Vũ trụ bản hữu bản thể luận

vu tru

 

Định Hy biên soạn

Thích Đức Trí dịch

Lời đầu của lun gi

 

 

Kng gian vô biên khắp cả mười phương là vũ, thời gian vô cùng tn quá khứ, hin tại và vị lai là trụ. Hữu vi, vô vi, sc tâm, nhim tịnh, tt cả vạn pháp đu gi là vạn hữu. Tt cả vạn pháp từ xưa cho tới nay tch dit vắng lặng, vốn kng sanh dit, tồn tại kng lay chuyn, cùng một thể với hư kng trong mi thời, cùng một chân như pháp tánh, cái đó gi bn th. Vn hữu từ tướng trạng mà nói; bn thể từ phương din lý tánh mà nói, cũng gi là tht tướng của chư pháp.

 

 

(1) Chúng ta ai cũng sn có tánh giác ngvắng lặng viên dung, linh hot thông suốt, chẳng mê chẳng lm, vô danh vô tướng. Mi người đu có đủ thể tính bn giác, cho đến đại thể vũ trvạn hữu cũng vy. Do mê chân tìm cái vng (chân là chân tướng, chân lý, chân như, chân kng, chân tht, chân tế, chân giác, chân tính, chân trí, thánh trí, tht trí, tht tế, tht tướng, tht tánh, pháp tánh, pháp giới, bn


 

th, nht th, nht như, nht vị, nht tướng, kng tướng, Niết-bàn, bình đẳng, cứu cánh). Vng là tướng hư di, là bị ô nhim bởi sáu trần. Từ đó chu chìm đm trong vòng sanh tử.

 

Đức Thế Tôn vì muốn chúng sanh ng nhập trí tuệ chân tht nên thị hin trong thế giới Ta bà, lao nhc bốn mươi chín năm tuyên dương Chánh pháp, khai mở quyn tht, tùy căn cơ trình độ mà giáo hóa. Chính là muốn chúng sanh lìa xa huyn hóa, dp bỏ cu nhim, dit hết phin não, phá hết vng chấp, giác ngộ tự tâm, trvbn thể thanh tịnh vốn có. Ba tạng kinh đin, năm thời giáo pháp[1], chính là phương tin dy đo. Từ các phương tin quyn xo, khiến người giải hết mê hoặc và trói buộc, dn dn ngđược bn thể tự tánh.

 

 

Các tông Tánh, Tướng, Đài, Hin, Mt, Lut; giúp hết thy mi người có trình độ sai bit đu tiếp nhn pháp môn tu học, chng ngộ thể tính bt động. TĐt Ma dy: Người liu ng tại tâm, tức cht cành, b để tìm tn gc r để đốn ngộ thực thể chân kng. Phương tin tu tp thường có thay đi, phân lp các nhánh, chính là tùy bnh cho thuốc, vì cứu cánh mà lp phương tin, khiến đốn ng tht thể chân như. C hướng Tịnh độ gì? Chính mượn

 

1.   Ngũ thời thuyết  giáo: Thiên Thai tông có lp thuyết Ngũ thì giáo, tức giáo pháp của Pht được phân ging tnh m thời kỳ: 1. Thời k Hoa nghiêm 2. Thời k Lc uyển 3.Thời k Phương đng 4.Thời kBát nhã 5.Thời kPp hoa và Niết-bàn.


 

tăng thượng duyên cõi Tịnh đ, đó là điu kin ưu vit, nương nhờ đại nguyn của Pht để khi bị thi tâm giác ng, to thun lợi cho vic tiến tu đo nghip, từ đó mà chng bn thể thực tướng. Các bậc thánh giả mười phương trong quá kh đt nht thiết trí phải trải qua vô lượng kiếp tu hành thoát khổ để cu quả vgiác ng. Đó là khnăng chng ngbn thể của vạn pháp. Sdĩ các bậc thánh giả thành đại giác, tự tại giải thoát có vô sdiu dng là do chng ng bn th. Hàng phàm phu chúng ta b nghip lực trói buc trầm luân trong ngũ thú là do mê bn th. Cho nên bn lun này thuyết minh vấn đề và ng dựa trên nguyên tc căn bn giáo pháp xưa nay.

 

(2) Tham cứu ng tn nhân sanh vũ trụ, vô tn kng gian, thời gian và suốt vô lượng thế giới tương dung tương nhiếp ln nhau, cho đến tướng chân tht của của bn thể vạn hữu là chẳng phải cái chỗ thy biết do suy lun và do ước tính hoặc do thế trí bin thông của con người. Đó chẳng phải chỗ đt đến của ý thc, tư tưởng, biến kế hay phân bit, cho đến dứt sch vng nim, danh ngôn, phan duyên, xa rời đi đãi, hí lun và năng sở; chẳng phải thy, nghe, hay, biết; chẳng phải tham sân si; ngôn ng đo đon, tâm hành xdit. Duy chỉ có trí Bát nhã thm thâm mới chiếu soi đến được, duy chỉ có trí giác ng mới có thể tương ưng. Cái trí như như mới khế hợp với chân lý như như; lý trí nht như, thể dng kng hai. Nghĩa lý kng cùng tn, quán chiếu vô cùng tn, xa lìa ngôn ngvà khái niệm; trí viên minh t rạng, tướng vốn kng hai, thông suốt kng


 

dời đi. Phân bit thuc v thc, kng phân bit thuc về trí. Theo thức là nhim, theo trí là tịnh. Nếu khởi kiến giải tức lc vào ý thc, kng thy tướng chân tht. Thực tướng các pháp, một thể chân như. Thể của vạn pháp là một, phàm thánh kng khác, tính như như xa rời ý nim cnh giới, kng danh tự, kng ngôn ngdin đt, chỉ giả danh gi là đệ nht nghĩa đế. Lun Đại trí độ nói: “Đệ nht nghĩa kng chư pháp tht tướng. Tt cả vạn pháp, kng có pháp nào mà kng quy v chân như. Như là thể tính bt động, cũng gi là chư pháp tht tướng, nht chân pháp giới, bn thể chân như. Tt cả tướng vạn pháp sc và tâm là hư vng huyn hóa, đu là tướng dng khởi từ bn th. Tức là từ đại quang minh tạng, mt nim đu khởi động, tâm thức phân bit mà hin huyn nh. Từ đó theo sự tướng ri mê lm bn th, giữ cnh thì xa rời chân như. Nhim trước tức chướng ngại, hợp với trần và quay lưng với giác ng. Nếu rõ biết như vy, kng nhim kng chấp trước, kng y cứ, kng trụ tướng, dõng mãnh hi hướng Niết-bàn, tự ngộ nhập bn lai din mc, siêu xut phàm tục, hướng nhập cnh giới vô ngại tự tại, vĩnh vin thoát ly sanh tử, gi là xut thế. Nếu kng rõ điu này, bị cnh mê hoặc, bị tướng trói buc. Một khi hành động đã chiêu cm quả o thì bnghip lực giam cm, theong sanh tử nhập vào bin kh, đó gi là vô minh. Cái gi là nht nim tâm sanh tức thành tam giới, nht nim tâm dit tức ra khi tam giới vy.

 

 

Lại na, từ giả nhập kng, bt thọ nht trần, tùy thun


 

pháp tánh, rời xa sanh tử, gi là đại trí. Dùng trí vô lu kng trNiết-bàn, từ chân xut tục, phổ nhập thế giới, kng xả một pháp, tùy thun chúng sanh mà mở đường cứu đ, đó gi đại bi. Bi trí song hành, tự lợi lợi tha, giác hnh viên mãn, phước huệ vẹn toàn, tức thành tựu vô thượng chánh giác. Đây chính là chân lý mà chúng ta nên tích cực truy cu. Quả thc, chân lý này thâm sâu kng hn lượng, bậc giác ngộ trọn vẹn mới thu trit. Bản lun này muốn đề cp đến nguyên tc căn bn của chân lý phổ thông. Đó là định lut xưa nay bt biến, tn hư kng thế giới, kng thay đi kng sai khác.

 

(3) Pht pháp toàn vẹn, vi diu rng lớn, xa rời kiến chấp và vng tình, thiết lp trên phương din bn tâm thanh tịnh, thống nhiếp tt cả vạn pháp thế gian và xut thế gian. Cái gi là ci nguồn của vạn pháp là bn thể của vũ trụ, bao gồm tứ thánh lục phàm, pháp tịnh, pháp lc, tự tâm vốn đy đủ, nhân qu, y o, chánh o, thế gian và xut thế gian; tt cả nương vào đó mà thành lp. Thin ác ti phước đu do tâm to, cnh giới lục trần do thức biến hiện. Tt cả các pháp tùy nhân duyên khởi. Y trí mà thành tựu vô vi pháp trang nghiêm thanh tịnh và các bậc thánh hin sai bit, tức là pháp thanh tịnh B-đề Niết-bàn giải thoát tự tại.

 

 

Y thức mà thành lp tt cả pháp hữu vi thế gian và các cnh giới phàm phu, tức là pháp nhim từ vô minh phin não và nghip lực sanh tử. Cho nên từ cái gc vạn pháp


 

trong vũ tr mà lun giải nghĩa lý. Thanh tịnh tâm tức là đệ nht nghĩa đế, cho đến toàn bộ trung tâm tư tưởng của thánh giáo. Ly nhim hoàn tịnh thu trit bn tâm và ti thượng thừa pháp, cũng gi Bát nhã trí, là đo lý tuyt đi. Tt cả pháp môn các tông Hin và Mt đu nhập đệ nht nghĩa đế, đu ly kiến tánh làm chỗ quy nht. Xa rời đệ nht nghĩa thì chẳng phải cứu cánh. Đây là phm vi tự chng trí tuệ của bậc thánh cùng với tha lực nhiếp trì của đại nguyn, đy đủ đo lý. Phương pháp ở đây là tóm tt nhưng lun giải rõ ràng để nhn thc, thâu tóm đim then chốt của kinh giáo và pháp ngữ các bậc hin triết xưa nay trích ra ý nghĩa ch đo trình bày nguyên tc phổ thông để rõ nghĩa tinh yếu của Pht pháp. Chương đu tiên nói vnghĩa lý Bát nhã, đây là nói vnguyên lý để trình bày yếu nghĩa kiến tánh. Cũng là có ý mượn công thức này hin bày triết lý thâm uyên, xa rời ngôn ng và khái nim, vì đó là lp trường chung của các tông phái Pht giáo. Nghĩa lý dung thông, từ đó mới quy về một nga, thâm nhập một nghĩa mà thâu nhiếp nhiu nga. Chương cui cùng thuyết minh sxác chng vphương tin sai bit, nó ng tha đáng với vấn đề tu hc nhanh cng thành tựu của pháp môn Tịnh đ. Bát nhã làm tông chỉ, thực hành tại pháp tu nim Di Đà, Tịnh độ con đường tt của sự tu hành hướng đến cốt ty của Pht pháp. Kng lun là pháp môn tham thin, quán chiếu, trì tụng đu từ hữu tướng nhập vô tướng, từ phương tin quyn xo để nhập thực tế chân như. T nguyên tc căn bn đó, tn hư kng biến khắp pháp giới, từ kiếp xa xưa cho đến v lai, cho đến


 

tt cả quc độ kng hai kng khác. Phương tin tuy có tám vạn bốn ngàn pháp môn, xuyên suốt quy v kng hai, nếu khế nhập đệ nht nghĩa đế tức nhập vào dòng thánh giác ng, như ng lỗ mũi chỉ để hít thở. Sanh tử tức Niết- bàn như hoa đốm giữa hư kng,ngôn ng n tự, phương tin quyn xo trở thành hí lun trói buộc,như tùy bnh cho thuc mà thôi.

 

(4) Bản thể vạn hữu tức tht tướng các pháp, tức đệ nht nghĩa đế. Thế nào là đệ nht nghĩa đế? Có thể từ tt cả sự thể nghim của nghĩa lý sau:

 

 

1. Tvũ trvạn hữu gồm tt cả hin tượng, thể nghim vạn pháp từ xưa đến nay thường hằng bt biến, đương thể vốn nó như vy, tướng của nó chân tht xa rời ngôn ngữ.

 

 

2. Trit ngộ tánh kng tch của các pháp vốn do duyên khởi, kng lp tại hai bên và kng có khái nim giữa của hai bên, chỉ nhập tại đệ nht nghĩa chân tht.

 

 

3. Từ trong bn cht sanh dit thể nghim pháp tánh vốn rời xa ngôn ngữ, vắng lặng kng sanh dit, thường tr bt động.

 

 

4. Từ trong bin vng tưởng sai bit muôn trùng quán thể tính chân tht của nó vốn như như kng biến đi, kng sai khác mà quy về đại kng vốn kng khả đc, vắng lặng và sáng suốt.


 

5. Liu đt cụ thể sự tht của vng tưởng huyn hóa mà tùy thun pháp tánh hin ra các tướng sanh dit.

 

6. Dit tt cả tướng đi đãi sai bit, kng theo tướng chuyn, kng theo pháp chuyn, an trvào tánh kng của tt cả pháp mà thâm nhập trọn vẹn, trit ng tánh bình đẳng nht như.

 

 

7. Hin bày tính cht kng tự tánh của huyn pháp, an trú trong chánh kiến, khế nhập tính chân tht kng sanh dit của tt cả pháp, ngchân tâm thanh tịnh.

 

 

8. Vô nhim vô trước, dứt hn hí lun, vng nim kng sanh, tâm ngã sdit, kng còn trước sau, kng rơi vào sai bit, kng mê mờ vng động, trú trong vi diu tch tịnh, thu trit bn thể bt động.

 

 

9. Sanh dit đã dit thì tch dit hin tiền.

 

10. Biết tt cả pháp là chân như tuyt đi, các pháp bn tính kng, các pháp thường vắng lặng, chân như tuyt đi bình đẳng kng sai bit, xa rời tt cả tâm duyên vào ngôn ng n tự, ng nhập pháp tính bình đẳng vô sai bit, mới có chân tht thể nghim tính kng của tt cả pháp, nhập vào tướng chân tht như như.

 

 

11. Từ tt cả pháp vốn kng có chỗ sanh, kng chút nương tựa,ct b vạn duyên, trit để quét sch và bng x


 

hoàn toàn.T trong thể kng rốt ráo y kiến thọ khởi lên, vắng bt tht thức đại, pháp thân hin tiền.(Kiến thọ gì? Là chân lý tuyt đi; là trí tuệ chân tht, đệ nht nga, pháp vô sanh, trong thể vắng lặng đy đdiu dng biết khắp mi sự. Pp y sanh vô lượng diu nghĩa; tt cả trí tuệ diu dng thn thông giải thoát tự tại. Cnh giới công phu cao nht, thâm sâu kng lường; trên biết dưới, dưới kng thể biết trên. Đây nhng công đức diu dng của bậc thánh nhân đại giác, thâm sâu như đáy bin, nói kng bao giờ hết. Có nghĩa là khi chưa giác ngộ nói ra đu là hư di, là tác dng của tâm sanh dit; như người ăn bánh v, như giy trắng và mực đen vốn kng tương ưng. Cn phải tự bn thân thể nghim chng ng, cái thy của schng đc mới chân tht. Nếu còn tồn tại nim chng đc ng là đại sai lm! Nếu kng sng lại từ trạng thái tuyt xứ, kng bng x hết vng tình kng thể nhập vào cnh giới này. Viên giáo đốn ng k gp, một khi mt thân này, hi cải kng kp. Đời này kng lo độ thân này thì còn đợi đến kiếp nào mới làm được, để ri trôi dt trong bin sng chết vô ng bi thương; sng chết vic lớn, vô thường qua mau, chớ để thời gian quý u trôi qua trong oan uổng!)

 

12. Tức thoát căn trần, cnh thức đu trit tiêu, còn duy nht tính nht như các pháp

 

 

14. Tức là vô trmà trụ, Niết-bàn thường trụ tức là nim trước kng sanh nim sau kng dit.


 

15. Tức tự giác ng thánh trí, minh tâm kiến tánh, tức là phát B-đề vô thượng, phát tâm vô sở đc, tức là khai phát cái bn nhiên vốn thanh tịnh của tự tánh, tức khai mở trí tuệ quang minh vốn tròn đy xưa nay.

 

16. Đó chính là nhập pháp môn kng hai, nhập vào bin giác tánh, nhập vào nht chân pháp giới, nhập đại tng trì, nhập thắng nghĩa đế, nhập tht tế, nhập pháp tánh, nhập giác tánh, nhập pháp thân, nhập chân tế, nhập Niết-bàn, nhập đo tràng, tọa đo tràng, tây lai ý; tt cả chỉ ng một nghĩa vy.

 

 

17. Lại na, pháp tánh chân như, tự tánh thường trụ, bin giác ngộ thanh tịnh, bin tánh giác tch dit, chân tâm vô trụ, diu tâm viên giác, chân như thanh tịnh, tht tế chân như, đại quang minh tạng, đại viên cnh trí, diu giác minh th, thể đại giác viên thường, bn địa thanh quang, bn lai din mc, bn thể tự tánh, bn thể bt động, tt cả đu cùng một thể mà khác nhau tên gi vy. Nên biết thể giác ngviên minh là đức tánh đy đvốn có của chúng ta. Tt cả kinh lun Hin-Mt-Tánh-Tướng đu hin bày trong giác thể này vy.

 

 

(5) Pht pháp tức là tâm pháp, có nghĩa rng lớn, cũng có nghĩa tóm gn. Nghĩa rng lớn tức hết thy giáo lý trong đại tạng kinh đin, giảng giải kng thể cùng tận; nghĩa tóm gọn trong bậc siêu xut nht thừa giáo dùng vài câu pháp ng trực khế với nguồn tâm, nhiếp vô lượng diu


 

nga. Kinh Pp hoa có dy: Trong mười phương thế giới, chỉ có nht Pht tha, kng hai cũng kng ba, trPht phương tin nói, nhưng đó chỉ là mượn danh tự để giáo hóa chúng sanh. Kinh Niết-n có dy: Chỉ có một Pht tha, phương tin nói có hai. Trên phương din bn th, chỉ có một sự tht này. Cho nên Pht pháp quý trng thực chng, thực tin, hnh giải tương ưng. Nếu như cu hc rng, ly n tự tr duyên, mới chỉ kiến giải v schng ng, nếu phương din công phu tu tp chng ngbị thiếu sót, chỉ thành hc giả mà chẳng phải là hành giả; chỉ người đc sách chẳng phải người tu trì. Kinh Pp cú dy: Đc ngàn bài kinh, kng bằng thực hành một câu kinh. Bnh kiến giải càng nặng thì càng xa đo, lc vào thế trí bin thông, lâm vào trì tr, càng nhiu chướng ngại. Mạng căn kng đon, tức thuc kiến tri, dng n tự là cửa dn vào cnh bế tc. Ngôn ngn tự, phương tin ban ra để dn đến giải ng, nhân giải mà khởi hành, hành khởi thì giải tuyt. Cho nên nói: “Pht thuyết tt cả pháp, chỉ trừ tt cả tâm, nếu ta kng có tt cả tâm, làm sao nói đến tt cả pháp. Ngôn ngn tự chỉ là thiết lp tùy chỗ mà nói, tích tp phân bit, dng cụ để phá chấp, tùy bnh cho thuốc, chính dùng ngón tay chỉ mt trăng, là thuyn đưa người qua sông. Ngón tay chỉ mt trăng tuy có nhiu sai khác, nhưng mt trăng chỉ có một. Quan trng là thy rõ mt trăng, kng nên tìm cu ngón tay dài ngn, thô tế, trắng đen. Ngàn kinh vạn lun đu khiến người phá trchấp trước thân tâm, rõ biết nguồn tâm, thy rõ bn tánh, chỉ quy vbn thể chân kng. Txưa đến nay Pht


 

Tổ đu khuyên người y cứ nghĩa lý kng y cứ ngôn ngữ. Dùng ngôn ngmà hin bày nghĩa lý, dn dn chng ng, đc nghĩa thì ngôn từ đu phải đon tuyt, đốn ngộ nht tâm, đó là pháp giải thoát vy.

 

(6) Hi nghĩa lý cao tột bn thể vạn pháp vì lý do gì? lợi ích gì? Xin nói cho biết.

 

 

Tr lời: Vì mục đích sau ng muốn o ân Pht và ân sư trưởng, muốn o ân cha mẹ và ân chúng sanh, muốn độ thoát su khổ tt cả chúng sanh, muốn phá hết vô minh để thoát ly sanh tử, phát khởi tâm nht thừa vô thượng B. T giác tức xa rời tâm ô nhim, trv tâm thanh tịnh vốn có xưa nay, đon trừ mê hoặc, chng ngchân tht bn tính vốn có. Từ tt cả pháp vốn kng có chỗ sanh, liu trit pháp chân tht chính bn thể chân kng, nhổ sch cái gc sanh tử, đc nht thiết chng trí.[1] Tinh thn lợi tha thương xót chúng sanh trong năm đường ác đang chu cnh trầm luân, lưu chuyn sanh tử. Mình chưa giác ng, nhưng nguyn độ người chưa được đ, rung tiếng chng cnh tỉnh, din xướng tht tướng, tán dương nht Pht tha, truyn bá tinh hoa chánh pháp cứu độ chúng sanh cho đến tương lai. Phổ nguyn chúng sanh trong vô tn thế giới hướng về đo giác ng, chng ngbn thể bt động, rời xa mê lm, ct đứt dòng sông sanh tử, thoát ly khổ não, nhập vào trí tuệ chân tht rốt ráo bình đẳng, được

 

 

1.  Nht thiết chng trí là trí của Pht.


 

s an lc trọn vẹn. Năng lực tuy chưa đy đủ, thường vận dng tâm này, nim nim tương tục kng gián đon, dựa vào nguyn lực đại bi và đại trí để hướng đến giác ng cứu cánh, đó là chng đc quả vti thượng viên mãn vy.

 

G tr lợi ích hin tại mà nói, Pht pháp vô ng rng lớn, tùy theo khnăng tiếp nhn mà thọ dng thì kng hn định. Thông đt tam thế nhân qu, bao cnh thăng trầm trong năm đường; vì tnh khi đa tam đồ ác đo mà hành pháp nhân thiên như ngũ giới và thập thiện. Quán chiếu tường tn vạn pháp sanh dit biến đi, vốn vô thường vô ngã; mục đích để xut ly tam giới mà tu đo của bậc hin thánh giải thoát, Niết-bàn. Vn đề tự lợi thì phải nhn biết huyn để đt bổn nguyên, ngpháp vô vi; hiu đời là khổ ách, kng tranh hơn thua với đời. Khiêm tốn mà quán xét rõ ràng minh bạch, đi người tiếp vt với lòng cởi mở, gigìn phm đc, nỗ lực tích lũy phước đc, ăn chay là thun đo lý từ bi; kng sát hại thì thin thn th h, trời người lễ kính, tai ha tiêu trừ, tăng trưởng phúc đc, thiu dục tri c, png bnh lâu dài. An lc trong thin định tăng trưởng trí tu, tâm lượng rng rãi, hoài o to lớn, tu tâm dưỡng tánh, ung dung tự tại, trong kng chỗ đc, ngoài kng tìm cu, kng b cnh trần trói buộc, kng b ngũ dục hoặc, c nguyn cao xa, hướng đến giác ng. Phát trin tinh thn đó tức là tịnh hóa lòng người, tịnh hóa xã hi, tịnh hóa thế giới. Lợi người là để o ân, xem mi người là chính mình, xem chính mình là mi người, mục đích phục v con người quên mình. Nhiếp hóa k ương


 

ngnh, mở rng phương tin tu nhân tích đc, biết chỗ trv, khai mở đo lý nhân quả ba đời, khiến dng cnh luân chuyn trong lục đo; lợi ích pháp Tam quy, ngũ giới, nim Pht và png sanh; thường hành bố thí với tâm thanh tịnh, nhổ sch gc kh, đem lại an vui. Phát trin tinh thn đó, tức từ bi hết thy muôn loài, mang đến lợi ích cho chúng sanh trong khắp cả tam giới. Tâm hnh lợi mình lợi người như thế tức là kiến lp nhân sinh quan đúng theo đo lý.

 

Ly bn thể thực tướng các pháp làm trung tâm, mi người biết tu giới, định và tuệ để dit tham sân si. Thông đt đo lý vô nhim, vô ngã, thường tu hnh x ly và hnh nhn nhc, dp bbn ngã và đi tượng của ngã, trong mi hot động thường dưỡng đo tâm là tùy thun nhân duyên, kng lìa xa tự tánh. Kng lãng p thời gian, tâm kng bng th, lut nghi nghiêm chỉnh, nim nim định hu, x ly điu k x, làm điu k làm thì tâm địa quang minh, bn tánh thông suốt. Nếu đem phổ cp tt cả xã hi mà nói, như thi nguồn sinh lực vào hệ giáo dục tư tưởng siêu xut thế tục, nêu cao phong thái thanh cao liêm khiết, đó chẳng phải là nn chính trcông minh, người dân hin lương, quc gia đi mới, xã hi an ninh hay sao? đây, thế gian hóa thanh lương, chuyn thành đại đồng, tôn sùng sự thành tựu tốt đp với lý tưởng thanh tịnh. Đó là thế giới thánh thin của Pht giáo hóa nhân gian. Đạo lý trung, hiếu, nhân, ái, lễ nga, liêm sỉ, cn kim, cht phác, thành tht, luôn tuân th mi phép tc đó đời kng thiếu sót.


 

Nếu được như thế thì ngày nay làm sao mà có quá nhiu t nn trong xã hi như: sát sanh, trộm cp, hnh và nói di; bao cnh lừa đo, cướp đot, ỷ thế tranh giành quyn lc, đút lót hi l, tham ô tư lợi, chy theo dục lc hưởng thxa xỉ, phung ptin của, cuc sng đua đòi, lao tâm khổ trí, lòng dạ cuồng mê thì càng nhiu cnh khng b. Cnh sng suy đi đa lc như thế, làm sao mà cứu n? Tng nghe rằng: Thắp sáng ngọn đèn chánh pháp tại thế gian, phá trbóng ti vô minh.[1] Đó gi là tán dương đo lý nht Pht tha, áp dng phép tc đo đức để ngăn chn làn sóng tham dục lan tn khắp bốn phương trong nhân gian.[2](Nghĩa là khiến chúng sanh lắng dng lòng tham dc, sng với tâm thanh tịnh giải thoát). Đó mới hành động cứu vớt nhân loại nhiu đời.

 

(7)Đệ nht nghĩa đế là căn bn của tt cả các pháp môn. Tịnh độ chỗ quay v của các tông phái, thắng cnh vi diu của sự tham học, tu luyn trước khi thành Pht để cứu độ chúng sanh. Giải thoát sanh tử, tự lợi, lợi tha cũng kng ngoài con đường tt này. Tóm lại mà nói, nhập đệ nht nghĩa đế, tức duy tâm Tịnh đ. Bt cứ cnh Tịnh độ nào ng kng xa rời đệ nht nghĩa đế. Quán kinh có dy: “Kng liu rõ đệ nht nga, kng đc thượng phm thượng sanh. Nim Pht mà giải ng tưởng Bát nhã,

 

1.   Câu này ngun n ch Hán là: Ám thế minh đăng, đồng chiếu u hôn

2. Câu này din đt ý từ ngun n chHán trong bn lun là: Cuồng đào tứ đt, vô sở y quy


 

kng dễ dàng trực tiếp nhập vào cnh giới nht tâm đt đến cnh giới thượng tha. Thông đt đệ nht nghĩa kng, tự mình chân tht nim Pht. Tsự tu mà kng ngoài lý, trong lý vốn bao gồm sự. Đại sư Liên Trì dy: Chấp smà tu nim thì có thể tương ưng, chân tht đt đến kết quả phm v; chấp lý mà tâm kng thông suốt, sẽ lc vào cái tai ha kng tưởng.Cho nên vic đu tiên xem trng s tu, sau đó từ s nhập lý, từ ít tăng thành nhiu, từ tm thời mà đến lâu dài, từ bên ngoài nhập vào ni tâm, nương vào du tích mà tìm đến cnh giới siêu vit, từ hữu nim mà đt vô niệm; kng lc vào hữu vi và s tướng tức đt đến năng nim và sở nim như huyn hóa vốn kng có tht th. Ly công phu nim Pht, thâu hết vạn pháp vào nht tâm. Đạo lý nim Pht và tham thin đu như là gicht cây gy mà bước đi, đu là thpháp ly vng dp vng, đu là phương tin để quy vạn pháp về nht tâm. Nếu kng bng gy, kng biết lìa bỏ cái gi là phương pháp và kng hiu rõ ngay cái đó chỉ là phương tin thì chc chn xy ra tình trạng chấp pháp. Cđức đã từng cân nhc rằng: Dựa b rào, vịn b tường để bước đi cn thn![1](Nghĩa bóng tt yếu dựa vào pháp môn tu,

 

 

1. Câu này ngun n chHán là: “Phù ly mc bích n.Đng nghĩa với câu: “Phù tường mc bích. Nghĩa là dựa vào bo hay tường vách mà bước đi cn thận, nhưng khi đi đng vng chãi ri thì rời b mới đi xa hơn được. Nghĩa bóng chính xác trong lun này là xem pháp môn tu đu phương tin để đt đến cứu cánh chng ngộ đệ nht nghĩa đế, thể nhập cn kng, trực nhận bn thể các pháp.


 

nhưng nên hiu đó là phương tin, mục đích sau cùng là thể chng đệ nht nghĩa đế). Cho nên, cn phải có công phu thành thc, nỗ lực tinh tn, quy v nht tâm, nhập vào đệ nht nghĩa kng, tức tr v bn thể chân kng. Cái gi là trvmà kng trvề mới là chân tht trv. Trvchương, trvbảo tạng tự tánh, trvchân lý bình đẳng, tr v bt sanh bt dit, tr v T tánh hải(Tỳ lô là biến khắp tt c, cũng gi là thanh tịnh pháp thân phổ biến khắp mi cnh giới), trvhư kng pháp giới. Chính là ct đứt tn vi tế phin não vô minh, nhập tn hư kng kng ngn mé, rõ ràng vạn pháp đồng hư kng; tánh và tướng, nước và sóng đâu phải là hai, bn thể vốn tròn đy kng thêm bt, xưa nay các pháp vốn như vy. Nếu kng trải qua mùa đông g lnh, nào có hoa mai tỏa nt đt trời.[1](Nghĩa bóng là nếu kng thể nghim trên sự tướng thế gian thì kng có phương tin thể nhập tht tướng). Khi đã liu đt tướng thế gian thì mới liu ngchân như. Tt cả vạn pháp đương thể là đệ nht nghĩa đế. Ở đây, mười phương chư Pht và Pht A Di Đà kng có hai tông chỉ.

 

 

(8) Pp môn Tịnh độ giai đon tu hc từ Giả nhập

 

1.  Hoàng ch Thin sư, với tác phẩm Uyển lăng lc, ni dung này ở trong bốn câu thơ: Trn lao quýnh thoát, s phi thường/ Khẩn bả thằng đu, tô nht trường/ Bt kinh nht phiên, n trit cốt/ Tranh đc mai hoa, phác thương.


 

Kng(Kng là đệ nht nghĩa đế). Đó là quá trình tôi luyn hai yếu t kết hợp từ bi và trí tu, tự giác và giác tha. Khi nghe pháp âm vi diu, đt vô sanh pháp nhn, thọ giáo mười phương chư Pht. Sau khi thành tựu tt cả công đc, thì từ chân xut tục, hi nhập Ta bà, phân thân khắp mười phương, dùng thn lực tự tại và từ bi kng chướng ngi; với lòng bi mn đồng thể biến khắp pháp giới làm lợi ích cho tt cả chúng sanh. Với phương tin khéo léo, giáo hóa hết thy chúng sanh xa rời vô minh phin não, xut ly bin khổ sanh tử đến b giác ngvà được an lc chân tht. Hư kng vô tn, quc độ vô tn, chúng sanh vô tn, nghip chướng phin não vô tn, tn kiếp vị lai thực hành đại nguyn từ bi cứu độ chúng sanh cũng vô tận. Trong n phát nguyn, Đại sư Liên Trì có chép: Vì bốn ân ba cõi, cho đến khắp pháp giới chúng sanh, mà cu đo vô thượng B, chuyên tâm trì nim vạn đức hồng danh Pht A Di Đà mong được sanh Tịnh đ. Tức vì chúng sanh mà cu vô thượng B, vì đo giác ng mà cu sanh cõi Tịnh độ an ổn với đủ nhân duyên thù thắng làm trợ đo. Trên thì cu giác ng, dưới thì hóa độ chung sanh. Nguyn ng với tt cả chúng sanh trong pháp giới, y theo ti thượng thừa mà phát B-đề tâm. Phát nguyn sanh Tây phương, nhập vào địa vkng thi chuyn, hóa độ vô tn chúng sanh đồng chng đo giác ng.

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle