vào các thứ ô nhiễm, cặn bã và mọi sự khổ đau. Thở ra là 
		cách trao trả lại không khí đã được tẩy uế, thơm ngát và trong lành. 
		
		 
		
		
		Một cách tổng quát, tonglen là một phép luyện tập nói lên sự chia sẻ và 
		hiến dâng cho kẻ khác tất cả những gì tốt lành của mình để  đổi lấy tất 
		cả những khó khăn và khổ nhọc của kẻ khác. Tuy nhiên cũng không nên để 
		mình vướng vào các cảm tính yêu thích [đơn thuần] sự đau đớn (masochism) 
		hoặc là các hình thức yêu thích sự u sầu (morose delectation). Sự trao 
		đổi ấy chỉ có thể thực hiện dần dần mà thôi, tất cả đều tùy vào nghị lực 
		và sự mở rộng tuần tự của con tim mình, tương tự như một lực sĩ cử tạ 
		gia tăng thêm từng gram một sức nặng của các quả tạ mà mình phải nhấc 
		lên.    
		 
		
		
		Dù trong bất cứ trường hợp nào, cũng không nên để cho các phép luyện tập 
		đó biến thành ảo tưởng
		
		(fantasme/fantasy/những sự tưởng tượng giúp mình thoát ra khỏi hiện 
		thực) hay một sự ám ảnh
		
		(obsession) nào cả, mà phải giúp mình ngày càng đến gần hơn với 
		các bối cảnh hiện thực, mang lại một cái gì đó thật cụ thể cho việc 
		luyện tập của mình. Đó là cách  nuốt chửng từng ngụm lớn các cảnh huống 
		khổ đau trong cuộc sống thường nhật hiện lên và khơi động lòng từ bi của 
		mình
		
		(không nên đọc những lời chỉ dẫn này để mà thán phục hay để tìm hiểu 
		suông, mà nên nhắm mắt lại để tập thử xem sao, chỉ cần vài phút thật 
		chân thành và chăm chú sẽ mang lại hiệu quả ngay. Rất tiếc nhiều người 
		đọc sau khi đứng lên là quên hết, lại cuống quýt lo hết chuyện này sang 
		chuyện khác, đấy là chưa nói đến trường hợp nhiều người đọc đoạn sau thì 
		quên đoạn trước. Sự kiên nhẫn/kshanti và nghị lực/virya rất cần thiết 
		như đã được nói đến trên đây).   
		 
		
		
		Điều quan trọng là không được bỏ cuộc hay tránh né. Lúc mới khởi sự cũng 
		chỉ cần hít vào và nhận chịu sự khổ đau của một người thân hay một người 
		bạn, và dần dần sau đó sẽ hướng lòng từ tâm của mình vào những người mà 
		mình chưa hề quen biết, chẳng hạn như những người gặp trên hè phố hoặc 
		trông thấy trên màn ảnh truyền hình, và sau đó là hướng vào các kẻ thù 
		của mình, là những người mà mình cố tình nhìn họ qua những hình ảnh méo 
		mó mang những nét ghê tởm hay khiếp sợ, và vẫn phải cố gắng thực thi 
		phép tonglen đối với họ. Các điều này quả khó thực hiện lúc ban đầu, 
		nhất là khi thở ra phải hiến dâng những gì tốt lành của mình cho họ để 
		nói lên lòng trìu mến của mình đối với họ. Thế nhưng phải tập đi tập 
		lại, mỗi lần gia tăng thêm một chút yêu thương và một chút an lành cho 
		họ.   
		 
		
		
		Phép luyện tập tonglen tuy lúc ban đầu phải cần đến sự chú tâm và một 
		sức cố gắng và cũng chỉ có thể thực hiện được trong những lúc [rảnh rỗi] 
		nào đó trong cuộc sống thường nhật tràn ngập bận rộn của mình, thế nhưng 
		dần dần sau đó việc luyện tập tonglen không phải là không thể thực hiện 
		được trong bất cứ bối cảnh nào trong cuộc sống. Mỗi khi mở cửa sổ để xem 
		thời tiết và nếu thấy bầu trời rạng rỡ khiến mình yêu thích thì cũng là 
		một dịp để mình hiến dâng, và đấy cũng là một cách luyện tập tonglen; 
		mỗi khi phải nhai vội một khúc bánh mì hay đang thưởng thức một đĩa thức 
		ăn tuyệt hảo, thì cũng đều là những dịp giúp mình luyện tập tonglen
		
		(mỗi khi nuốt vội một mẫu bánh mì hay đang thưởng thức một món ăn ngon 
		thì cũng nên nghĩ đến những kẻ đói nghèo, ước sao họ được mẫu bánh mì 
		hay đĩa thức ăn này). 
		 
