Minh Thạnh
1)
Lịch sử
Phật giáo Chăm nên được coi là một phần
của lịch sử Phật giáo Việt Nam
Với
sự phát triển của khoa học xã hội, những
quan điểm mới đã được triển khai
trong nghiên cứu lịch sử văn học, nghiên cứu
lịch sử mỹ thuật… Theo đó, lịch sử
văn học, lịch sử mỹ thuật… của các dân
tộc anh em sống trên lãnh thổ Việt Nam, trong đó
có dân tộc Chăm.
Đi
vào cụ thể, lịch sử mỹ thuật Chăm chẳng
hạn được coi là một phần của lịch
sử nghệ thuật Việt Nam. Quan điểm như
thế là rất rõ ràng qua cách thể hiện hình ảnh
tháp chăm, các cổ vật Chăm như là những giá trị
của nghệ thuật Việt Nam…
Nhưng
dường như các nhà nghiên cứu lịch sử Phật
giáo chưa đi đến quan điểm thống nhất
về việc xem lịch sử Phật giáo Chăm là một
phần của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Trong
cái nhìn của nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo Việt
Nam, Phật giáo Chăm được xem như Phật
giáo một nước ngoài, hơn là một bộ phận
của Phật giáo Việt Nam theo một quan điểm rộng
hơn, nhìn nhận lịch sử các dân tộc anh em sống
trên lãnh thổ Việt Nam chính là một phần cấu
thành lịch sử Việt Nam.
Do
đó, chúng tôi đề xuất với tăng ni Phật tử
Việt Nam quan điểm mới, xác định lịch sử
Phật giáo Chăm là một bộ phận của lịch
sử Phật giáo Việt Nam.
Khi
nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam không thể
bỏ qua lịch sử Phật giáo Chăm. Một nền
Phật giáo đã từng phát triển rực rỡ trên
lãnh thổ Việt Nam và nghệ thuật Chăm phát triển
từ Phật giáo đã được coi là một phần
của nghệ thuật Việt Nam.
Dân
tộc Chăm hiện nay là một trong 64 dân tộc anh em
sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, vì vậy, dù rằng
Phật giáo đã hoàn toàn tiêu vong ở dân tộc Chăm,
nhưng việc đi đến quan điểm như thế
là tương tự với quan điểm xem Phật giáo
Khmer Tây Nam Bộ là một phần không thể tách rời của
Phật giáo Việt Nam, lịch sử Phật giáo Khmer Tây
Nam Bộ là bộ phận hợp thành lịch sử Việt
Nam.
2)
Phật
giáo Chăm đã phát triển trong hơn 1000 năm
Căn
cứ vào bia Phật giáo Chăm, đặc biệt là bia Võ
Cạnh, gọi theo tên nơi tìm thấy là làng Võ Cạnh,
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, niên đại lập
bia cuối thế kỷ II, đầu thế kỷ III,
các nhà khoa học phỏng đoán rằng Phật giáo có thể
được truyền bá vào Chăm pa vào khoảng thế
kỷ I sau Công nguyên.
Theo
học giả Pháp L. Finot, nội dung bia là lời quốc
vương nhận thức về lẽ vô thường của
cuộc đời, về lòng từ bi với chúng sinh, tức
là những nguyên tắc cơ bản của đạo Phật.
Thế kỷ I sau CN là giai đoạn phát triển của
văn hóa Ấn Độ sang đất nước lân cận.
Tuy
nhiên, đường biển và đường bộ từ
Trung Hoa cũng được xem là một hướng mà
đạo Phật được hoằng hóa ở
Chăm pa, vì dấu ấn Phật giáo Đại Thừa với
các tượng Bồ Tát (Lokesvara).
Chăm-pa
là một quốc gia trải đọc ven biển, có nhiều
cảng, vì vậy giao thông biển rất phát triển, bờ
biển và các cảng biển Chăm-pa là cửa ngõ đón
nhận sự hoằng hóa của Phật giáo.
Học
giả Pháp George Coedes cho rằng, đến thế kỷ
III, Phật giáo đã phát triển mạnh mẽ ở vùng
mà ngày nay là Nha Trang. Thời kỳ này Phật giáo là tôn giáo của
triều đình.
Một
trung tâm Phật giáo Chăm khác đã có thể là khu vực
Ninh Thuận, lúc bấy giờ là xứ Panduranga.
