Phật giáo và sự nghiệp công ích

phat giao

 

HT.Tinh Vân

Nguyễn Phước Tâm dịch

 

Sở dĩ gọi là sự nghiệp công ích, như tên gọi của nó, là do công việc tìm kiếm lợi ích chung. Phật giáo giảng nhân duyên, cho rằng hết thảy chúng sinh đều là do nhân duyên hòa hợp nương tựa lẫn nhau, đồng thời lấy tư tưởng ‘Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi’[1]‘Đồng thể cộng sinh’[2] làm cơ sở để thúc đẩy, phát triển sự nghiệp công ích.

Phật giáo Đại thừa chủ trương rằng hành giả Bồ-tát (bodhisattva) phải phát tâm Bồ-đề (bodhi) “Thượng hoằng hạ hóa, nhiêu ích chúng sinh” (trên cầu dưới hóa, làm lợi ích chúng sinh), cần có tâm đại bi ‘Kỳ nguyện chúng sinh ly khổ hải’ (Cầu mong chúng sinh thoát biển khổ); đồng thời còn phải có hạnh phương tiện quảng thí pháp lạc hoan hỷ, cho đến trí Bát-nhã (Prajna) tam luân thể không[3]. Những lý niệm - tinh thần này, được trình bày khắp nơi trong rất nhiều kinh điển Phật giáo. Ví dụ, luận Đại thừa khởi tín nói: “Quán nhất thiết pháp, nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả bất thất, khởi vu đại bi, tu chư phước đức, nhiếp hóa chúng sinh, bất trụ Niết-bàn”[4] (Quán hết thảy pháp, nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả không mất đi, khởi lên lòng từ bi, tu các phước đức, nhiếp hóa chúng sinh, không trụ Niết-bàn). Kinh Bảo tập nói, “Bần giả cấp tài, bệnh giả thí dược, vô hộ tác hộ, vô quy tác quy, vô y tác y.” (Người nghèo cấp tiền của, người bệnh thì cho thuốc men, người không ai che chở thì che chở, người không có chỗ quay về thì tìm chỗ cho họ quay về, người không nơi tương tựa thì tìm chỗ cho họ nương tựa).

Những điều mà Đức Phật trình bày về cách tăng trưởng công đức phước báo, đều có ích trong việc thiết lập cái chung cho cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể nói tư tưởng phước điền của Phật giáo thực sự chính là điểm khai sáng phát triển sự nghiệp công ích. Theo kinh Phật thuyết chư đức phước điền,Phật cáo Thiên đế: Phục hữu thất pháp quảng thí, danh viết phước điền[5], hành giả đắc phước, tức sinh Phạm-thiên[6]. Hà vị vi thất? Nhất giả, hưng lập Phật đồ[7], Tăng phòng, Đường các; Nhị giả, viên quả, dục trì, thụ mộc thanh lương; Tam giả, thường thí y dược, liệu tựu chúng bệnh; Tứ giả, tác kiên cố thuyền, tế độ nhân dân; Ngũ giả, an thiết kiều lương, quá độ luy nhược; Lục giả, cận đạo tác tỉnh, khát phạp đắc ẩm; Thất giả, tạo tạc thanh xí, thí tiện lợi xứ; thị vi thất sự đắc Phạm-thiên phước.” (Phật nói với Thiên đế: Lại có bảy pháp bố thí rộng rãi, gọi là ruộng phước. Hành giả - người thực hành được phước, liền sinh lên Phạm thiên. Những gì là bảy? Một là, xây dựng chùa tháp, phòng Tăng, lầu các. Hai là, dựng lập vườn cây ăn trái, bể tắm, cây cối mát mẻ. Ba là, thường bố thí thuốc thang, chữa trị cứu giúp những chúng sinh tật bệnh. Bốn là, đóng thuyền bền chắc, đón đưa nhân dân qua song. Năm là, lắp đặt cầu cống, giúp đỡ người gầy yếu; Sáu là, đào giếng gần đường, giúp người khát nước được uống Bảy là, làm nhà vệ sinh, đặt nơi tiện lợi. Đấy là bảy việc được phước Phạm thiên).

Từ những điều được ghi chép trong kinh điển, cho thấy Phật giáo coi trọng phúc lợi công ích. Tinh thần này càng được đẩy mạnh tích cực hơn vào thời vua A Dục (Asoka) vương triều Khổng Tước (Maurya). Ấn Độ. Nhưng việc làm như: xây dựng kho dược phẩm, trồng cây, đào giếng…, tất cả đều dựa trên tinh thần thị-giáo-lợi-hỷ[8] (示教利喜) của Phật, do nhân dân toàn quốc cùng nhau mở rộng tham gia.