		
		
		Tóm lại là phép luyện tập tonglen chỉ có thể mang ý nghĩa vẹn toàn của 
		nó qua các mối tương giao lành mạnh, nhân từ, sáng suốt và ngập tràn 
		hạnh phúc, nối kết giữa mình và thế giới chung quanh mình.   
		 
		
		
		Phi-bạo-lực là kết quả mang lại từ sự tu tập
		 
		
		
		Thật hết sức rõ ràng là chỉ khi nào mình đủ sức chịu đựng một sự đớn đau 
		nào đó dù là trong tâm thức hay trên thân xác, nhưng vẫn phát lộ được 
		niềm hân hoan đích thật, một niềm hân hoan thật bén nhạy nhưng cũng thật 
		trong sáng, sẵn sàng trao nó cho kẻ khác, thì khi ấy mình mới thật sự đủ 
		sức thực thi phép luyện tập
		
		ahimsa, tức là phát động lòng vị tha phi-bạo-lực một cách thật tự 
		nhiên.  
		 
		
		
		Toàn bộ các phép luyện tập trên đây cũng đã được nêu lên trong các kinh 
		sách cổ điển của Phật Giáo Đại Thừa, chẳng hạn như trong tập
		
		Bodhisattvacaryavatara (Nhập 
		Bồ-đề hành luận) của Shantideva (Tịch Thiên) nói đến trên đây, và 
		cả trong ba mươi bảy phép tu-tập của người bồ-tát, cũng như năm mươì 
		chín câu phương châm của Atisha
		
		(A-đề sa, một vị đại sư người Ấn, 982-1054. Các câu phương châm hay đúng 
		hơn là những lời hướng dẫn giúp việc thiền định, nhằm phát động lòng từ 
		bi do nhà sư này học được ở Inđônêxia - lúc đó Kim Cương Thừa phát triển 
		rất mạnh trên đảo Java -  và sau đó đã đưa vào Tây Tạng và đã được đúc 
		kết vào thế kỷ XII thành 59 câu tất cả và được gọi chung là phép tu tập 
		Lodjong). Thế nhưng phải luôn cảnh giác là nếu chỉ đọc mà không 
		thực hành thì cũng chỉ là vô ích mà thôi!
		 
		
		
		Ngoài ra nếu không có sự giúp sức của một người giảng dạy đầy đủ khả 
		năng thì các lời hướng dẫn trên đây
		
		(các tiết thơ của Tịch Thiên, ba mươi bảy phép tu tập của người bồ-tát, 
		và năm mươi chín câu châm ngôn của A-đề-sa) cũng sẽ là những gì 
		nhàm chán và mơ hồ, chẳng khác gì trong tập sách nêu lên các lời chỉ dẫn 
		dành cho binh sĩ mà thôi. Chẳng mang lại một chút lợi ích nào cả*!
		
		 
		
		
		*(Xin lưu ý câu này cho thấy tác giả là một người tu tập theo Phật Giáo 
		Tây Tạng luôn xem trọng vai trò của người thầy. Trong một đoạn trên đây 
		ông cũng có nhắc đến việc truyền thụ của một người giảng dạy uyên bác 
		rất cần thiết. Thật vậy những lời giáo huấn chân chính và đích thật của 
		một người thầy uyên bác thổi vào giáo huấn của Đức Phật một sức sống 
		mới, một sự sinh động mới giúp người tu tập đến gần với Giáo Huấn của 
		Ngài hơn. Tác giả Jean-Paul Ribes là một người thật khiêm tốn và vô cùng 
		kín đáo, không bao giờ tự nhận mình là một người tu hành, tuy nhiên qua 
		một số tư liệu hiếm hoi người ta biết được ông là  đệ tử của nhà sư 
		Kalou Rinpoché, và ông cũng là một trong những người Pháp đầu tiên vượt 
		đường bộ từ Katmandu (Nepal) lên Lhassa (Tây Tạng) năm 1985, trong một 
		giai đoạn thật khó khăn dưới sự kiểm soát chặt chẽ của các đạo quân 
		Trung Quốc. Tóm lại nghị lực hay sự kiên nhẫn/kshanti không những là một 
		phẩm tính mà tác giả xem là cao nhất trong số sáu phẩm tính ba-la-mật 
		giúp vào việc phát động tinh thần phi-bạo-lực, mà còn thật hết sức cần 
		thiết trong việc tu tập nói chung. Ngày nay dường như cũng khó cho mỗi 
		người chúng ta để tìm được một vị thầy uyên bác có thể thổi Đạo Pháp vào 
		con tim mình, do đó chính mình phải mượn sự kiên nhẫn và nghị lực giúp 
		mình giữ gìn tinh thần phi-bạo-lực và mang Đạo Pháp của Đấng Thế Tôn tự 
		thổi vào con tim mình để tạo ra sức sống cho chính mình. Đấy cũng là lời 
		dặn dò cuối cùng của Đức Phật: "Các con hãy xem Đạo Pháp là vị Thầy của 
		mình và xem mình là ngọn đuốc soi sáng cho chính mình". Dưới một góc 
		cạnh nào đó thì thái độ  ấy - những lời khuyên nhủ ấy - cũng là một cách 
		giữ gìn tinh thần phi-bạo-lực sâu xa nhất và hiệu quả nhất. Khi nào còn 
		hướng vào một sức mạnh bên ngoài dù là dưới hình thức tín ngưỡng hay 
		chính trị thuộc bất cứ một hệ tư tưởng nào, một khuôn mẫu xã hội nào, 
		một quyền lực nào thì khi đó sẽ khó mà tránh mọi thứ khó khăn xảy ra)   
		
