“Trí tuệ của tế
bào” là cuốn sách của Bruce Lipton, một trong những nhà khoa học tiên phong
trong một lĩnh vực sinh học mới (epigenetics); nói rằng chúng ta không phải là
tù nhân của bộ gene có trong người chúng ta, rằng chúng ta không phải là một cỗ
máy sinh học chỉ biết tuân theo các quá trình sinh hóa của cơ thể. Chúng ta có
thể ảnh hưởng đến các quá trình đó, hay thậm chí là thay đổi các yếu tố sinh học
của cơ thể. Đúng như câu nói cổ xưa quen thuộc “Tri thức là sức mạnh”, nếu chúng
ta bắt đầu tìm hiểu điều gì thực sự diễn ra trong cơ thể chúng ta, ta bắt đầu có
một sức mạnh tự thân để làm theo những điều ta mong muốn.
·
Link Amazon :
http://www.amazon.com/The-Wisdom-Your-Cells-Beliefs/dp/1591795222
Khám phá thế giới bên trong cơ thể
Lần đầu tiên tôi biết đến sinh học là khi học lớp 2. Thầy giáo có mang đến một
chiếc kính hiển vi, và đó là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy các tế bào, cách
chúng sống, sinh sôi và phát triển. Đó là một thế giới kỳ diệu, cho tôi thấy
nhiều hiểu biết đáng giá. Sau này, bằng kính hiển vi điện tử, tôi không chỉ quan
sát được bên ngoài của tế bào, mà còn thấy được cấu trúc, chức năng và cách tổ
chức vận hành của chúng. Nhiều người trong số chúng ta hay mơ ước về việc bay
lên vũ trụ, khám phá không gian bên ngoài trái đất; nhưng tôi thì lại thích khám
phá thế giới bên trong các tế bào; để thấy được những chân trời mới, về bản chất
của tế bào, của con người, và sự sống.
Năm 1968, tôi bắt đầu nghiên cứu về cách thức nhân bản tế bào gốc, dưới sự hướng
dẫn của Tiến sĩ Irv Konigsberg. Tế bào gốc mà tôi nghiên cứu có tên myoblast.
Myo có nghĩa là cơ bắp, còn blast có nghĩa là nguồn gốc. Khi tôi đưa tế bào vào
nơi thuận lợi cho việc phát triển, tôi đã nhận thấy rằng hướng phát triển của
chúng phụ thuộc rất lớn vào điều kiện môi trường. Trong một lần thử thay đổi các
điều kiện như vậy, cái tôi nhận được là các tế bào xương, thay vì mô cơ bắp;
thậm chí có thể thành mô mỡ. Đây là một phát hiện vô cùng thú vị, vì trước nay
giới khoa học vẫn cho rằng cách tế bào phát triển được quy định bởi bộ gene của
chúng ta, chứ không phải môi trường tế bào đó sống.
Trong quá trình làm thí nghiệm, tôi cũng bắt đầu giảng dạy tại trường đại học Y
khoa Wisconsin. Các đồng nghiệp của tôi, hiển nhiên là không đồng tình với những
kết luận đó. Mọi nhà khoa học đều ủng hộ dự án giải mã bộ gene người, và họ tin
vào câu chuyện bộ gene của chúng ta kiểm soát mọi thứ. Họ nhìn công trình của
tôi chỉ như một tình huống ngoại lệ.
Bạn là một cộng đồng của 50 nghìn tỷ tế bào
Những nghiên cứu đó khiến tôi thay đổi quan niệm về bản chất của sự sống. Theo
xã hội, bạn chỉ là một cá thể bình thường, nhưng thực sự bên trong bạn là một
thế giới của 50 nghìn tỷ tế bào đang sống, mà mỗi tế bào đó cũng là một cá thể
riêng biệt, có cuộc sống riêng, chức năng riêng và cũng tương tác, trao đổi với
những tế bào khác. Nếu tôi thu nhỏ bạn tới kích cỡ tế bào, và đưa bạn vào chính
cơ thể của bạn, bạn sẽ nhận ra rằng bên trong bạn là một đô thị rất bận rộn và
tấp nập. Hiểu biết này là quan trọng, khi bạn nhận ra rằng cơ thể bạn cũng là
một cộng động, một xã hội hay quốc gia thu nhỏ; và một cơ thể khỏe mạnh là một
nơi các tế bào chung sống hài hòa với nhau; còn cơ thể ốm yếu, bệnh tật là một
nơi các tế bào thiếu đi sự hài hòa.
