Đặng Công Hanh
Ý tưởng dẫn nhập
Vật lý hiện đại, đóng góp đắc lực cho sự phát triển nhận thức khoa học và cũng
chính nó lại có vai trò tích cực nêu lên những giới hạn của tri thức. Đại thể là
nhận thức chủ yếu dựa trên nền tảng suy luận và quan sát. Nhưng suy luận bị hạn
chế theo “định lý bất toàn Godel” nói rằng một hệ thống logic bất kỳ không thể
tự hiểu bản thân nó. Còn quan sát thì bị hạn chế vì tính “bất định Heisenberg”,
cho rằng không thể xác định chính xác đồng thời các đại lượng vật lý liên kết
như vị trí và tốc độ hay năng lượng và thời gian.
Có thể nói rằng, đứng bên trong thế giới duy lý, con người không thể hiểu biết
hết mọi thứ. Thế giới quả thực có quá nhiều thứ lạ lùng. Chỉ khi nào đứng bên
ngoài nó thì may ra mới đạt đến viễn cảnh sâu xa hơn để nhìn thấu bên trong nó.
Đã đến lúc mà tư duy cơ giới với tất định luận, suy luận duy lý và qui giản…
không còn tỏ ra phù hợp nữa. Con người cần phải được bổ sung những quan điểm tư
duy mới, vận dụng những năng lực cảm thọ khác để tìm hiểu các đối tượng nhận
thức của mình.
Tuy vậy, trong kỷ nguyên mới, nền công nghệ phát triển với tộc độ phi mã, thường
xuyên xuất hiện các cố gắng dùng vật lý hiện đại để lý giải các hiện tượng dị
thường. Chẳng hạn nhà vật lý Kip Thorn ở Viện Công nghệ California đưa ra khái
niệm “lỗ sâu đục” (wormhole) dựa trên lý thuyết hấp dẫn Einstein, thì đã có
người xem đó là đường hầm không – thời gian, để du hành tới mọi vùng của vũ trụ
hay quay lui về quá khứ. Hiệu ứng lượng tử có khả năng dùng để viễn tải đồ vật,
con người có thể đi xa vạn dặm, con người có thể phân thân, hoá thân. Vật chất
tối, năng lượng tối để giải thích linh hồn, ma quỉ.v.v.
Tuy nhiên, các nguyên lý khoa học hiện đại hay khoa học công nghệ không cho phép
những “khả năng huyền mật“ đó biểu hiện thành hiện thực trong vũ trụ với “hệ quy
luật” như các hiểu biết của con người trong thể dạng tồn tại này?
Chẳng hạn, khi ném một viên đá va vào một bức tường, theo định luật Newton về
tác lực và phản lực thì viên đá dội trở lại ngay. Đó là điều bình thường. Nhưng
khi viên đá được thu nhỏ đến kích cỡ của điện tử thì nó có thể “xuyên qua“ vật
chắn, vì bây giờ nó có tác dụng như sóng. Ta ngạc nhiên về hiện tượng “ma quái”
này – cơ học lượng tử gọi là hiệu ứng “đường hầm“ (tunelling effet). Theo Louise
de Broglie sóng này có độ dài l = h/mv với h là hằng số Planck, m là khối lượng,
v là tốc độ. Như vậy những vật cực nhỏ thì bước sóng l lớn mới xảy ra hiệu ứng
này.
Cái mịt mù trong thế giới lượng tử sẽ sáng tỏ hơn khi ta đặt cái ảo giác của ta
trong các nhìn triết học Phật giáo khi mà bản chất vô ngã, vô thường của vật
chất lúc sóng, lúc hạt.
Đường biên giới giữa thế giới Newton và thế giới lượng tử, giữa tất định và bất
định rất “nhạt nhoà”, tuỳ thuộc vào điều kiện thí nghiệm và môi trường chung
quanh. Thuyết duyên sinh của Phật học nói đến sự hỗ tương của vạn hữu: “Cái này
sinh thì cái kia sinh / cái này diệt thì cái kia diệt“. . Vì duyên sinh nên vô
ngã. Đường biên giới mờ ảo, lúc ẩn, lúc hiện cũng không ngoài sự chi phối của lý
duyên sinh bao trùm vũ trụ.