Cho
rằng Phật giáo đến Chăm-pa từ nhiều
hướng như thế vì các tượng Phật
Chăm tìm được có tượng được coi
là mang phong cách Ấn Độ, có tượng thì có vẻ
lại chịu ảnh hưởng Trung Quốc.
Các
di vật, nhất là tượng Phật, Bồ tát cho thấy
Phật giáo Chăm hưng thịnh liên tục vào các thế
kỷ sau đó. Ngoài di vật, đặc biệt có việc
ghi nhận hang động được người
Chăm sử dụng thờ Phật.
Tượng
Phật, bia Phật, hang động thờ Phật đã tạo
nên diện mạo Phật giáo Chăm hơn 10 thế kỷ.
Hai
trung tâm Phật giáo lớn trên lãnh thổ Việt Nam là Luy
Lâu (nay thuộc Bắc Ninh) và khu vực nay thuộc khoảng
Nha Trang tương đồng về thời gian phát triển
hưng thịnh.
Năm
875, một trung tâm Phật giáo lớn được hình
thành còn lưu di tích đến ngày nay là Phật viện
Đồng Dương.
Sách
Việt Nam Phật giáo Sử luận của tác giả Nguyễn
Lang cho chúng ta biết năm 1069, vua Lý Thánh Tông đã phát hiện
khi đưa từ Chăm-pa về nước Thiền
sư Thảo Đường từ đó lập một
dòng thiền mới tại Đại Việt. Phật giáo
Chăm được coi là một hướng hoằng
pháp vào Đại Việt. Trước đó, thì vua Lê Đại
Hành cũng đưa từ Chăm về một thiền
sư Ấn Độ.
Phật
Viện Đồng Dương trong thực tế là một
trung tâm Phật giáo quốc tế. Phật giáo Chăm
đã thu hút được Sư tổ Trúc Lâm Yên Tử
đến vân du vào năm được ghi là 1301.
Tuy
không còn kiến trúc, nhưng di vật tượng Phật,
bệ thờ, nền móng cho thấy trung tâm Phật giáo
Đại Thừa này tạo thành một đỉnh cao
hưng thịnh mới cho Phật giáo Chăm.
Sự
hưng thịnh của Phật giáo Chăm kéo dài khoảng hơn
1000 năm. Sự suy vong của Phật giáo Chăm kéo dài
qua nhiều thế kỷ cho đến thời điểm
người Chăm cải đạo sang Hồi giáo thế
kỷ XVI-XVII. Nhưng trước đó là quá trình phát triển
của đạo Bà La Môn.
3)
Điều
rất đáng suy nghĩ là nguyên nhân suy vong của Phật
giáo Chăm
Tuy
phát triển rực rỡ, nhưng Phật giáo Chăm
đã đi vào suy thoái, đến mức tiêu vong hoàn toàn, hầu
như không để lại dấu vết gì trong đời
sống tinh thần của người Chăm hiện nay.
Bản
dịch tóm tắt bài viết “Bàn
thêm về thời điểm người Chăm ở Việt
Nam theo Islam giáo”, của tác giả Nguyễn Bình, đăng
trên tạp chí “Nghiên cứu Tôn
giáo” số 06 (132), 2014 đã dùng từ “converted” nghĩa
là cải đạo.
Trong
cùng số tạp chí trên, tác giả Quảng Văn Sơn,
với bài viết “Phật giáo
Champa từ tư liệu đến nhận thức”
đã nêu lên những nguyên nhân. Điều đáng nói là quá
trình cải đạo của người Chăm, tuy chịu
tác động của nhiều nguyên nhân, trong đó có tác
động ngoài nước nhưng không thấy có việc
ghi nhận cải đạo bằng bạo lực.
Người Chăm đã cải đạo trong sự lựa
chọn, khác với trường hợp cải đạo
sang Hồi giáo ở nhiều nơi trên thế giới, cải
đạo dưới tác động của bạo lực.
Vì
vậy, sự suy tàn và tiêu vong của Phật giáo Chăm, rất
đáng được nghiên cứu, và nghiên cứu như một
bộ phận của lịch sử Phật giáo Việt
Nam. Nghiên cứu việc cải đạo của người
Chăm giúp chúng ta hiểu được sự thịnh
suy của Phật giáo trên một khu vực của lãnh thổ
Việt Nam.