Có một sự thật khác, đó là bất kỳ tế bào nào cũng mang đầy đủ chức năng của mọi
tế bào khác trong cơ thể. Trong cơ thể con người, chúng ta có rất nhiều hệ thống
: hệ tiêu hóa, hệ hô hấp, hệ bài tiết, xương và cơ, nội tiết, sinh dục, thần
kinh và miễn dịch. Nhưng tất cả các chức năng đó đều có thể tìm thấy trong mọi
tế bào ở mọi bộ phận của cơ thể. Đây là một đặc tính vô cùng hữu dụng với các
nhà sinh học, vì họ có thể chỉ nghiên cứu cách tế bào vận hành rồi suy đoán về
bản chất của cơ thể.
Nhưng ở trường đại học, điều chúng ta được (phải) dạy đó là cơ thể con người là
một cỗ máy sinh học điều khiển bởi các gene. Do đó khi bệnh nhân đến tìm gặp bác
sĩ, người ta sẽ nghĩ rằng bệnh nhân này có gì đó không ổn với với quá trình sinh
hóa hoặc gene; và chỉ cần thay đổi chúng là bệnh nhân có thể khỏe lại. Cuối cùng
điều tôi nhận thấy rằng, tôi phải rời trường đại học, vì mâu thuẫn giữa những
khám phá của riêng mình và những điều phải dạy cho sinh viên của mình.
Một hiểu biết mới về khoa học
Khi rời trường đại học, tôi có cơ hội đọc về môn vật lý, và tìm được những thông
tin trái ngược với những điều tôi được dạy về môn này. Trong môn vật lý lượng tử,
một nhánh rất mới của vật lý, có những thứ rất khác với những điều ta được dạy,
vốn dựa trên nền tảng của vật lý Newton.
Trước khi khoa học như ngày nay ra đời, khoa học chỉ là một phần mở rộng của nhà
thờ với tên gọi thần học về các vấn đề tự nhiên; vốn nói rằng cách thức bàn tay
của Chúa kiến tạo và vận hành thế giới ra sao, hình ảnh của Chúa được phản ánh
trong tự nhiên/thực tại ta sống thế nào. Thần học về tự nhiên dạy ta về một thứ
: hiểu bản chất của môi trường sống, để từ đó có thể sống hài hòa với nó, đồng
nghĩa với việc sống trong hài hòa với các vị thần và Chúa trời. Nó cho rằng con
người, tự nhiên và Chúa trời có một mối liên kết rất chặt chẽ không thể tách rời.
Tuy vậy, với quyền lực của mình, nhà thờ hay cấm đoán và ngăn chặn những hiểu
biết trái ngược với hiểu biết của họ. Điều này gây nên rất nhiều sự mâu thuẫn và
chống đối với nhà thờ Công giáo Roma; và cuối cùng dẫn đến một phong trào Cải
cách nhà thờ và ra đời của Đạo tin lành do một mục sư có tên Martin Luther lãnh
đạo đầu thế kỷ 16. Sau phong trào Cải cách đó, người dân bắt đầu có cơ hội được
nghi ngờ những niềm tin xưa cũ về thế giới và vũ trụ; và khoa học bắt đầu hình
thành và phát triển đúng theo tinh thần khoa học hiện đại của ngày nay. Những
nhà khoa học thời đó như Corpernicus, Galileo, Isaac Newton… là những người tiên
phong đặt nền móng cho khoa học hiện đại. Tuy vậy, Isaac Newton cho rằng mọi thứ
đều có thể dự đoán được, và cơ học Newton cũng cho rằng vũ trụ giống như một cỗ
máy làm bằng vật chất; nếu bạn hiểu được bản chất của các vật chất hình thành
nên cỗ máy, bạn sẽ hiểu bản chất của tự nhiên. Tuy nhiên, với tư duy đả phá, phủ
nhận và hoài nghi những giá trị xưa cũ đó; và ưa chuộng thực nghiệm, vật chất;
mục đích của khoa học hiện đại dần theo hướng tìm cách kiểm soát và chế ngự tự
nhiên, bắt tự nhiên phục vụ cho các nhu cầu của con người; điều vốn trái ngược
hoàn toàn với tôn chỉ của thần học về tự nhiên trước đó.
