Diệu Âm
“Lúc bấy giờ, Đức Phật từ nhục kế phóng ra ánh sáng
và phóng ánh sáng nơi tướng lông trắng giữa chặng mày, soi khắp tám trăm muôn ức
na-do-tha hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông...”.
Rất ít khi nào Phật
phải phóng hào quang cùng lúc từ hai nơi như vậy, vừa từ nhục kế trên đỉnh đầu
vừa từ giữa chặng lông mày. Phải có cái gì lạ lắm ở đây! Thật vậy, ở phần đầu
của Pháp hoa, ta chỉ thấy Phật phóng
hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa chặng mày mà cũng đã đủ chiếu khắp cả một
muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, suốt từ địa ngục A-tỳ cho đến trời Sắc Cứu
Cánh, để mọi người có mặt ai cũng thấy rõ cả sáu loại chúng sanh nheo nhóc khắp
các cõi kia, lại thấy nơi nào cũng có các vị Phật đang nói kinh, cùng các vị
Phật đang nhập Niết-bàn, nơi nào cũng có các đại Bồ-tát đang tu lục độ vạn
hạnh... Vậy mà lần này, ngoài hào quang từ giữa
chặng lông mày nhướng lên cho thấy khắp tám trăm muôn ức na-do-tha hằng hà sa
các cõi Phật ở phương Đông còn vượt qua đến tận thế giới của Tịnh Hoa Tú Vương
Trí Như Lai. Lần này hào quang “quét” xa hơn và “focus” như để tìm kiếm một cái
gì đó. Cùng lúc, Phật còn phóng hào quang nơi nhục kế ở trên đỉnh đầu rõ ràng
không phải chỉ để thấy
(kiến) mà còn để biết
(tri), để tìm gặp một “người quen” nào đó nữa. Thì ra là Bồ-tát Diệu Âm. Bồ-tát
Diệu Âm đang ở bên cạnh Tịnh Hoa Vương Trí Như Lai lập tức bị rúng động. Rúng
động cũng phải thôi. Thần giao cách cảm mà! Phải có cùng một tần số mới rúng
động được, nếu không, chỉ trơ như đá! Diệu Âm rúng động toàn thân, rúng động sáu
cách. Ánh sáng đến từ đỉnh đầu không phải là ánh sáng trí tuệ, đây là ánh sáng
của cảm xúc, nó làm cho người ta run rẩy, bứt rứt, lâng lâng. Diệu Âm rùng mình,
vội vả xin đi gặp Thích Ca đang ở cõi Ta-bà xa lắc xa lơ kia. Không chỉ Thích Ca
mà còn thăm cả Văn Thù, người bạn cũ. Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai không làm
sao giữ lại được, bèn dặn dò đôi câu rằng đừng có coi khinh cõi Ta-bà, ở đó
không chỉ có Văn Thù mà còn có Dược Vương, Dược Thượng, các vị Bồ-tát đang “dạo
chơi”... để cứu độ chúng sanh. Diệu Âm lập tức hoá thành ngàn cánh sen xanh mướt
bay vù vù đến Ta-bà, nơi Phật đang nói kinh
Pháp hoa.
Không phải tự dưng mà Phật mời cho được
Diệu Âm. Bởi Diệu Âm là vị Bồ-tát từ lâu đã trồng các cội công
đức... đặng trọn trí huệ rất sâu, đạt tất cả các tam muội từ “Diệu tràng
tướng tam muội” đến “Pháp Hoa tam muội”... trong đó có lẽ đặc biệt nhất là tam
muội “Hiện nhất thiết sắc thân”. Nếu Thường Bất Khinh là vị Bồ-tát có hạnh luôn
“tôn trọng” (respect) mọi người và Dược Vương có hạnh “chân thành” (congruence),
khiến mọi người ai thấy cũng vui thì giờ đây, Diệu Âm mới là vị Bồ-tát có hạnh
“thấu cảm” (emphathy) rất chuyên biệt, sâu sắc. Có khả năng hiện nhất thiết sắc thân, nghĩa là muốn biến thành ai cũng được dù
là Phật, là Bồ-tát, vua quan hay yêu ma quỷ quái gì cũng được, lại còn có khả
năng nghe hiểu và nói mọi thứ tiếng “giải nhất thiết ngữ ngôn chúng sanh” nữa,
nên thâm nhập vào mọi cảnh ngộ, mọi tình huống đều rất dễ dàng. Thấu cảm là khả
năng đặt mình vào địa vị của người khác mà hiểu cho thấu suốt nguồn cơn, có vậy
mới có lòng từ bi thật sự.
Con đường đến trái tim người phải là con
đường của cảm xúc, của sự rung động, không thể bằng lý trí, nghĩ suy, toan
tính... Âm thanh chính là con đường đó, mau chóng nhất, gẫn gũi nhất. Tiếng hú,
tiếng kêu, tiếng rên... chẳng phải là thứ âm thanh của trần thế cần được lắng
nghe đó sao? Ai bảo chỉ có con người mới có ngữ ngôn?
Diệu Âm, âm thanh vi diệu, có thể đi thẳng
vào lòng người bởi khả năng “hiện các thứ thân hình” để “nơi nơi vì hàng chúng
sanh nói kinh điển này!”. Âm thanh vi diệu, một tiếng mõ, tiếng chuông,
tiếng tụng niệm đủ để chuyển hóa, đủ để làm lửa nóng của địa ngục thành cam lồ
của thiên đàng sao không? Không có năng lực này thì không thể tiếp cận, không
thể giúp chúng sanh tiếp nhận Diệu pháp. Không chỉ hiểu ngôn ngữ mà còn phải có
hình sắc tương đồng, một thứ ngôn ngữ cơ thể mới có thể truyền thông không lời
hiệu quả. Một người mặc veston cà vạt sao nói chuyện được với một bé bụi đời
rách rưới lang thang hay một cô gái giang hồ xác xơ đầy mặc cảm... Cho nên Diệu
Âm khi cần thì biến thành Phạm Thiên Đế Thích, khi thành vua thành chúa, thành
trưởng giả, doanh nhân, cư sĩ, dạ-xoa, atula, nhơn phi nhơn các thứ.... Khi cần
thì hóa Thanh văn, Bồ-tát, Phật không khó. Cần vào địa ngục thì vào, ngạ quỷ súc
sanh đều là... bạn thiết, không phân biệt đối xử... Và nhờ thứ tam muội này mà
Diệu Âm mới nói kinh Pháp hoa cho
chúng sanh ngộ nhập được tri kiến Phật, mà chuyển hóa được tám vạn bốn ngàn
phiền não thành tám vạn bốn ngàn cánh sen xanh mướt, đẹp đẽ, gần bùn mà chẳng
hôi tanh mùi bùn.
Khi Văn Thù thấy ngàn cánh sen xanh mướt
rực rỡ bay vèo đến thì biết ngay đó là Diệu Âm, và muốn cho mọi người cũng được
thấy biết vị Bồ-tát dễ thương này. Phật bảo Văn Thù: “ Đức Đa Bảo Như Lai đã
diệt độ từ lâu đây, sẽ vì các ông mà hiện bày thân tướng của Bồ-tát đó”.
Đa Bảo Như Lai tức thời gọi Diệu Âm: “Thiện nam tử đến đây! Văn Thù muốn thấy
thân của ông”.
Chuyện lạ! Đức Thích Ca đã mời được Diệu Âm
Bồ-tát đến mà phải có Đa Bảo Như Lai “diệt độ từ lâu” mới gọi ra cho mọi người
thấy mặt được sao? Thì ra người ta không thể “nhìn” được cảm xúc nếu không có
xúc cảm! Không thể lấy lý trí, nhất là lý trí tích cóp mà “thấy ” được cảm xúc.
Hiểu là một chuyện, cảm là một chuyện khác. Chỉ có Đa Bảo mới “gọi” được Diệu
Âm. Hay nói khác đi, những ai hằng sống với Đa Bảo, hằng thân thiết với Đa Bảo
mới nhận ra được Diệu Âm. Còn không thì Diệu Âm vẫn là một vị Bồ-tát xa lạ. Khi
Diệu Âm xuất hiện: “Mắt như cánh hoa sen xanh rộng lớn, diện mạo đẹp hơn nghìn
muôn mặt trăng, thân sắc vàng ròng vô lượng công đức trang nghiêm, ánh sáng chói
rực”... rõ ràng không thể khiến ta không... rung động sáu cách!
Diệu Âm hỏi thăm Thích Ca: “Thế Tôn ít bệnh
ít khổ, đi đứng thơ thới, sở hành an vui chăng? Bốn đại điều hoà chăng? Việc đời
nhẫn được chăng? Chúng sanh dễ độ chăng? Không có người nhiều tham dục, giận
hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn chăng?... Chúng sanh hàng phục được
các ma oán chăng? ”. Thì ra vì chịu mang thân tứ đại ngũ uẩn nên Phật cũng phải
“ khổ ”, phải vất vả như ai ! Chỉ có Đa Bảo Như Lai thì mới tủm tỉm cười cười
chẳng nói.
Diệu Âm vãng lai.
Đến rồi đi. Đi rồi đến. Nhưng thực ra Diệu Âm vẫn luôn còn đó, vẫn luôn có đó,
vẫn với đôi mắt trong xanh vời vợi đó, vẫn với thân hình ngàn cánh sen mướt
nhung bay lượn đó cho bất cứ ai, bất cứ đâu, khi biết nghe tiếng sóng, tiếng
gió, tiếng lá rơi, tiếng côn trùng... và tiếng chuông chùa “dạ bán chung
thanh”... !
Diệt thọ tưởng định là cõi thiền mà Phật đã sáng tạo trên con
đường tu tập để cắt đứt vòng ái, thủ, hữu... Tâm lý học ngày nay cũng tập trung
nghiên cứu về “thọ”, nghĩa là về cảm giác, cảm xúc. Kiểm soát “thọ” thì kiểm
soát được tâm. Chính là con đường của Diệu Âm Bồ-tát (Gadgadasvara). Gadgada là
Diệu, là điêu luyện, là thuần thục, Svara ở đây là Âm, là Tự tại. Nói cách khác, có thể dùng
âm thanh để đạt đến Tự tại nhờ một kỹ năng điêu luyện.
Nghe một tiếng
chuông, ngửi một mùi hương, nhìn một chiếc lá rơi... gợi bao nhiêu cảm xúc, giúp
ta thấy vô thường, thấy duyên sinh, không, vô ngã... Chuông đánh
lên thì nghe tiếng chuông, chuông không đánh thì nghe cái “không tiếng chuông”.
Cái nghe, sự nghe, tánh nghe vẫn đó, không vì tiếng chuông có hay không.
Âm thanh vi diệu, Diệu Âm, một khi đến được “nhất tâm bất
loạn” thì đã vào chánh định rồi vậy!
Đỗ Hồng Ngọc