Việc
cải đạo dưới áp lực của sự
đe dọa, cưỡng bức đơn giản, dễ
hiểu, cũng như ít có giá trị tham khảo cho đời
sau so với cải đạo tự lựa chọn, bằng
truyền bá phi bạo lực. Sự tiêu vong Phật giáo
Chăm cần được tìm hiểu trên tinh thần
như vậy.
Dưới
đây là toàn văn phần kết luận về nguyên nhân
tiêu vong của Phật giáo Chăm của nhà Chăm học
Quảng Văn Sơn, trong tài liệu đã dẫn. Nội
dung bình luận đối với những luận điểm
được nêu ở đây sẽ được trình
bày trong bài 2.
“Nguyên nhận sự tiêu vong của
Phật giáo Champa
Sau một thời kỳ dài
hưng thịnh, Phật giáo Champa dần bị tiêu vong. Sự
tiêu vong của Phật giáo Champa, theo chúng tôi, do các nguyên nhân
khách quan và chủ quan sau đây:
Về nguyên nhận chủ
quan: Thứ nhất, nhà nước Champa được tổ
chức theo thể chế liên bang, mà nhiều nhà khoa học
gọi là Mandala, chứ không trung ương tập quyền
như Đại Việt và Trung Hoa. Vì vậy, sự thay
đổi vị trí của các tiểu vương trong việc
nắm quyền lãnh đạo vương quốc Champa dẫn
đến tư tưởng có thể thay đổi.
Điều này thể hiện cụ thể trong lịch sử
vương quốc này. Nếu như thời kỳ
Indrapura, Phật giáo chiếm vị trí chủ đạo
trong đời sống chính trị xã hội, thì đến
thời kỳ Vijaya, tôn giáo này mất dần ảnh hưởng
và đi đến tiêu vong. Thứ hai, cộng đồng
xã hội người Chăm bị chi phối rất lớn
bởi tôn giáo. Điều kiện này góp phần dẫn
đến việc Phật giáo chấm dứt sự tồn
tại của mình. Người dân có thể theo Phật
giáo, Bà La Môn giáo hoặc Islam giáo. Thứ ba, Phật giáo
Champa không có vai trò to lớn như Bà La Môn giáo trong việc củng
cố sự thống trị của vương quyền
và thần quyền. Bà La Môn giáo chủ trương phân chia
đẳng cấp nhằm duy trì sự ổn định
xã hội, trong khi đó Phật giáo quan niệm ngược
lại, nên xảy ra sự mâu thuẫn giữa hai tôn giáo
này. Sự mâu thuẫn làm cho hai tôn giáo không thể chung sống
một cách hòa bình, dẫn đến sự tiêu vong của
Phật giáo. Thêm nữa, người Chăm có sự nhạy
bén trong tiếp nhận văn hóa ngoại lai, bởi họ
là cư dân biển, thương nghiệp phát triển chứ
không như văn hóa Đại Việt tĩnh tại. Nền
văn hóa Chăm mang tính chất động như vậy,
cho nên năng lực tiếp nhận rất lớn và dễ
thay đổi.
Về nguyên nhân khác quan: Các cuộc
chiến tranh với Đại Việt góp phần làm mất
dần vai trò Phật giáo Champa. Champa và Đại Việt
trong lịch sử đã nhiều lần xung đột với
nhau, làm cho vương triều Indrapura bị xóa sổ, dẫn
đến việc Phật giáo Champa không còn chiếm địa
vị thống trị nữa. Bên cạnh đó, sự xâm
nhập của Islam giáo làm cho trung tâm Phật giáo lớn ở
Đông Nam Á là Indonesia sụp đổ. Phật giáo Champa
cũng nằm trong xu hướng nêu trên. Việc tiêu vong của
Phật giáo Champa còn do sự chấn hưng Bà La Môn ở Ấn
Độ và sự tác động mạnh mẽ của tôn
giáo này đến Champa.
Ngoài ra, Phật giáo đưa
vào người Chăm những triết lý cao siêu, phong cách
nghệ thuật và kiến trúc Phật giáo độc
đáo, nhưng cũng làm tăng thêm tính bảo thủ, thụ
động, và an phận vốn có ở tộc người
này. Đây là một trong những nguyên nhân góp phần làm cho
vương quốc Champa dần suy thoái, Phật giáo ở
vương quốc này cũng dần tiêu vong”.
Thông tin, thảo luận, phản
hồi riêng và các bài tranh luận đặc biệt: vinasat132@yahoo.com, vi-vn.facebook.com/cusiminhthanh.