Sinh học cũng chẳng tránh khỏi ảnh hưởng của tư tưởng khống chế tự nhiên đó. Một
câu hỏi quan trọng được đặt ra đó là : điều gì khống chế các đặc tính mà chúng
ta thể hiện? Theo quan điểm của vật lý Newton, bạn cần chia nhỏ vấn đề đó ra
thành nhiều phần, và tìm hiểu đặc điểm của từng phần đó. Sau đó ráp nối các đặc
điểm của các bộ phận với nhau, và chúng ta có cái ta cần. Charles Darwin cho
rằng các đặc điểm của con người là do thừa hưởng của cha mẹ. Sinh học bắt đầu
nghiên cứu về việc phân chia của tế bào từ những năm đầu thế kỷ 20, và họ đã
phát hiện ra một thành tố quan trọng của việc phân bào : các nhiễm sắc thể. Tuy
vậy, cũng phải đến năm 1944, con người mới tìm ra được điều quyết định cuối cùng
mọi đặc tính của con người : DNA. Trên DNA chứa rất nhiều đoạn gene, mà mỗi đoạn
đặc trưng cho một loại protein trong tổng số hơn 100 nghìn loại protein khác
nhau tạo nên cơ thể của chúng ta. Một bài báo đăng trên tờ New York Times mô tả
khám phá trên của Watson và Crick với tiêu đề “Bí mật của sự sống đã được khám
phá”. Và bắt đầu từ đó, mối quan tâm lớn nhất của sinh học nói chung đều xoay
quanh gene. Các nhà khoa học lại càng có thêm động lực để theo đuổi việc giải mã
gene người, khi họ nhận thấy rằng gene không chỉ quy định hình dạng cơ thể của
con người, mà nó còn có thể ảnh hưởng đến hành vi và cảm xúc của chúng ta; hay
nói cách khác là mọi thứ của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta là những cỗ máy sinh
học được quy định bởi gene có trong DNA của mình.
Chúng ta là tù nhân của sự di truyền?
Vậy cuối cùng, điều gì kiểm soát DNA? Các thí nghiệm đã chỉ ra rằng DNA tự kiểm
soát quá trình sao chép của chính mình. Thật là một vòng luẩn quẩn đầy mỉa mai;
và bằng chứng này càng ủng hộ thêm cho quan điểm số phận của chúng ta bị kiểm
soát bởi DNA mà chúng ta có được ngay từ khi sinh ra. Bạn là tù nhân của sự di
truyền. Ví dụ, các nhà khoa học quan sát một nhóm người, tính điểm cho mỗi người
về mức độ hạnh phúc trong cuộc sống, và rồi cố gắng tìm ra xem sự khác biệt về
gene giữa nhóm người hạnh phúc nhất và ít hạnh phúc nhất. Hẳn nhiên, họ sẽ tìm
ra sự sai khác ở một nhóm gene, và báo chí sẽ ngay lập tức đưa tin rằng “Các nhà
khoa học đã tìm ra gene khiến con người hạnh phúc”. Đó là cách thức phổ biến để
các nhà khoa học tìm ra gene quyết định rất nhiều khía cạnh trong cuộc sống con
người : khả năng bị trầm cảm, khả năng bị ung thư, khả năng hạnh phúc… Bạn có
thể nghĩ rằng “Thật đau khổ, theo nghiên cứu đó, gene hạnh phúc đó của tôi chẳng
tốt đẹp gì, có lẽ tôi sẽ phải sống buồn rầu suốt phần đời còn lại”. Đó chính là
cách mà chúng ta được dạy ở trường y khoa, rằng con người thật sự không có chút
hy vọng nào để có thể cải thiện hay thay đổi gene (số phận) của mình. Và hệ quả
là họ bắt đầu trở nên thiếu trách nhiệm với bản thân “Thưa sếp, sếp hay bảo rằng
tính tôi lười biếng, nhưng tôi muốn cho sếp biết rằng cha của tôi cũng vậy. Sếp
còn kỳ vọng rằng tôi có thể khác sao? Gene của tôi khiến tôi lười biếng. Tôi
chẳng thể làm gì để thay đổi nó được.”
Dự án giải mã bộ gene người
Ý tưởng cơ bản của dự án rất đơn giản : nhằm xác định tất cả gene mà mỗi con
người chúng ta có, nhằm cung cấp những hiểu biết về gene và những bệnh liên quan
đến gene. Ban đầu tôi tin vào ý nghĩa nhân văn của dự án, nhưng sau đó, qua Paul
Silverman, một kiến trúc sư trưởng của dự án, tôi mới thực sự biết bản chất của
dự án này. Thật đơn giản, vì chúng ta có khoảng hơn 100 nghìn loại protein khác
nhau, nên có lẽ chúng ta sẽ có khoảng hơn 100 nghìn gene; với ý tưởng rằng mỗi
gene chịu trách nhiệm sản sinh ra một loại protein; cộng với một số lượng gene
kiểm soát các gene khác. Dự án này thực chất được đầu tư từ một quỹ mạo hiểm.
Các nhà đầu tư này nghĩ rằng, với việc xác định được hơn 100 nghìn gene, họ có
thể đăng ký sáng chế bảo hộ thông tin đó, và bán cho các hãng dược phẩm để sản
xuất ra các loại thuốc chữa các bệnh về gene cho con người. Thực chất, dự án này
không nhằm mục đích nhân văn nào cả, mà chỉ là một công việc kinh doanh thuần
túy, hơn nữa là một dự án siêu lợi nhuận.
Các nhà khoa học đã biết rằng các sinh vật có mức độ tiến hóa càng cao, DNA của
chúng càng chứa nhiều gene. Họ nghĩ rằng DNA của các sinh vật đơn bào đơn giản
sẽ có khoảng vài nghìn gene, còn con người có khoảng 150 nghìn, tương đương với
150 nghìn loại thuốc mới. Dự án giải mã bộ gene người được bắt đầu từ năm 1987,
và đã chứng minh được một sự thật rằng khi mọi cái đầu biết hợp sức với nhau,
chúng ta có thể tạo ra những điều kỳ diệu. Chỉ trong vòng 14 năm, các nhà khoa
học đã giải mã hoàn chỉnh bộ gene người.
Nhưng người tính không bằng trời tính. Họ bắt đầu bằng việc nghiên cứu DNA của
một loại ký sinh trùng vô cùng nhỏ. Đây là đối tượng nghiên cứu ưa thích của các
nhà sinh vật học vì chúng phát triển rất nhanh với số lượng lớn. Họ thấy rằng
sinh vật này có khoảng 24 nghìn gene. Họ tiếp tục tiến hành thí nghiệm với ruồi
giấm, một sinh vật nghiên cứu ưa thích khác. Và ngạc nhiên thay, ruồi giấm chỉ
có 18 nghìn gene trong DNA. Một con ký sinh trùng bé xíu có đến 24 nghìn gene mà
một cỗ máy biết bay lại chỉ có 18 nghìn? Họ không hiểu chuyện gì đang diễn ra,
nhưng vẫn tiếp tục dự án với việc nghiên cứu bộ gene người.
Kết quả được công bố năm 2001, và thực sự là một cú sốc lớn : DNA của người chỉ
chứa khoảng 25 nghìn gene! Sốc lớn đến nỗi các nhà khoa học đều không nói đến nó
nữa. Mặc cho truyền thông đại chúng trên khắp thế giới đều tỏ ra phấn khích với
khám phá mang tính lịch sử này nhưng trên khắp các tạp chí khoa học chuyên ngành,
chẳng ai đặt câu hỏi về việc hơn 100 nghìn gene còn lại ở đâu. Khi biết rằng chỉ
có 25 nghìn gene có thể đảm đương được toàn bộ quá trình vận hành phức tạp của
con người, đó thực sự là một thông tin đảo lộn toàn bộ quan điểm của giới sinh
học.
Vì sao sự sụp đổ quan điểm này lại quan trọng? Vì nếu khoa học được vận hành dựa
trên những quan điểm sai lầm, sẽ thật là thảm họa khi áp dụng nó vào y khoa.
Liệu pháp đối chứng, một cách thức chữa bệnh rất phổ thông ở các nước phương Tây,
đã được báo cáo là nguyên nhân chính gây chết người do y khoa tại Mỹ và cũng gây
ra đến 20% cái chết do y khoa tại Úc. Trên tập san của Hiệp hội y tế Mỹ, bác sĩ
Barbara Starfield đã thống kê rằng nguyên nhân tử vong do y khoa đứng thứ 3
trong mọi nguyên nhân gây chết người tại Mỹ, với khoảng 750 nghìn chết mỗi năm.
Đó thực sự là một con số đáng báo động.
Tôi rời trường đại học năm 1980, 7 năm trước khi dự án giải mã bộ gene người bắt
đầu. Bằng những kinh nghiệm thực tế của mình, tôi luôn tìn rằng môi trường và
chủ thể có thể biến đổi được gene và các tế bào của cơ thể. Tôi bắt đầu tìm hiểu
về ngành nhận thức và khoa học não bộ. Tôi bắt đầu khám phá ra được rằng, DNA
không phải là thứ kiểm soát các tế báo, vậy thì thực sự “bộ não” của các tế bào
nằm ở đâu?
Mọi sinh vật là một chiếc máy tính
Các nghiên cứu sinh học mới
nhất cho biết rằng, bộ não của các tế bào nằm ngay ở bộ da của chúng, tức màng
tế bào. Tôi bắt đầu nhận thấy rằng một tế bào giống như một chiếc máy tính, mà
nhân của chúng chính là một ổ đĩa cứng. Gene là các chương trình được nạp sẵn
trong ổ cứng. Chúng có góp phần không nhỏ trong việc vận hành, điều phối mọi
hoạt động của tế bào; nhưng chính những thông tin được nhập vào từ môi trường
mới là thứ điều khiển cách sinh tồn của tế bào. Màng tế bào chính là nơi tiếp
nhận những thông tin, tín hiệu từ môi trường; do đó chính nó là bộ vi xử lý của
tế bào. Do DNA ở trong nhân (ổ cứng) của mỗi tế bào đều lưu trữ mọi thông tin,
chức năng của các tế bào khác thông qua 25 nghìn gene, hay 25 nghìn đoạn chương
trình; cho nên các tế bào gốc đều có tiềm năng để biến đổi thành mọi loại tế bào
khác trong cơ thể mà chúng muốn. Điều kiện để tác động đến tiềm năng, quá trình
phát triển đó chính là điều kiện môi trường; tùy vào môi trường yêu cầu thế nào,
cần loại tế bào nào thì tế bào gốc có thể biến đổi thành kiểu tế bào đó. Nói
cách khác, chính chúng ta là người lập trình nên các tế bào của chúng ta; thông
qua những trải nghiệm sống, suy nghĩ, cảm xúc…
Với tư cách là một người theo khoa học từ sớm, trước đây tôi thường không tin sự
tồn tại của những trải nghiệm tâm linh. Nhưng khi quan sát cách các tế bào sinh
ra, lớn lên và chết đi, tôi bỗng nhận ra rằng; sự chết đi thường xuyên của tế
bào cũng chẳng phải mất mát gì. Điều thực sự làm nên bản thân tôi, khiến tôi
khác biệt với tất cả con người khác không phải thứ nằm bên trong tế bào, nằm bên
trong nhân, bên trong DNA hay gene; mà lại là một yếu tố nằm ở bên ngoài. Dù cho
một tế bào có chết đi, thông tin đó, tính cách đó, sự khác biệt đó vẫn được bảo
tồn nguyên vẹn và được truyền qua các tế bào khác đảm nhiệm. Bỗng nhiên, cảm
giác sợ cái chết của tôi tan biến. Đó là điều tôi trải nghiệm 25 năm trước, và
đó thực sự là một trải nghiệm tâm linh vô cùng tuyệt vời.
Nhận thức : Sức mạnh mới của sinh học
Chúng ta thu nhận thông tin từ môi trường, và điều chỉnh sinh học của cơ thể;
nhưng không phải nhận thức nào chúng ta có cũng là đúng đắn. Nhận thức sai lầm
sẽ khiến chúng ta có những điều chỉnh sai lầm lên cơ thể, thậm chí hủy hoại cơ
thể. Khi đã biết được rằng, sinh học chỉ là một cơ thể hữu cơ chờ lệnh phản ứng
đến từ tâm trí của chúng ta; nếu như cuộc sống không diễn ra thuận lợi, thay vì
tìm cách điều chỉnh gene, hay điều chỉnh tâm trí và thái độ sống. Chúng ta có
thể kiểm soát cuộc sống của chính mình bằng cách kiểm soát nhận thức sống của
mình.
Những hiểu biết khoa học của chúng ta về sự sống, thực chất lại là sai lầm.
Chúng ta đang hiểu sai về mối liên kết giữa chúng ta với hành tinh này, với tự
nhiên và môi trường sống. Cũng giống như việc nhận thức sai lầm có thể hủy hoại
cơ thể sống, nhân thức sai lầm về sự sống cũng đang hủy hoại thứ mang lại cho
chúng ta sự sống : môi trường. Con người là một thành phần của tự nhiên, và cần
sống hài hòa với tự nhiên. Việc tự cho mình là ưu việt hơn, thông qua học thuyết
Darwin, cho rằng chúng ta là loài vật tiến hóa nhất, được chọn lọc sinh tồn khắt
khe nhất và có cái nhìn muốn áp chế tự nhiên, coi mọi thứ trên đời sinh ra là
nhằm để cho con người sử dụng chỉ dẫn đến một con đường tất yếu đó là tự hủy
hoại.
Tương lai của y học
Mọi thứ trong vũ trụ hiện nay đã được biết làm bằng năng lượng, vật chất chỉ là
một hình thái tồn tại ở dạng vật lý và rắn chắc. Năng lượng không ngừng trao đổi
và tương tác lẫn nhau. Mỗi khi bạn tương tác với môi trường, bạn đang vừa nhận
và truyền năng lượng cùng một lúc. Năng lượng trong cơ thể bạn là phản chiếu của
các năng lượng dao động (vibration) trong môi trường xung quanh bạn. Bất kỳ một
sinh vật sống nào, dù là nhỏ nhất cũng đều rất nhạy cảm với những dao động năng
lượng từ môi trường. Tốt nhất bạn nên tìm đến những nơi khiến bạn cảm thấy an
toàn, được phát triển và yêu thương và tránh xa những nơi ảnh hưởng xấu hay
không chào mời sự tồn tại của bạn.
Khi chúng ta không chú ý đến những dao động năng lượng, chúng ta đang bỏ quên
những tín hiệu giá trị từ môi trường sống. Hiểu được rằng mọi năng lượng đều có
dính líu (entangled) và tương tác với nhau sẽ khiến bạn chú ý hơn đến những động
lực vô hình có khả năng ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn. Thông thường, bác sĩ
hay dùng thuốc và một số phương pháp theo dõi (ví dụ mammogram) để xem những
chuyển biến trong cơ thể bệnh nhân hay theo dõi những dấu hiệu của bệnh ung thư.
Thứ mà bạn nhìn thấy trên các giản đồ chính là thể hiện của kiểu năng lượng của
tế bào ung thư đó. Các bác sĩ thông thường, vốn không tin vào câu chuyện năng
lượng sẽ tìm cách loại bỏ các tế bào ung thư đó, thay vì tìm cách khiến các tế
bào đó trở về trạng thái năng lượng bình thường. Đó là những phương pháp truyền
năng lượng bằng tiếp xúc cơ thể hay thông qua tay mà chúng ta vẫn biết. Đó sẽ là
tương lai của y học, nhưng chưa phải ngay lúc này.
Những hiểu biết mới về cơ học lượng tử có thể khiến con người thay đổi cách nhìn
về y học hiện tại. Bằng những công trình khoa học của mình, họ đã chứng minh
những dao động năng lượng vô hình có hiệu quả hơn gấp 100 lần so với các loại
thuốc hiện nay trong việc mang và truyền thông tin đến các tế bào; nhằm khiến
chúng tự điều chỉnh trạng thái để quay về trạng thái năng lượng bình thường.
Trong thế giới cũ, chúng ta quan tâm đến vật chất, chúng ta dùng phương pháp bẻ
gẫy, chia nhỏ tự nhiên (reductionism) để hiểu về chúng. Nhưng trong thế giới mới,
chúng ta cần quan tâm nhiều hơn đến năng lượng, và phải dùng nhiều hơn đến tư
duy hệ thống và tổng thể (holism) để hiểu được vấn đề : rằng mọi thứ đều kết nối
với nhau.
Và cuối cùng, đây là định
nghĩa của tôi về môi trường : Nó là thứ bao gồm từ bản thân bạn đến rìa của vũ
trụ, từ những thứ gần gũi thân thuộc hàng ngày đến những hành tinh, mặt trời và
mọi thứ diễn ra trong dải ngân hà của chúng ta. Chúng ta đều mà một bộ phận
trong các trường bất tận đó.
Dịch bởi Nup Hero, Book Hunter Club
Nguồn từ Bruce Lipton blog
Tham khảo thêm :
1, The Holographic Universe:
The Revolutionary Theory of Reality
2, Frequency: The Power of Personal Vibration
3, Wrong: Why experts* keep failing us–and how to know when not to trust them
4, The Rise and Fall of the Human Genome Project
5, Vũ trụ toàn ảnh – Một kỷ nguyên khoa học mới
Nguồn: Book Hunter Club