Từ xưa đến nay, tín đồ Phật giáo luôn dựa trên tinh thần lợi tha, đã tận lực cống hiến cho xã hội cộng đồng, chẳng hạn thiết lập các chế độ phúc lợi như trồng cây gây rừng, khai khẩn đất hoang, mở mang ruộng vườn, đào giếng lấy nước, bảo vệ nguồn nước, giúp đỡ người đi đường xa, xây cầu đắp đường, khởi công xây dựng công trình thủy lợi, thiết lập bãi tắm, xây dựng nhà vệ sinh công cộng, dựng lập trại nghỉ mát, làm cối xay lúa[9], giúp nguy cứu nạn khẩn cấp, thiết lập Phật đồ hộ[10], thành lập quỹ bi điền (giúp đỡ bố thí người nghèo khó), cho đến thiết lập các chế độ phúc lợi khác như cứu tế dân nghèo, tai nạn, bao gồm: tăng kỳ hộ[11], tự khố[12], viện vô tận tàng[13]…, nhiều không sao kể xiết.

Phật giáo Đại thừa ban đầu truyền đến các nước như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, sở dĩ được xã hội bản xứ tiếp nhận một cách rộng khắp, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất chính là Phật giáo chú trọng đến sự nghiệp bố thí và làm lợi ích quần sanh qua việc giúp đỡ quốc kế dân sinh (đường lối củng cố, phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân), có thể trợ giúp lãnh đạo giải quyết vấn đề dân sinh. Vì vậy, nếu nói Phật giáo là đi đầu trong việc thúc đẩy sự nghiệp công ích, thì Đức Phật là bậc thủy tổ khai sáng sự nghiệp công ích, điều này quả thực là không sai.

Sự nghiệp công ích xưa nay của Phật giáo có thể chia làm bốn nội dung chính như sau:

1. Sự nghiệp giáo dục: Cách đây 2.600 năm về trước, Đức Phật dẫn đầu hàng đệ tử đi khắp nơi khất thực để dẫn dắt dân chúng. Từ quý tộc vương cung đến tiểu thương sai dịch, đều là đối tượng giáo hóa của Tăng đoàn Phật giáo. Đây chính là khởi đầu của giáo dục phường xã. Lúc hành hóa các nơi, Đức Phật tùy thời lấy người-việc-chỗ-vật chung quanh đó để giảng dạy, giáo hóa các đệ tử. Có thể nói đấy là đoàn du hóa bậc nhất trên thế giới. Cư sĩ Duy Ma Cật (Vimalakirti) thường hay đến các chỗ như học đường, dâm xá, hàng rượu, cung đình, quan phủ… để khai thị diệu đế, là hình thức ban đầu phân loại dạy học. Phu nhân Thắng Man (Srimala) thuyết pháp cho nhóm trẻ em trong cung, thì là người sáng kiến trường học thiếu nhi tuần. Thế kỷ V TL, trường Đại học Na-lan-đà[14] (Nālandā) được vua Đế Nhật (Sakraditya) bảo trợ, chẳng những là trường học cao nhất lúc bấy giờ, còn là ngôi trường đại học đầu tiên trên thế giới.

2. Sự nghiệp văn hóa: Việc kết tập Tam tạng (hay còn gọi là Tam pháp tạng, gồm Kinh tạng, Luật tạng, và Luận tạng) sau khi Đức Phật nhập diệt đã mở màn cho sự nghiệp văn hóa, sự nghiệp dịch kinh được phát triển sau khi Phật giáo truyền vào các nước, đã làm phong phú thêm nội hàm văn hóa các quốc gia. Các Tổ sư của các triều đại đã làm công tác chú sớ giải thích Tam tạng bảo điển, đã thúc đẩy người đương thời hiểu rõ Phật giáo. Các tự viện lấy sự nghiệp khắc kinh, chép kinh, in kinh để lưu thông Phật pháp, càng mở mang trí tuệ cho nhân loại. Ngoài ra, các danh lam đại tự xưa nay không chỉ có kiến trúc hùng vĩ, điêu khắc nặn tượng trang nghiêm, sân vườn tao nhã, hoa và cây sum suê, mà còn bố trí hàng tranh, hiệu sách, giống như thánh điện của văn hóa, khiến người ta lưu luyến đến quên cả về. Các đoàn vũ đạo, đoàn hý khúc được đào tạo ở chốn đạo tràng, các kiểu biểu diễn được thực hiện vào dịp khánh tiết, không chỉ nhằm đạt tới hiệu quả gửi gắm giáo dục trong âm nhạc, mà đồng thời cũng đã kích thích sự trưởng thành của văn hóa nghệ thuật đương đại.