		 
		
		
		Nếu xem Phật Giáo như một triết thuyết hay một tôn giáo đơn thuần, 
		thì đấy cũng chỉ tương tự như một gáo nước mát. Trái lại một khi được 
		mang ra thực hành nhờ vào các phép thiền định, sự học hỏi và các lời 
		truyền thụ [từ một vị giảng huấn uyên bác], thì Phật Giáo sẽ biến thành 
		cả một địa giới mênh mông để tha hồ mà khám phá. Chẳng phải là các điều 
		ấy cũng có thể áp dụng cho nền hòa bình [trên thế giới] và tinh thần 
		phi-bạo-lực hay sao?
		
		(nếu hòa bình và phi-bạo-lực chỉ là các khẩu hiệu hô hào thì chẳng có 
		ích lợi gì cả, nếu mang ra thực hành và áp dụng trong mọi sinh hoạt xã 
		hội thì tất sẽ mang lại một ngưồn hứng khởi lớn lao và một sự hợp tác 
		phong phú và đạo đức giữa con người với nhau).      
		 
		
		
		Chỉ khi nào thật sự bước vào việc tu tập và đắm mình vào đó, thì các thể 
		dạng tẻ nhạt, những sự thích thú lặt vặt, thậm chí kể cả những sự lười 
		biếng nho nhỏ thường chi phối chúng ta, cũng sẽ tan biến hết.
		 
		
		
		Việc kiến tạo hòa bình và xây dựng tinh thần phi-bạo-lực không thể thực 
		hiện được hay đạt được trong một ngày. Trên phương diện tổng quát, Phật 
		Giáo dù có duy trì được các khía cạnh sinh hoạt của nó và khơi động lại 
		theo một định kỳ nào đó, thì cũng không tránh khỏi những sự thất bại, 
		các khía cạnh mờ ám, các thể chế hung bạo, các kẻ về hùa, những người tu 
		hành che dấu những sự tàn ác [của kẻ khác]
		
		(qua dòng lịch sử phát triển, Phật Giáo cũng khó tránh khỏi những lúc bị 
		ngược đãi, những cảnh thất bại, những kẻ lợi dụng. Kiến tạo hòa bình và 
		xây dựng tinh thần phi-bạo-lực đòi hỏi sự kiên trì và một sự cố gắng lâu 
		dài, tương tự như phép luyện tập tonglen!). 
		 
		
		
		Dầu thông điệp [Phật Giáo] luôn là một thông điệp hòa bình và đôi khi có 
		thể ngăn chận được chiến tranh, thế nhưng về phần con người (kể cả Đức 
		Phật!) cũng có thể gặp phải thất bại. Vì thế có nên tự hỏi là phải quên 
		đi bản thân mình để vun xới tinh thần hòa bình hay không?
		
		(Dù tinh thần phi-bạo-lực là bản chất thâm thúy của Phật Giáo, thế nhưng 
		Phật Giáo đôi khi cũng không thể nào mang lại hòa bình được khi mà con 
		người chỉ muốn chiến tranh. Mahatma Gandhi, đã quên mình vì lý tưởng hòa 
		bình và bất-bạo-lực, thế nhưng sau khi dành lại được độc lập cho xứ sở 
		vào năm 1947 thì tình thế - dưới bàn tay của những kẻ ngoại bang - lại 
		đưa đến sự chia cắt giữa nước Ấn và nước Pakistan, đó là một sự thất bại 
		thật cay đắng cho riêng ông và thật đau thương cho toàn thể các dân tộc 
		trong toàn vùng. Gandhi bị ám sát năm 1948).   
		 
		
		
		Đối với một người tu tập Phật Giáo thì cũng nên thường xuyên lập đi lập 
		lại với họ một điều là
		
		ahimsa (tinh thần phi-bạo-lực) không nhất thiết chỉ là một phương 
		pháp để luyện tập hay một con đường để khám phá, mà còn là cả một thể 
		dạng tâm thần để thực hiện, để mang ra áp dụng và chia sẻ với tất cả mọi 
		người. 
		 