Con người mãi mãi thao thức nhưng chẳng bao giờ có thể trực nhận được cái bí ẩn
mà vũ trụ đã giấu kín trong lòng nó. Nhà vật lý học vũ trụ Stephen Hawking nổi
tiếng, cũng đã than thở: “Thượng đế không chỉ chơi trò xúc xắc, mà đôi khi còn
vứt bỏ những con xúc xắc đó ở đâu mà chúng không bị nhìn thấy“. Một lúc khác,
ông nói thêm: “Khoa học vật lý có thể hoàn thành sứ mệnh của mình mà không có
câu trả lời cho vài câu hỏi cơ bản nhất về tự nhiên”.
Tương tự như vậy những câu hỏi ngàn đời khác của nhân loại, “trả lời chúng có
thể là câu hỏi không bao giờ chấm dứt” trong âm vang tắt dần như “tiếng vạc kêu
sương”.
Tuy vậy, có không ít người quan niệm rằng cái nhìn của khoa học về thế giới là
nền tảng của tất cả các trí thức và đó cũng là tất cả vốn trí thức của con người.
Đây là cách tư duy theo chủ nghĩa duy vật khoa học. Quan điểm của chủ nghĩa này
cho rằng tất cả mọi khía cạnh của thực tại đều qui giản về vật chất, các hạt vật
chất, điều này dẫn dắt đến một thế giới quan khô cằn đượm chất hư vô.
Tri thức khoa học như nó đã thể hiện đến ngày nay, là không hoàn chỉnh, dù rằng
nó tỏ ra kỳ diệu trong việc khám phá hiện thực, đóng góp tích cực để cải cách
tri thức con người, mở rộng chân trời nhận thức.
Quan kiến Phật học cho rằng, sự hiểu biết con người trong lộ trình của phương
pháp thực nghiệm, nghiêm ngặt, được quan trắc, suy luận và xác minh, chứng thực
của những người khác được xem là có giá trị. Tuy vậy còn có nhiều khía cạnh của
hiện thực như sự phân biệt thiện – ác, tốt – xấu, sáng tạo nghệ thuật, thi ca,
âm nhạc, hội hoạ. Các biệt tài đó gần như kỳ diệu, xuất thần mà trí tuệ không lý
giải nổi, rõ ràng nó phải nằm ngoài phương pháp của khoa học.
Giáo pháp của đức Phật bao hàm trong 2 nhóm, một là các giáo pháp về trí tuệ hay
phần lý thuyết và hai là các giáo pháp về phương tiện hay phần thực hành. Chính
đức Phật thường so sánh đạo của Ngài như đôi cánh chim, để bay được thì phải cần
2 cánh. Trí tuệ là cần thiết vì nếu không có một ý niệm nào đó về chí hướng của
mình thì việc thực hành sẽ mù quáng, vô ích và tuỳ tiện. Đây cũng là nỗ lực trực
nhận tiềm năng vốn có của mỗi người trong việc đạt đến hạnh phúc.
Khoa học hiện đại, đặc biệt là vật lý lượng tử và thần kinh học, đã góp một
phương thức tiếp cận với trí tuệ theo thể cách biểu đạt bằng những chứng minh cụ
thể, tỏ ra dễ chấp nhận với những người ở thế kỷ 21 hơn là “tuệ giác của Phật
học” thuyết giảng về bản chất thực tại được diễn đạt qua những phân tích chủ
quan.
Phương thức hiện đại không những giúp ta giải thích được các pháp môn của đạo
Phật, lại mang đến kết quả kỳ diệu, xét từ những phân tích khoa học.
Hiểu được điều thế giới lượng tử mô tả, sẽ gợi mở cho chúng ta hình dung và liên
tưởng được các điều đã viết trong Kinh điển về các vị Bồ tát, các vị Phật, đã
phân thân ra vô số hoá thân đi khắp ba ngàn đại thiên thế giới để giáo hoá và
cứu độ chúng sanh.
- Với cái nhìn theo vật lý cổ điển, thế giới của chúng ta là duy nhất, không
thời gian là 2 thực thể độc lập và như nhau trong toàn thể vũ trụ.