3. Sự nghiệp phúc lợi: Hàng ngàn năm trở lại đây, tín đồ Phật giáo dựa vào các lời giáo huấn, đã xây cầu, đắp đường, làm giếng, làm trại, bố thí trà, cúng dường đèn đuốc; bên cạnh đó, xây dựng thiết kế nhà thuyền (trên thuyền được thiết kế kiểu nhà ở), phòng chuyên để xe, phòng ngủ, vựa hàng, cung cấp dịch vụ như tàu bè xe cộ, ăn uống ngủ nghỉ, đồ ký gửi…, nhằm giúp đỡ lữ khách vãng lai; khai khẩn đất hoang biến thành những cánh đồng phì nhiêu, và đồng thời nỗ lực nghiên cứu cải tiến cây trồng, thúc đẩy phát triển nông nghiệp; trồng cây gây rừng, cùng với việc khơi sông xây đập, đối với công tác phòng chống lũ lụt có những đóng góp vô cùng to lớn; khai sơn lấy quặng, để quốc gia sử dụng, và khi quốc gia lâm nạn, một mặt quyên tiền quân phí, một mặt làm yên lòng dân. Các biện pháp như tiền vay[15], xướng y[16] cũng như thu chi kiếm lời[17] của Phật giáo, đối với tín chúng mà nói, là một lợi ích thực tế đáp ứng những nhu cầu bức thiết. Đối với Tăng đoàn mà nói, có thể tích lũy quỹ hoằng pháp, đấy không những là một bước đột phá lớn trong giới tôn giáo của Ấn Độ bấy giờ, mà còn là khơi dòng cho các ngành sau này như ngân hàng, bảo hiểm, cầm đồ, bán đầu giá.

4. Sự nghiệp từ thiện: Vào thời Phật còn tại thế, Tỳ-kheo (Bhiksu) Đà La Bà Ma La năng quảng cần suất, thí lập trai giảng” (hay siêng năng cần cù, thiết lập trai giảng bố thí); Tỳ-kheo Sai Ma (Sama) chiêm thị bệnh giả, cung cấp y dược; tứ sự cúng dường, y bị ẩm thực” (khi nhìn thấy người bệnh, cung cấp thuốc thang; cúng dường y phục, ẩm thực, ngoại cụ, thang dược (hoặc phòng xá, y phục, ẩm thực, thang dược), mền áo đồ ăn thức uống); Tỳ-kheo-ni (bhiksuni) Tu Dạ Ma khéo việc giáo hóa, dùng lập đàn hội bố thí, sắp xếp chỗ ngồi chỗ nằm; Tỳ-kheo Thủ Già (ca) thì:dục dưỡng chúng nhân, thí dữ sở phạt” (nuôi dạy mọi người, bố thí mọi thiếu thốn); còn Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathapindika):“Môn bất an thủ, bất cự nghịch chư hành lộ phạt lương giả” (cửa không đóng chặt, không từ chối những người đi đường thiếu lương thực), vu tứ thành môn, thị trung, gia trung quảng hành huệ thí (ban ơn huệ đến khắp bốn cửa thành trong thành thị, và trong mỗi nhà)…, những việc làm này đều là tiên phong của sự nghiệp công ích.