		 
		
		
		Vài lời ghi chú của người dịch
		 
		
		
		Điểm nổi bật nhất trong bài viết trên đây là không những tác giả đã mổ 
		xẻ thật sâu sắc tinh thần phi-bạo-lực trong giáo lý Phật Giáo mà còn gửi 
		gấm đến người đọc tất cả hoài bảo của mình qua những phép luyện tập đã 
		học được. 
		 
		
		
		Điểm đáng chú ý thứ hai là tác giả đã nhận thấy được tinh thần 
		phi-bạo-lực tàng ẩn kín đáo trong phép luyện tập tonglen của Kim Cương 
		Thừa và cả trong toàn bộ giáo lý Đại Thừa nói chung. Không những ông đã 
		nhìn thấy được cái tinh thần đó một cách tuyệt vời trong phép luyện tập 
		tonglen mà cả trong các khái niệm về "sáu phẩm tính ba-la-mật", "tứ vô 
		lượng"..., và cả trong các vần thơ của Tịch Thiên. Thật vậy tình thần 
		phi-bạo-lực tuy bàng bạc trong toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thế nhưng 
		cũng khá khó để nhận biết trong Đại Thừa Phật Giáo khi mà thừa này chủ 
		trương một đường hướng tu tập mang tính cách nhập thế. 
		 
		
		
		Dường như tinh thần phi-bạo lực tương đối dễ cảm nhận hơn qua phong thái 
		của Thiền Học nói chung khi chủ trương sự yên lặng tuyệt đối của tâm 
		thức và qua cách quán nhìn vào bản chất "chỉ là như thế" của hiện thực, 
		và cho rằng sự giác ngộ cũng chỉ đơn giản là cách ngồi xuống thật im 
		trước một bức tường yên lặng và phẳng lì. Thật vậy không có gì có thể 
		biểu trưng cho tính cách phi-bạo-lực trong Phật Giáo bằng sự yên lặng. 
		Chẳng phải là người ta vẫn thường gọi Đức Phật là Đấng Tịch Tĩnh hay 
		sao? 
		 
		
		
		Sự im lặng đó không chỉ có nghĩa là không nói năng, hô hào, kêu gọi hay 
		vung tay vung chân, mà là một sự im lặng hay phẳng lặng trong tâm thức 
		của người tu hành. Thế nhưng sự im lặng đó không hề phản ảnh một sự khô 
		cằn và vô cảm nào cả, mà  đúng hơn là tương tự như một đài hoa thơm ngát 
		hé mở ra một không gian vô tận để đón nhận thiên nhiên,  sự sống, con 
		người và tất cả chúng sinh. 
		 
		
		
		Thật vậy trong cuộc sống thường nhật chúng ta luôn bị tấn công bởi 
		bạo-lực dưới mọi hình thức: từ quảng cáo, báo chí, tuyên truyền, ca hát, 
		các khu giải trí...với đủ thứ màu sắc và  âm thanh, đấy là chưa nói đến 
		những sự xao động và các thứ xúc cảm dấy lên trong chính tâm thức mình. 
		Tất cả đều là bạo-lực. Những sự tấn công đó  đôi khi rất kín đáo và nguy 
		hiểm. Chẳng hạn mỗi khi theo dõi tin tức trên truyền hình và nhận thấy 
		người đọc tin có một ánh mắt tán đồng hay khinh thị, một nụ cười nhẹ hay 
		thoáng cau mày khi đang đọc một mẫu tin nào đó, thì đấy cũng là một hình 
		thức bạo-lực (người xướng ngôn viên thường được chọn với tiêu chuẩn là 
		phải đứng vào phía của những người lãnh đạo chính trị), khi trông thấy 
		các tấm bích chương hay một đoạn phim quảng cáo một món ăn hay một chiếc 
		xe hơi, thì nhất định là phải kèm theo hình ảnh một cô gái ăn mặc hở 
		hang, phấn son lòa loẹt, đấy cũng là một hình thức bạo-lực. 
		 
		
		
		Ngồi xuống để thiền định là giúp cho những cánh hoa của con tim mình nở 
		rộ ra để gạt bỏ những sự tấn công tới tấp mang tính cách bạo-lực thật 
		kín đáo đó, hầu mang lại cho mình một sự im lặng thật đúng nghĩa và thâm 
		sâu của nó.     
		 
		 
		 Bures-Sur-Yvette, 
		16.01.15
		
		
		Hoang Phong chuyển ngữ
		 
		
		
		(độc giả có thể tham khảo bản gốc của bài này bằng tiếng Pháp trên trang 
		mạng Buddhachannel:
		
		
		
		http://www.buddhachannel.tv/portail/spip.php?article3963)