- Với thuyết tương đối, trong vũ trụ tồn tại nhiều thế giới khác nhau tuỳ thuộc
trọng lực hay vận tốc di chuyển giữa hệ thống được quan sát bởi chủ thể quan sát.
- Với lượng tử, tồn tại nhiều thế giới song hành, tại một thời điểm nhất định
một hạt cơ bản xác suất hiện diện ở bất kỳ thế giới nào.
- Đối với Phật học, giáo lý Duyên khởi hiển bày vô vàn thế giới đan chéo lồng
vào nhau, dung thông, dung nhiếp với nhau mà vẫn vô ngại với nhau, vì tất cả là
cái bóng của Thực tại. Thế giới là Thực tại được nhận thức theo cách riêng của
“Nghiệp thức” ở mỗi chúng sinh. Thói quen nhận thức một cách thiên lệch gọi là
nghiệp thức. Nghiệp thức được huân tập từ vô thuỷ, cho đến hiện tại vẫn còn huân
tập thêm lên. Sự hình thành của nghiệp thức mỗi chúng sinh được giảng trình
trong bài Kinh “Thập Nhị Nhân Duyên“.
Tất cả chúng sinh đều cho rằng nhận thức của mình (của Ta) là đúng. Do “ngã kiến”
này mà thế giới xuất hiện. Đó gọi là “thế giới Vật – ngã” hay là thế giới của
các sự vật thiết lập từ “ngã kiến” của mỗi chúng sinh.
Nhưng Thực tại chính là Không tính, nó cho phép vô vàn thế giới hữu tính, hiện
khởi như những cái bóng qua gương hay nói cách tương tự, thế giới đó là phóng
ảnh của tâm thức lên “bề mặt Thực tại“.
Chẳng hạn, trong Kinh luận Phật giáo có nói đến 3 cõi thế giới và theo lập
trường của A tỳ đạt ma nhìn trên góc độ vật lý thì: cõi vô sắc giới đã hoàn toàn
ly khai mọi quan hệ vật chất, chỉ còn lại cái đương thể thuần tinh thần độc lập
nên vượt ra ngoài hiện tượng luận. Cõi sắc giới là nơi tuy lòng dục không mạnh,
nhưng vẫn chưa hoàn toàn thoát ly sự ràng buộc của vật chất, loại vật chất vi tế.
Cõi dục giới là thế giới ta đang hiện hữu cùng với mọi tồn tại khác.
Tuy vậy, để đạt được cái thấy như thế, chúng ta cần phải cố gắng quan sát sâu
hơn vào lĩnh vực khoa học, mới khám phá được một số điểm tương đồng này.
Chẳng hạn, khi nói về tánh không, người học Phật không muốn nói là “không có gì
cả“ mà thật ra là chỉ thị cho một tiềm năng vô hạn, khiến bất cứ một sự việc gì
cũng có thể xuất hiện, biến chuyển hay diệt mất. Hình thái này trong vật lý hiện
đại gọi là “chân không lượng tử“, là trạng thái nền tảng các hạt không ngừng
xuất hiện và biến mất. Tuy có vẽ như trống không, nhưng thật ra rất năng động,
tràn ngập tiềm năng sản sinh bất kỳ sự vật nào.
Trạng thái “Chân không lượng tử“ cũng có vài đặc tính với “Tính Không của Tâm
thức” nó thách thức mọi sự mô tả xác thực, nhưng lại có vô hạn khả năng tiềm
tàng những niệm tưởng, cảm xúc và cảm thọ đều sinh khởi và diệt mất không ngừng.
Cuộc tranh luận thế kỷ
Trong lịch sử khoa học, các nhà vật lý chứng kiến một cuộc tranh luận giữa các
bộ óc vĩ đại của nhân loại chung quanh vấn đề cơ học lượng tử.
Chúng ta biết rằng cơ học cổ điển chỉ vận hành và hoạt dụng trong thế giới vĩ mô.
Đối với thế giới vi mô hay thế giới hạ nguyên tử tức là thế giới các hạt cơ bản
thì cơ học cổ điển không hoàn toàn thích hợp, mà phải ứng dụng cơ học lượng tử.
Lý thuyết lượng tử là lý thuyết đẹp, cho nhưng kết quả được kiểm nghiệm với độ
chính xác cao. Tuy vậy, Einstein và một số ít các nhà vật lý tài năng cho rằng
nó là một lý thuyết chưa hoàn chỉnh và bi quan đối với cách đoán nhận của cơ học
lượng tử. Einstein nói “Tôi chẳng tin rằng Chúa lại chơi trò xúc xắc với số phận
của vũ trụ”.
Năm 1935, đỉnh điểm của sự bi quan đã bộc lộ của ông và 2 đồng nghiệp là
Podolski và Rosen qua bài báo: “Liệu sự mô tả thực tại vật lý bằng cơ học lượng
tử có thể xem là đầy đủ hay không” (Can QM description of Physical Reality be
Considered Complete). Sau này gọi vắn tắt là “Nghịch lý EPR“. Có thể tóm gọn
trong thí nghiệm tưởng tượng như sau:
Giả định có thể chế tác một cặp hạt “liên đới lượng tử“ (quantum entangled) theo
một ý nghĩa toán học là một cặp hạt mà lấy tích 2 hàm sóng f1, f2 của chúng
không đúng là hàm sóng f của hạt. Nói cách khác là tính chất của hạt không độc
lập mà lại tương quan nhau.
Đem cặp hạt này tách xa nhau. Lúc đo toạ độ của hạt thứ nhất thì sẽ biết toạ độ
của hạt thứ hai vì chúng liên đới nhau. Nếu lại đo xung lượng của hạt thứ hai ta
lại có thể biết xung lượng của hạt thứ nhất. Như vậy trái với “nguyên lý bất
định Heisenberg” của cơ học lượng tử, vì nguyên lý bất định cho rằng không thể
biết cùng lúc toạ độ lẫn xung lượng của mỗi hạt.
Về sự tồn tại của cặp hạt “liên đới lượng tử“ trong thí nghiệm nói trên đã được
Alain Aspect chế tạo qua thí nghiệm: bắn một tia laser vào một tinh thể mang
tính chất “phi tuyến” thì một photon biến thành một cặp photon liên đới.
Suy luận của thí nghiệm tưởng tượng này đã dựa trên 2 giả thiết:
- Giả thiết hạt có tính chất khách quan trước khi đo đạc chúng. Đây là loại giả
thiết hiện thực.
- Giả thiết phép đo trên hạt này không gây ảnh hưởng đến hạt kia tức là giả
thiết định xứ.
Lập tức nửa tháng sau, Bohr có lời đáp ứng phủ nhận giả thiết hiện thực và cho
rằng sẽ là vô nghĩa khi gán cho hạt một tính chất nào đó mà lại tách rời nó khỏi
các điều kiện thí nghiệm cho phép sự tham dự của đo đạc.
Cuộc tranh luận giữa 2 nhóm nhà vật lý: một bên do Einstein đại diện và bên kia
do Bohr chủ đạo chưa đến hồi kết và mỗi bên chưa xây dựng được một công cụ toán
học thuyết phục để minh chứng.
Mãi đến năm 1964, John Bell tìm được một bất đẳng thức gọi là bất đẳng thức Bell
qua đó chứng minh được rằng “tính hiện thực” và “tính định xứ“ đều không phù hợp
với cơ học lượng tử.
Gần đây, vào năm 2003, nhà vật lý giải Nobel, Anthony Leggett cũng đã tìm ra một
bất đẳng thức khác, thực hiện đối với các phép đo đạc của thí nghiệm đều phủ
nhận tính hiện thực lẫn tính định xứ trong nghịch lý EPR.
Vậy, cho đến nay, có cơ sở để các nhà vật lý xác định rằng:
- Bài báo EPR đã khơi nguồn cho việc khám phá tính không định xứ trong thế giới
lượng tử
- Qua ý tưởng của John Bell, cùng hàng loạt các thí nghiệm kiểm chứng sau đó đã
làm nảy sinh các vấn đề mới như: thông tin lượng tử, mật mã lượng tử gần đây
nhất là viễn tải lượng tử, đã được nghiên cứu ứng dụng. Nói cách khác, chúng đều
bắt nguồn từ “nghịch lý EPR” năm 1935.
+ Bài báo EPR đã vô tình chỉ ra rằng cơ học lượng tử là một lý thuyết hoàn chỉnh
và tách biệt hoàn toàn với thế giới hiện thực được mô tả bởi cơ học Newton.
Nguyên lý bổ sung với hệ quả kỳ diệu
Nguyên lý về Tính bổ sung nêu lên các nhân tố cơ bản của vật chất (như
electron…) là những thực thể hai mặt đối ngẫu sóng – hạt. Hai cách mô tả phản
bác nhau, nhưng nhà vật lý cần cả hai một lúc. Heisenberg là người đầu tiên hiểu
được rằng tính bổ sung đã làm cáo chung “nhị nguyên luận“ của Descartes về sự
tách đôi giữa vật chất và tinh thần: cái này lẫn cái kia đều là những yếu tố bổ
sung của cùng một hiện thực duy nhất.
Một tiền đề xuyên suốt của thuyết lượng tử là tiền để tính đối ngẫu của vật chất
(diality). Nội dung của nó là mọi vật thể vi mô cùng một lúc thể hiện 2 tính
chất tương phản nhau – tính chất hạt và tính chất sóng. Nhà vật lý nổi tiếng
Niels Bohr đề xuất qua “nguyên lý bổ sung” (Bohr Complementarity) nổi tiếng sâu
sắc cho đến bây giờ trên phương diện nhận thức triết học về nhân văn, về vũ trụ…
Nhà vật lý Đức, Max Born đề xuất sóng kết hợp với hạt cơ bản được gọi là “sóng
xác suất“, ông đã nhận giải Nobel vì ý tưởng đột phá này. Khi phân tích sự
chuyển động của một hạt cơ bản, ta không nên xem nó tương tự như một hòn sỏi
chuyển động đây đó mà phải hình dung nó là một sóng nhấp nhô đây đó. Tại đỉnh
hay hỏm sóng là các điểm mà hạt thường hay xuất hiện. Ở các điểm còn lại của
sóng thì hạt ít xuất hiện. Khi sóng lan toả, các giá trị của nó biến đổi, cao
tại số điểm và thấp tại số điểm, các giá trị nhấp nhô này là các xác suất nhấp
nhô. Vì vậy sóng này có tên sóng xác suất.
Nguyên lý bổ sung đã đưa đến một hệ quả cực kỳ quan trọng về mặt nhận thức luận
và thế giới quan: nguyên lý “chồng chập trạng thái“ (superposition principal).
Nguyên lý này mô tả chuyển động của hạt tử không theo bất cứ một quỹ đạo xác
định như quan điểm cơ học Newton, có nghĩa là chuyển từ vị trí A sang vị trí B
theo vô số con đường cùng một lúc. Theo mô hình của Feynman, nhà vật lý được
giải Nobel người Mỹ, mỗi con đường thu thập một pha. Pha đó biểu thị một vị trí
trong một chu kỳ sóng, nghĩa là sóng đang ở đỉnh, ở hõm hay ở một vị trí chính
xác trung gian nào đó.
Nói nôm na, ở cùng một thời điểm, chúng như bóng ma có thể xuất hiện ở nhiều nơi
khác nhau với những xác suất định vị khác nhau. Trực giác đời thường khó nắm bắt
nhưng nó vẫn xảy ra trong thế giới vi mô. Theo Schrodinger, nếu y là hàm số sóng
của hạt thì (y)2 là xác suất hiện hữu của hạt ở vị trí nào đó. Tính ngẫu nhiên
từ xác suất của phương trình Schrodinger ngự trị toàn bộ thế giới lượng tử. Các
hình thái “có có – không không” đã cho ta một vũ khí suy luận về đặc tính vật lý
của “cái nhỏ nhất“.
Thế giới lượng tử có hành vi ứng xử làm ta liên tưởng đến “Biện chứng pháp” của
Trung quán mà Bồ Tát Long Thọ dạy chúng ta cách nhận thức ra được thực tướng các
pháp.
“Nhất thiết thực phi thực
Diệc thực diệc phi thực
Phi thực phi phi thực
Thị danh chư Phật pháp”
[Có nghĩa là: Hết thảy mọi pháp (sự vật hiện tượng) đều thật, hay không thật -
hoặc vừa thật vừa không thật - hoặc không thật không phải không thật. Đó chính
là giáo pháp của chư Phật].
Toán học trong cơ học lượng tử cho thấy rằng tất cả mọi khả năng đều có thể xảy
ra, mọi khả năng tồn tại trong một thế giới riêng của nó. Dù không có khả năng
quan sát được thế giới này và chúng ta thấy rằng nếu vũ trụ rộng lớn vô hạn của
chúng ta là ngôi nhà của vô số thế giới song hành, trong đó một số giống thế
giới của ta đang sống, một số hơi khác và một số khác biệt hẳn.
Nguyên lý chồng chập
Xuất phát từ nguyên lý chồng chập trạng thái mà Richard Feynman đã nẩy ra ý
tưởng máy tính lượng tử. Nền tảng của ý tưởng như sau:
“Bit” là thực thể vật lý, lấy 2 giá trị là 0 hay 1 hay “không hoặc có”. Một bit
lượng tử viết tắt là qubit có 2 trạng thái cơ bản ký hiệu ú0> và ú1>. Mỗi qubit
là một đơn vị của thông tin lượng từ. Thông tin được trao đổi qua lại giữa các
qubit.
Nguyên lý “chồng chập lượng tử“ làm thành tổ hợp:
Y = a.½0> + b.½1> (a, b là những số)
Biểu thức này cho thấy là từ 2 trạng thái cơ bản ta có nhiều qubit hơn, biểu thị
cùng một lúc “có hoặc không” theo vô số tổ hợp khác nhau, và “có” – “không“ lại
có thể biến hoá qua nhau. Điều này làm ta liên tưởng đến giáo lý của Phật học
trong Kinh Bát – Nhã nói về ngũ uẩn: “Khi Bồ Tát Quán tự tại thực hành sâu xa
pháp Bát – nhã – Ba – la – mật – đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không qua hết khổ
ách… Sắc chẳng khác Không / Không chẳng khác Sắc / Sắc tức thị Không / Không tức
thị Sắc / Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng như thế”.
Viễn tải lượng tử (Teleportation)
Năm 1992, một nhóm các nhà Vật lý và Tin học đã phát kiến một ý tưởng lạ lùng là
tìm cách “sao chép một trạng thái lượng tử đến một nơi khác“. Họ đã sử dụng một
hiện tượng trong nghịch lý EPR từ năm 1930. Trong một điều kiện, hai thực thể
“liên đới lượng tử“ có thể tạo ra được cơ chế để chuyển một trạng thái lượng tử
bất kỳ từ một vị trí này đến một vị trí khác và từ đó tái tạo một vật thể từ nơi
này tới một nơi khác cách xa tuỳ ý trong chớp nhoáng. Hiệu ứng này gọi là “thần
thông viễn tải“
Những thí nghiệm thực hiện thành công:
- Năm 1997, viễn tải đối với photon ở khoảng cách gần 10 cây số
- Năm 2004, viễn tải thành công đối với nguyên tử
- Năm 2012, ba nhà khoa học Bennett, Brassard, Wooters đã viễn tải tức thời một
photon đi xa 143 cây số.
Hiện tượng hiệu ứng này làm ta liên tưởng đến những chuyện trong kinh Phật viết
về việc hành xử của chư Phật, chư Bồ Tát mà với tri giác thông thường không hiểu
nổi. Tuy thế, bây giờ ta thấy rõ một viễn cảnh thật huy hoàng, hứa hẹn sẽ mang
lại những thành tựu kỳ diệu cả về phương diện khoa học lẫn đời sống.
Hiện nay, các nhà vật lý còn cho rằng các “quá trình cơ sở của thiên nhiên thực
chất là các quá trình xử lý thông tin lượng tử diễn ra khắp quanh ta, và lượng
thông tin xử lý trong một đơn vị vật chất và thời gian cực nhỏ“.
Sự tu dưỡng tâm linh, nắm bắt thân tâm để lần lượt tu luyện cải đổi nên có sự
bất đồng với người thường. Sự tu dưỡng tâm linh này chính là công phu thiền
định. Định tâm tuy chưa đạt đến mức thượng thừa, nhưng cũng có thể sinh khởi một
loại cảnh tượng tương tự thần thông. Nếu tiến hành tu luyện thì có khả năng đạt
được “ngũ thông”: Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần cảnh
thông, chân chính. Vì đây là cảnh giới được biết không qua trí thông minh, nên
con người không dựa vào đó để tranh luận có, không?
Ngàn năm trước, Kinh Pháp Hoa đã có ghi lại rằng:
Đức Thế Tôn Tịnh Hoa Tú Vương Trí dặn dò rằng: “Đừng khinh thế giới Ta bà! Đừng
xem Ta bà là kém thua thế giới Tịnh Quang Trang Nghiêm! Đừng xem đức Phật và các
Bồ Tát ở đó là kém thua Như Lai và các Bồ Tát ở đây”
- Bồ tát Diệu Âm đáp:
“Bạch Thế Tôn! Con đến thế giới Ta Bà là do thần lực của Thế Tôn, do thần thông
du hí của Thế Tôn, do công đức của trí tuệ của Thế Tôn đã trang nghiêm cho con…
Bồ Tát Diệu âm không rời khỏi chỗ ngồi mà vẫn đặt chân đến Ta Bà”
Hình ảnh này diễn bày thật tướng là vô ngã, nên nơi này, nơi kia là một và thật
tướng cũng là “Không tướng” nên có mặt khắp nơi.
- Nơi Bồ Tát Diệu Âm đi qua thì chấn động:
Biểu tượng này nói lên ý nghĩa, người nào rõ thực tướng là “không – tướng” thì
cái vọng tưởng của tâm sẽ bị gây chấn động rơi đổ, tham sân si dao động mạnh và
rơi rụng.
- Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện vô số thân khắp nơi để hành tài thí, pháp thí và
vô uý thí, vừa khai thị vừa chỉ đường ngộ nhập.
Ở đâu có mặt lòng đại từ, đại bi, ở đâu có mặt trí tuệ vô ngã thì ở đó vắng mặt
khổ đau, ở đó được cứu khổ và được gọi là ở đó có Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ.
Năng lực độ khổ này, phần nào do tâm giao cảm với ngoại duyên (cái năng lực tác
động từ bên ngoài), mặt khác chính là do sức mạnh của tâm lý chủ thể chuyển đổi.
Hình thái, độ khổ của tiếng nói vô ngã biểu hiện qua các trạng huống khác nhau.
Cũng vì tự tính các phép vô ngã nên con người mới chuyển đổi si thành minh, từ
xấu sang tốt, từ bất toàn đến toàn vẹn, nên mới có niềm tin trong nhân gian
“không ai giàu ba họ, khó quá ba đời“. Do vậy, khi đánh lễ lạy Bồ Tát Quan Thế
Âm là lễ lạy “tịch lặng vào trí tuệ vô ngã” và Kinh Pháp Hoa khích dưỡng người
đời đi vào tri giác hơn là tin Phật pháp.
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể
đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền. Cũng
vậy, quả đất hình cầu và xoay tròn là sự thật không còn bàn cãi đối với trẻ con
thế kỷ 20, nhưng lại là sự dối trá không thể tha thứ đối với những nhà thông
thái bậc nhất của Châu Âu thời Trung cổ“.
Để có thể thâm nhập tự tính mầu nhiệm của tồn tại, ta cần phải thay đổi tập quán
nhận thức vốn chỉ giới hạn trong tầm tai mắt. Đó là một tâm niệm dũng mãnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Lược sử thời gian: Stephen Hawking
Cao Chi – Phạm Văn Thiều (dịch) – NXB Trẻ – 2006
2. Vật lý hiện đại: Cao Chi – NXB Trí thức – 2011
3. Huyền thoại Duy – Ma – Cật
Tuệ Sỹ – NXB Phương Đông – 2007
4. Website khảo cứu: http://quantumteleport_cjb.net