Kể từ cuộc giải phóng nô lệ của Phật đồ và phong trào bảo hộ phóng thích tù nhân từ thời vua Bình Sa[18] Ấn Độ và Bắc Ngụy Trung Quốc trước nay, các cao Tăng như Trí Giả, Thiện Đạo[19] đã dùng uy đức cảm hóa thiện căn của các thợ săn, dân chài, người buôn thịt, khiến họ tự động chuyển nghiệp; ngày nay thì các Phật tử tích cực tham gia các tổ chức bảo vệ động vật và các cuộc vận động bình đẳng sinh quyền (quyền được sống của các động vật hoang dã). Từ vườn Cô Độc[20] của Lương Vũ Đế, Phúc Đức xá[21] của vua Văn Tuyên Cánh Lăng, đến các cơ sở phụng dưỡng người già, giáo dục trẻ nhỏ của giới Phật giáo hiện đại; từ Dược tạng[22] của vua A Dục (Asoka), Lục tật quán[23] của Thái tử Tề Văn Huệ, Dưỡng bệnh phường[24] của nhà Đường, Phước Điền viện[25] của nhà Tống, đến bệnh viện, phòng khám bệnh mà các Phật tự hiện đại lập ra; từ Bàn-già-vu-sắt hội[26] (Pancavarsika-maha) mỗi 5 năm tổ chức một lần, các nhân vật như Lương Vũ Đế Trung Quốc, Thiên Hoàng Suy Cổ (すいこてんのう Suiko Tennō) Nhật Bản phát triển rộng Vô-già đại hội[27] (Panca-varsikamaha), Tăng kỳ túc của thời Bắc Ngụy trước nay, cho đến các hoạt động cứu tế xuyên lục địa của các đoàn thể Phật giáo hiện đại; từ Lậu Trạch viên[28], nghĩa mộ[29] thời nhà Tống trước nay, đến thí quan (bố thí quan tài chôn cất người chết), thí khám (bố thí bàn thờ), cho đến phòng bệnh trị an, trợ niệm vãng sinh v.v…, đã giúp đỡ vô số chúng sinh. Ngoài ra, mỗi khi gặp loạn lạc chiến tranh, chùa viện Phật giáo đều chủ động thu chứa quân dân, cung cấp đồ ăn thức uống. Những năm mất mùa, đói kém, Tăng lữ Phật giáo cũng thao thức xót xa, chạy vạy khắp nơi quyên góp giúp đỡ, bố thí tất cả của cải trong chùa, nhưng lòng vẫn cảm thấy rất vui sướng. Tất cả những điều này có thể cho thấy rằng chỉ cần nơi nào Phật giáo hiện hữu, thì nơi đó có pháp thủy từ bi, làm dịu cơn đau của con người, gột sạch nỗi bi ai thống khổ.

Theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, vật chất ngày càng phong phú, nhưng văn hóa xã hội và đời sống tinh thần của loài người trái lại, càng thấy sa sút. Vì vậy, đang lúc đạo đức đi xuống, bạo lực nhiều nơi diễn ra, thì sự nghiệp công ích giáo hóa xã hội và tịnh hóa nhân tâm ngày một trở nên quan trọng. Hầu hết các sự nghiệp công ích ngày nay phần lớn chỉ thiên về giải quyết phần ngọn mà không giải quyết tận gốc, việc phục vụ xã hội chủ yếu là xem xét tính chất bên ngoài để cứu trợ là chính. Xét thấy và xét cho cùng thì “cứu tâm” mới là cách có thể chữa trị tận gốc rễ. Ngoài việc đẩy mạnh sự nghiệp công ích cứu trợ của cải vật chất bên ngoài, tiến xa hơn, Phật giáo còn tích cực đóng vai trò giáo hóa xã hội, thanh lọc lòng người.

Bao năm qua, hội Phật Quang Quốc tế không ngừng tổ chức các phong trào như: “Tịnh hóa nhân tâm thất giới vận động”[30] , “Tam hảo vận động” (Vận động ba tốt: làm việc tốt, nói lời hay, giữ tâm tốt), “Giam ngục Tam quy ngũ giới”[31], “Phản yên độc vận động” (Phong trào phản đổi hút thuốc), “Thiền Tịnh Mật tam tu pháp hội” (Pháp hội tu ba pháp môn Thiền-Tịnh-Mật), “Từ bi ái tâm liệt xa” (Chuyến tàu từ bi thương yêu) v.v…, tất cả đều là những ví dụ minh chứng tốt nhất cho công năng giáo hóa nhân tâm xã hội mà Phật giáo phát huy.

Từ thiện bố thí cố nhiên mang lại lợi ích cho xã hội cộng đồng, nhưng sự nghiệp công ích “giáo hóa xã hội” và “tịnh hóa nhân tâm” càng có thể siêu vượt thời-không, ích lợi cho chúng sinh rộng khắp mười phương ba đời. Vì thế, kinh Kim cang nhấn mạnh công đức hoằng dương bốn câu kệ còn hơn cả công đức bố thí thất bảo tam thiên đại thiên thế giới. Vì vậy, sự nghiệp công ích lấy việc giáo hóa xã hội nhân tâm làm mục tiêu mới có thể tìm cầu phúc lợi một cách chân chính cho chúng sinh, viên mãn bi tâm “đồng thể cộng sinh”.

(Nguồn: Tinh Vân (2008), Phật giáo và thế tục, NXB. Từ Thư Thượng Hải, tr.87-91)

 

Các ghi chú: 1, 2, 3, 8, 10, 27, 28, 30, và 31 là do người dịch thêm vào.

 


 

[1] Vô duyên t bi: Pht có tâm t bi rng ln, dù không có liên quan gì vi chung sinh, nhưng cũng phát ra tâm đại t mà cu độ chúng sinh. (Pht hc thường kiến t hi Từ đin đin t). Đồng thể đại bi: Quán hết thy chúng sinh vi thân ta là cùng mt th, từ đó sinh khi lòng trc n cu kh ban vui, bình đẳng tuyt đối. (Duy thc danh t bch thoi tân gii Từ đin đin t).

[2] Là ch cho vn vt trong vũ trụ đều là chúng duyên hòa hp, ta người cùng sinh cùng tn. Cũng tc loài người là động vt qun cư (sng t tp), bt lun là ăn, mc, , đi - nhng th vt dng mà chúng ta th nhn hàng ngày đều là nhng thành qu tương h qua li ca đại chúng mà có, đặc bit là s hin đại ca thông tin đại chúng, người người càng không th ri qun chúng mà sng mt mình. (Xem Bài Luân lý quan Pht giáo, in trong tác phm Pht giáo và thế tc ca Tinh Vân. NXB. T Thư Thượng Hi, năm 2008, tr.103).

[3] Tc là khi b thí, thì người b thí, người nhn b thí và vt được b thí, gi là tam luân. Sau khi hành thí, thì tướng tam luân này, không chp dính trong tâm, gi là tam luân th không. (Pht hc thường kiến t hi Từ đin đin t).

[4] Nghĩa là tch dit, dit độ, vô sinh. Kinh Niết-bàn nói: Dit chư phin não, danh vi Niết-bàn. (Dit tr các phin não, gi là Niết-bàn). Nói mt cách đơn gin, Niết-bàn chính là sau khi tri qua tu hành mà dit tr tt c phin nào như tham dc, sân hn, ngu si, vô minh, tà kiến, thphi v.v, đạt được mt thế gii bt sinh bt t, vt ngã đều không còn, viên mãn quang minh, t do t ti, cũng chính là Dit đế trong T Thánh đế, là mc tiêu sau cùng ca hc Pht.

[5] Tc là rung có th sinh phước đức. Theo kinh Pht, vic kính Pht, Tăng, ph mu, nhng người khổ đau..., đều có thể được phước đức, công đức. Ging như nông phu cày rung có th có thu hoch, cho nên ly rung làm ví d; còn Pht, Tăng, ph mu, nhng người đau kh, thì được gi là phước đin. Do da vào đối tượng được b thí, cúng dường khác nhau, li có ba loi phước đin: bi đin, ân đin, kính đin; và Pht, Thánh nhân, Tăng nhân, Hòa thượng, A-xà-lê, Cha, M, người đau kh là tám loi phước đin.

[6] Phm nghĩa là thanh tnh, ly dc. Sc gii chư thiên ly dc thanh tnh, gi chung là Phm thiên (Brahma). Nhưng thông thường li gi là Phm thiên, đa số đều chỉ Đại Phm thiên vương (Mahabrahma), còn gi là Phm vương, tên là Thi Khí (Sikhin) hoc Chthế (Prajapati, Thánh ch Thế tôn). Trong truyn thuyết xưa n Độ, là thi kiếp sơ (kalpagra, ch s ban đầu thành lp thế gii hu tình ca dc gii) h sinh nhân gian t tri Quang âm (Abhasvara), to ra vn vt, trong Pht giáo ly đó cùng vi tri Đế Thích (Sakra Devanam -indra) làm thn h pháp ca Pht giáo.

[7] Còn gi là Tháp-bà, Phù-đồ (), Phù-đồ (). Pht tháp, tc gi là bo tháp, là mt kiến trúc Pht giáo cao sng sng, khái nim và hình dng cu to ca nó có ngun gc t Sut-đổ-ph (Stupa) ca n Độ. Stupa là công trình kiến trúc vn dùng để tôn trí xá-li và di vt ca Đức Pht.

[8] Đây là bn cung bc th tự được Đức Pht thuyết pháp giáo hóa. Còn gi là th giáo tán h, th giáo chiếu h. 1. Th: t rõ nghĩa này, ging như rõ biết cái thin, bt thin ca con người, rõ biết vic nên làm, hay không nên làm; hoc như phân bit nghĩa sinh t và Niết-bàn, Tam tha và Lc độ ba-la-mt; 2. Giáo: dy bo vic làm này, như hướng dn chúng sinh bỏ ác hành thin; 3. Li: tc đạt được nghĩa li, lúc chúng sinh chưa đạt được mùi v ca thin pháp, để tránh thi tâm, lin khuyên bo chu khó chu kh tu hành, thì được pháp v li ích ln; 4. H: tc là hoan h mà tu hành. Tùy kh năng làm ca chúng sinh mà khen ngi, khiến tâm h vui v. (Pht hc đại từ đin Từ đin đin t).

[9] Mt loi thiết b li dng sc nước sn xut động năng để nghin go, làm bt. Người Trung Quc là dân tc ly go ăn làm chính, vào thi đại công nghip chưa phát trin, nông thôn đều da vào nhân công nghin go, không ch phí thi gian li còn mt sc. Thi Đường Tng, các t vin bt đầu lp thêm công xưởng xay lúa, như chùa Thiên Đồng Minh Châu có thiết trí ci đá giã go bng sc nước; vin Hu An, vin Lăng Già ca Đài Châu cũng có thiết trí loi ci đá. Do vì t vin có thiết b ci xay lúa này, không ch thun tin cho bn thân t vin, cũng mang đến đặc ân cho dân chúng bn địa, tăng thêm giá tr kinh tế nông nghip.

[10] Tc ch mt loi nô l l thuc vào chùa vin ca thi đại Bc Ngy; còn gi là t h. Năm Tha Minh Nguyên Hiếu Văn Đế (476) Bc Ngy, do s tu thnh ca Sa-môn Đàm Diu - quan thng nht qun lý Pht giáo lúc by gi, nên Hiếu Văn Đế cho phép nhng k phm trng ti và quan t làm nô tỳ ở chùa vin, làm tp dch trong chùa, cho đến canh tác đất đai t vin. Từ đó, rung đất, cũng như tài sn ca chùa, ngày mt gia tăng. (Pht hc đại từ đin và Trung Hoa Pht giáo bách khoa toàn thư Từ đin đin t.)

[11] Trong thi k Bc Ngy, đô thng Đàm Diu chùa Chiêu Huyn tu thnh Văn Thành Đế thiết lp chế độ “Tăng k hộ” ở các châu trn, tc mi năm gp lúc được mùa, thì nhân dân ly 16 hc kê (đời Đường chế làm 3.600 thăng), đậu, thóc lúa giao np cơ quan Tăng Tào (tng cơ quan qun lí chùa vin, ging như Tng hi Pht giáo bây gi), để phòng gp lúc mt mùa cu giúp dân đói khát. H dân giao np thóc lúa gi là “Tăng k hộ”, còn thóc lúa được giao np thì gi là “Tăng k túc. Nhng Tăng k túc này d tr li, gp năm mt mùa tht bát, thì có thể đem ra s dng giúp đỡ, đợi đến năm được mùa, thì tr li cho chùa vin. Đây là chế độ được thiết lp cu tế cho dân đói khát, tính cht na ná vi nông hi, hp tác xã ngày nay.

[12] Bt đầu Nam Bc triu, chùa vin thiết lp đơn v tài chánh cho vay tin bc, nhm to điu kin cho người dân có nhu cu vay dùng xoay vòng. Tăng Trù truyn trong Tc Cao Tăng truyn ghi chép: Văn Tuyên Vương Bc T, sc ch gi vàng bc và y phc cho Tăng Trù, ra lnh thiết đặt nhà kho để đóng np ngay ti trong chùa, ly đó cung cp làm thường phí hoc th khác trong chùa. Vào thi triu Tùy, Đường - Tng, s thiết đặt t kh này vn còn tiếp tc lưu truyn. Thi triu Tng tng đổi thành Trường sinh khố”, đến triu Nguyên thì gi là “Gii đin khố”, tc là đồ thế chp do người dân mang li để cm c, thu gom np vào t kh, ging như tim cm đồ ngày nay.

[13] Tương t vi tính cht t kh, được Thin sư Tín Hnh chùa Hóa Độ triu Đường sáng lp, mc đích thiết lp có ba: cu tế dân nghèo, lưu thông kinh tế xã hi, d tr lương thc tu đạo trong chùa vin.

[14] Được b trí ngay trong chùa Nālandā, là trường đại hc Pht giáo ca n Độ, Tăng đồ thường lên đến vn người, tu hc Mười tám b, Ph-đà (Veda), Nhân minh, Thanh minh, Y phương, Thut s v.v ca Đại tha và Tiu tha.

[15] Năm th ba Khai Hoàng (năm 583) Tùy Văn Đế, thiết lp mười sáu kiu Vô tn tng hàng, khuyến hóa tín đồ thí x tin bc lương thc, ri t trong kho t vin, li b thí hoc cho tín đồ nghèo kh vay mượn.

[16] Do s xướng ha hòa hp ca Tăng, sp xếp các vt như ba y khi Tăng qua đời (vong Tăng). Li na, nếu lúc còn sng vong Tăng ph trách, hoc vì lúc phi dùng chi phí như dưỡng bnh, mai táng, thì thường đều do Duy-na (karma-dana) xét duyt giá c di vt, tp hp Tăng chúng li bán đấu giá để li, gi là c xướng, đề y, c y, hoc gi là mi y.

[17] Tc này bt ngun từ Ấn Độ, căn c ghi chép trong Xut na cu li hc x quyn 22 T-ni-da (Vinaya) Hu b, T-kheo vì tu bGià-lam (samgharama) mà tiếp nhn vô tn thí vt (vt phm b thí không hn định), nhưng do Đức Pht tng cm T-kheo chuyn bán thí vt, vì thế đem vt phm được b thí ct vào phòng kho, v sau thí ch phát hin t vin chưa thc hin sa cha, thì trách c, T-kheo đem vic này bch vi Đức Pht, Ngài lin ch th: Nếu vì tu bGià-lam, thì có thể đem vô tn thí vt xoay chuyên sinh li.

[18] Còn gi là vua Tn bà Sa La (Bimbisara), vua nước Ma-kit-đà (Magadha), là đời th5 ca vương triu Tây--np-da (Saisunaga).

[19] Trí Gi, tc đức hiu ca Đại sư Trí Nghĩ (Zhì Yǐ/智顗, 538-597) Thiên Thai tông. Người dch thy hu hết sách tiếng Vit đều phiên nhm tên ông thành Trí Khi. Năm th 11 Khai Hoàng (591) nhà Tùy, Dương Qung vua nhà Tn th gii B-tát (bodhisattva) t Trí Nghĩ, ban tng đức hiu Trí Gi. Thin Đạo (613-681) v Tăng đời Đường, hiu Đại sư Chung Nam, yết kiến Đạo Xước (562-645), tu hc pháp phương đẳng sám pháp, li nghe ging kinh Quán vô lượng th. V sau chuyên vào nim Pht, mt lòng cn mn kh luyn, thế là đắc tam mui nim Pht, trong định chính mình gp thy cõi Tnh độ trang nghiêm.

[20] Thy ‘Đế bn kỷ’ quyn 3 trong Lương thư: Phàm dân là người già cô chiếc tr em m côi, không th t nuôi ni bn thân, thì các qun gia tăng nhn nuôi, chn phát thc ăn đồ mc, nhà nhà đủ để sut đời. Li thiết đặt vườn Cô độc Kinh Sư, để tr m côi có nơi quay v, tóc trng bc đầu, hoc lúc sp cui đời, sp xếp lo hu s, đặc bit nhà nghèo, thì không thu tô thuế.

[21] Tc Phúc xá, dng nhà tp th dành cho l khách, người nghèo khó s dng. khp n Độ đều có thiết lp kiu phong tc túc xá này, để tin cho thường dân s dng. Điu Trách-già quc (Takka, Taka, nước c bc n Độ) quyn 4 trong Đại Đường Tây vc ký chép, nước này trước đây thiết lp nhiu Phước xá, để cung cp cho nhng người khó khăn thiếu thn, hoc b thí dược phm, hoc b thí các vt thc v.v, khiến l khách không lo thiếu thn. Cũng cùng quyn này, điu Mt-để-b-la quc hàng hà môn ghi, thường có đến my trăm ngàn người t phương xa về đây tm ra, chư vương bèn hoan h xây dng phúc xá, để đáp ng nhu cu ca cng đồng dân chúng. nước Khiết-bàn-đà (Khabandha) nm ngoài ranh gii n Độ cũng có xây dng loi này. Ngoài ra, trong kinh Tp A-hàm quyn 36, lut Thp tng quyn 20 v.v, thì gi loi nhà ở tp th này là Phúc đức xá.

[22] Thi vua A-dc (Aśoka), có mt T-kheo (bhiksu) vì bnh mun có thuc ung mà không được, vua bèn xây dng kho dược tàng (nơi để dược phm) bên ngoài bn ca thành trong nước, b thí thuc men cho tt c T-kheo, còn Trung Quc thì được xây dng vào thi Đông Tn (317-420).

[23] Là mt trong nhng cơ quan t thin sm nht thi cổ đại Trung Quc. Điu Văn Hu Thái tử’ quyn 21 Nam T thư: Thái t cùng vi Cánh Lăng vương T Lương đều mến Thích-Đạo, lp nên sáu bnh quán, để nuôi cha dân nghèo.

[24] Thu nhn nhng người cùng kh tàn tt, không nơi nương ta, tc như cơ quan t thin chuyên b thí cho người tàn tt, ăn xin. Đời sau cũng có tên gi chung là vin dưỡng tế, tc vin bi đin vy.

[25] Tc vin cu Tế, chuyên nhn nhng người già tr con tàn tt, nhng người không nơi nương ta. Trước niên hiu Gia Hu (1056-1063) triu đại Bc Tng (960-1127), xây dng Vin Phước đin Đông tây Kinh Thành, năm th 8 Gia Hu li xây thêm Vin Phước đin Nam bc, để b trí người già c tr con nghèo nàn bnh tt. Căn c ghi chép trong Cu đường thư và Đường hi yếu, vào trước triu đại nhà Tng, nhà Đường đã có xây dng vin Bi đin, cũng có vai trò thu nhn người nghèo khn khó, triu đại nhà Tng bt chước l cũ, đổi thành vin Phước đin.

[26] Còn gi là-già đại hi, Ngũ niên công đức hi, Ngũ niên hi. Đức Pht sau khi nhp dit khong trăm năm, vua A Dc (Aśoka) bt đầu thiết lp k hi này, là đại tp hi do các bc vương gi hoc chư hu qun thn, mi năm mt ln, ly vic thiết đãi yến tic b thí rng rãi cho Tăng chúng. Mt thi thnh hành các nơi như Ấn Độ, Tây Vc, đại hi đa phn tiến hành vào mùa xuân, t hi chư Tăng gn xa, mà thc hin đủ loi cúng dường. Thi gian ca l hi dài nht thường 3 tháng.

[27] Là l trai tnh ln ca Pht giáo, để kết ni thin duyên khp nơi. Không phân bit giàu hèn, Tăng tc, thin ác, hiu biết hay ngu dt, tt cả đều có th bình đăng tham gia.

[28] Nơi chôn ct thi hài vô ch và người nghèo không có đất h táng, là mt công trình phúc li cổ đại Trung Quc, nó ging như nghĩa trang công cng.

[29] Trước triu đại nhà Tng, ch có tư nhân hoc phía nhà nước đứng ra nghĩa táng dân lưu lc, gn như không có quy định c th gì. Sau nhà Tng, chính ph b trí nghĩa địa công cng, đồng thi quy định hóa, do Tăng l ch trì, gi là Lu trch viên, có cách qun lý cố định ca nó. Tuy nhiên, gp thi binh tai lon lc hoc dch bnh hoành hành, không th phát huy công hiu, cho nên mt vài châu huyn nào đó nhm để đáp ng nhng đòi hi người dân đương thi, đã thiết lp nghĩa m khác (phn m chôn người chết vô ch ngày xưa), và thnh Tăng l ch trì. Chng hn như vào năm th 2 Kiến Viêm (1127-1130), Kim binh Nam h (binh sĩ nhà Kim phía Nam), Kiến Khang người chết lên ti 4/10, Dip Mng Đắc (1077-1148) triu tp Tăng l các chùa Hoa Tng, Năng Nhân, Bo Ninh, Thanh Lương, tng xây đựng được 8 nghĩa m, mai táng di hài.

[30] Là vn động by điu khuyên nh (khuyến cáo), nhm tnh hóa nhân tâm: không nên hút thuc, không dùng bo lc, không nên trm cp, không nên bài bc, không nên nát rượu, không nên ác khu.

[31] Làm l truyn th Tam quy ngũ gii cho các tù nhân trong tù ngc, k vng sau khi mãn hn vòng lao lý, bước ra xã hi thì h có th làm mi li cuc đời, hành nhiu vic thin, sng có ích cho xã hi.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle