Đi vào bản nguyện Tịnh độ

di vao

Thích Thái Hòa

* Các Truyền Bản

Bản nguyện của Phật A Di Đà được ghi lại ở trong các kinh, số lượng có chênh lệch nhau. Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, bản dịch của Chi Lâu Ca Sấm vào thời Hậu Hán, chỉ có 24 đại nguyện; và bản Đại A Di Đà Kinh do Vương Nhật Hưu đời Tống giáo tập, cũng chỉ có 24 đại nguyện; nhưng nội dung và thứ tự đại nguyện của hai kinh này có những điểm không ăn khớp với nhau. Vô Lượng Thọ Kinh, bản dịch của Khương Tăng Khải, đời Tào Ngụy, gồm có 48 đại nguyện và Vô Lượng Thọ - Như Lai Hội ở trong kinh Đại Bảo Tích, Bồ Đề Lưu Chí dịch vào đời Đường, cũng gồm có 48 đại nguyện. Trong lúc đó ở Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, bản dịch của Pháp Hiền đời Tống chỉ có 36 đại nguyện. Phạn văn hiện có hai bản, bản  Sukhāvatīvyūha - (Buddhist Sanskrit Texts No. 17 Mahāyāna-sūtra-sagraha part 1).  Darbhanga: The Mithila Institute, 1961, p 221-253), chỉ có 46 đại nguyện, không có nguyện thứ 9 là thần túc vô ngại, và nguyện 21 là nguyện nhân thiên có 32 tướng tốt. Trong khi, bản Phạn văn Amitābha Nāma  Mahāyānasūtra, có 47 đại nguyện, nghĩa là không có nguyện 21, nói về nhân thiên có 32 tướng tốt.   bản Tây Tạng phags paod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen poi mdo, có 49 đại nguyện, tăng thêm nguyện 38, rằng: “Bồ tát các cõi Phật, khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà đều cung kính lễ bái”.

 

* Liên Hệ Giữa Các Truyền Bản

Truyền bản Vô Lượng Thọ Kinh, Vô Lượng Thọ - Như Lai Hội ở Đại Bảo Tích Kinh, cùng với hai Phạn bản và Tạng bản, nội dung của các đại nguyện tương đồng nhau, chỉ có sai khác về thứ tự của các đại nguyện. Chẳng hạn, nguyện 23 của các bản tương đương với nguyện 21 của Phạn bản… Nói chung, 48 đại nguyện giữa các bản nội dung phần nhiều tương đồng, có một vài chi tiết và một vài thứ tự sai khác nhau không đáng kể.

Truyền bản Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh và Đại A Di Đà Kinh, chỉ ghi lại 24 đại nguyện của Phật A Di Đà phát khởi khi hành Bồ tát đạo, nhưng nội dung của hai truyền bản vẫn có những nguyện không ăn khớp nhau.

Hai mươi bốn đại nguyện của Phật A Di Đà được ghi lại ở trong truyền bản Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, tóm tắt như sau:

1-                Cõi Phật không có ba đường dữ.

2-                Những ai sanh vào cõi Phật ấy rồi, thì không còn rơi lại ba đường dữ.

3-                Họ đều có một màu sắc vàng tương đồng.

4-                Không phân biệt nguồn gốc trời người.

5-                Họ đều có tuệ giác hiểu biết đời trước.

6-                Họ đều có thiên nhãn thông.

7-                Họ đều có tha tâm thông.

8-                Họ đều có thần túc tự tại.

9-                Họ đều có thiên nhĩ thông.

10- Họ không có ái dục.

11- Họ luôn luôn an trú ở trong định cho đến chứng Niết bàn.

12- Có vô số đệ tử Thanh văn A la hán.

13- Tự thân có ánh sáng vô lượng.

14- Tự thân có thọ mạng vô lượng.

15- Nhân dân có thọ mạng vô lượng.

16- Nhân dân không có tâm xấu.

17- Danh tiếng vang khắp mười phương, hết thảy chúng sanh đều muốn sanh về cõi ấy.

18- Nhân dân các cõi nước xưng trì danh hiệu Phật, khi họ lâm chung, Phật và đệ tử đều có mặt để tiếp dẫn.

19- Muốn vãng sanh đều được toại ý.

20- Các vị Bồ tát chỉ còn một đời làm Phật.

21- Các vị Bồ tát đều có 32 tướng tốt.

22- Các vị Bồ tát đều có đầy đủ vật dụng để cúng dường.

23- Bồ tát muốn ăn, thực phẩm tùy niệm mà đến.

24- Bồ tát thuyết pháp dựa vào trí tuệ của Phật.

Hai mươi bốn đại nguyện trong truyền bản Đại A Di Đà Kinh, bản dịch của Chi Khiêm, nội dung và thứ tự của hai mươi bốn đại nguyện có những phần không ăn khớp với hai mươi bốn đại nguyện của truyền bản Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, bản dịch của Chi Lâu Ca Sấm.

Chẳng hạn, nguyện thứ tư và nguyện thứ hai mươi, ở trong truyền bản Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, không có ở trong truyền bản Đại A Di Đà Kinh. Và nguyện thứ mười hai ở trong truyền bản Đại A Di Đà Kinh, không có ở trong truyền bản Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh. Nguyện thứ sáu và thứ chín của truyền bản Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, ghép lại thành nguyện thứ mười bảy ở trong truyền bản Đại A Di Đà Kinh.

Truyền bản Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, do Pháp Hiền dịch đời Tống, ghi lại ba mươi sáu đại nguyện của Tác Pháp bí sô, tức là tiền thân của Phật A Di Đà trước đức Như Lai Thế Tự Tại Vương như sau:

1-                Nguyện trong nước không có ba đường dữ.

2-                Nguyện trời người xa lìa phân biệt, các căn vắng lặng.

3-                Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, đều có thần thông.

4-                Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, đều có túc mạng thông.

5-                Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, đều có thiên nhãn thanh tịnh.

6-                Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, đều có tha tâm thông.

7-                Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, đều an trú vào địa vị chánh tín.

8-                Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, đều tu tập chánh hạnh, thiện căn vô lượng, ở trong Niết bàn cùng khắp không gián đoạn.

9-                Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, tuy an trú ở vị trí Thanh văn, Duyên giác, nhưng vẫn thường làm Phật sự cùng khắp.

10- Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, đều có ánh sáng vô lượng.

11- Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, đều có thọ mạng vô lượng.

12- Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, đều có danh thơm vô lượng.

13- Nguyện chúng sanh cầu sanh Tịnh độ của cõi Phật ấy, khi lâm chung, chí tâm trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, sẽ được Phật A Di Đà và Thánh chúng trực tiếp đến tiếp dẫn.

14- Nguyện chúng sanh khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà, phát tâm bồ đề, muốn vãng sanh vào cõi Phật nào, thì tùy nguyện mà được vãng sanh.

15- Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, đều có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt.

16- Nguyện chúng sanh vãng sanh về cõi Phật ấy, nhưng vì đại nguyện giáo hóa chúng sanh, nên chưa muốn thành Phật, thì nhờ vào oai lực của Phật A Di Đà, mà giáo hóa chúng sanh phát khởi tín tâm tu tập thành tựu các hạnh.

17- Nguyện chúng sanh vãng sanh cõi Phật ấy, muốn cúng dường chư Phật mười phương vật dụng gì, thì vật dụng ấy tự có đầy đủ để cúng dường.

18- Nguyện các vị Bồ tát ở trong cõi Phật ấy, đều thành tựu nhất thiết trí, đàm thuyết giỏi nghĩa lý của các pháp bí yếu.

19- Nguyện các vị Bồ tát ở trong cõi Phật ấy, đều thường hành tinh tấn, vận dụng đại thần thông, cúng dường chư Phật mười phương, đầy đủ các phẩm vật, để hồi hướng Vô thượng bồ đề.

20- Nguyện các vị Bồ tát ở trong cõi Phật ấy, muốn thực hành hạnh thừa sự cúng dường chư Phật ở những thế giới khác, nhưng không thể đến được, thì nhờ vào uy lực của Phật A Di Đà, khiến chư Phật ở những thế giới khác, đều đưa tay đến thế giới Tịnh độ của Phật A Di Đà để tiếp nhận.

21- Nguyện các vị Bồ tát ở trong cõi Phật ấy, muốn cúng dường chư Phật ở những cõi nước khác, mà không rời khỏi cõi mình, nhưng nhờ thần lực của Phật A Di Đà, khiến các phẩm vật cúng dường, tự đến ngay trước mặt của mỗi đức Phật trong vô lượng thế giới.

22- Nguyện các vị Bồ tát ở trong cõi Phật ấy,  thân dài 16 do tuần, sức mạnh như Na la diên với ánh sáng rực rỡ.

23- Nguyện các vị Bồ tát ở trong cõi Phật ấy, thông đạt pháp tạng, đoạn trừ hết thảy lậu hoặc, an lập vô biên trí tuệ.

24- Nguyện các Bồ tát ở cõi Phật ấy, dùng hương làm bằng trân bảo, đốt cây chiên đàn vô giá, cúng dường chư Phật khắp mười phương.

25- Nguyện cõi Phật rộng lớn, trong sáng như gương, chiếu soi hết thảy cõi Phật.

26- Nguyện Bồ tát ở cõi Phật ấy, ngày đêm sáu thời đều vui sướng, vượt hẳn chư thiên, vào pháp môn bình đẳng tổng trì.

27- Nguyện cho người nữ trong vô số thế giới, nếu họ nhàm chán thân nữ, khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà, phát tâm thanh tịnh, quy y đảnh lễ, khi sinh mạng kết thúc, sanh về Tịnh độ thành thân nam tử.

28- Nguyện vô số Thanh văn, Duyên giác ở trong mười phương, nghe danh hiệu Phật A Di Đà, tu trì tịnh giới, nhất định thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề.

29- Nguyện các Bồ tát khắp cả mười phương, khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà đều đem năm vóc kính lễ, quy y.

30- Nguyện y phục ở cõi Phật ấy, tùy niệm đầy đủ, khỏi cắt may, giặt nhuộm.

31- Nguyện hết thảy chúng sanh nghe danh hiệu Phật A Di Đà, đều đạt thanh lương, tâm xa lìa phiền não, ngồi dưới cây báu, chứng vô sanh nhẫn.

32- Nguyện chúng Bồ tát khắp hết thảy cõi Phật mười phương, nghe danh hiệu Phật A Di Đà, liền chứng đắc thiền định tịch tịnh, ở trong thiền định ấy, mà thừa sự cúng dường chư Phật.

33- Nguyện hết thảy chúng Thanh văn, Bồ tát, khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà, liền chứng vô sanh pháp nhẫn, thành tựu hết thảy thiện căn bình đẳng, ly da hạnh, an trú vô công dụng hạnh.

34- Nguyện chúng Bồ tát ở trong cõi Phật mười phương, khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà, sanh tâm hiếm có, liền được thiền định Bồ tát phổ biến, ngay trong thiền định này trong khoảnh khắc liền được đảnh lễ, cúng dường tôn trọng chư Phật khắp cả mười phương không thể nghĩ lường.

35- Nguyện Bồ tát ở trong cõi Tịnh độ ấy, đều thích nghe pháp và thuyết pháp.

36- Nguyện chúng sanh trong tất cả cõi Phật, khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà, liền đạt được nhẫn thứ nhất, thứ hai, cho đến vô sanh pháp nhẫn.

Như vậy, ba mươi sáu đại nguyện của Phật A Di Đà ở trong truyền bản Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh có liên hệ đến bốn mươi tám đại nguyện ở truyền bản Vô Lượng Thọ Kinh như thế nào?

Về mặt cấu trúc ngữ cách, bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà ở trong Vô Lượng Thọ Kinh, sử dụng ngữ cách giả thiết hay điều kiện “nếu…, và thì…” mà tiếng Phạn là “saceme… na… mā tāvad aham…”. Trong lúc Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, sử dụng ngữ cách khẳng định, như đại nguyện đầu tiên ở kinh này ta thấy Tác Pháp bí sô phát nguyện trước đức Như Lai Thế Tự Tại Vương rằng : “Bạch Thế Tôn, con phát thệ rằng, nguyện chứng đắc Vô thượng bồ đề như Thế Tôn, cõi Phật trang nghiêm đầy đủ vô lượng công đức không thể nghĩ bàn. Tất cả chúng sanh trong ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a tu la sanh vào nước con, đều thọ trì pháp giáo hóa của con, chắc chắn không bao lâu sẽ thành bậc Vô thượng giác, tất cả đều được thân sắc vàng kim loại chơn thật”. (Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, tr 319 ab, Đại Chính 12).

Như vậy, ta thấy ngữ cách đại nguyện được sử dụng ở Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh theo lối khẳng định, nên rất mạnh mẽ.

Và ta thấy trong đại nguyện thứ nhất của Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, bao gồm cả nguyện một, hai và ba của Vô Lượng Thọ Kinh.

Nên, truyền bản Vô Lượng Thọ Kinh đã khai triển ba mươi sáu đại nguyện của Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh thành bốn mươi tám đại nguyện và Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh đã cô đọng bốn mươi tám đại nguyện ở truyền bản Vô Lượng Thọ Kinh thành ba mươi sáu đại nguyện.

Do đó, các đại nguyện giữa hai truyền bản có sự liên hệ chặt chẽ với nhau trong ý nghĩa cô đọng và khai triển.

Theo cách nghiên cứu và nhìn nhận của Kimura Taiken, bốn mươi tám đại nguyện, tăng lên từ ba mươi sáu nguyện. Nghĩa là phát triển từ nhỏ đến lớn. (Tham khảo Đại Thừa Tư Tưởng Luận).

Cách nhìn này của Kimura Taiken đã được Mochizuki Shinko thừa nhận một phần, quá trình phát triển từ cấp số nhỏ đến cấp số lớn, nhưng lại có bổ sung và nhận xét rằng: “Quan hệ trước sau giữa 36 nguyện và 48 nguyện thật khó mà khẳng định một cách dứt khoát, bởi vì 36 nguyện, có thể là một dạng bất toàn của 48 nguyện”. (Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam A, Tập I, tr 462).

Và theo Wogihara, sau khi đối chiếu các truyền bản với nhau, ông đã đưa ra kết luận “Đại A Di Đà Kinh và Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh là những kinh chứa đựng 24 bản nguyện là những kinh văn được thành lập sớm nhất, tiếp đến là Phạn bản Amitābhavyūhasūtra và văn bản thành lập sau cùng là Vô Lượng Thọ - Như Lai Hội ở Đại Bảo Tích Kinh và Vô Lượng Thọ Kinh là những kinh văn chứa đựng 48 nguyện”.

Nhưng theo sự nghiên cứu của Akashi, cho rằng, Đại A Di Đà kinh và Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh là những văn bản xưa nhất, tiếp đến là Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, rồi đến Phạn bản Amittābhavyūhasūtra và sau cùng là Vô Lượng Thọ - Như Lai Hội và Vô Lượng Thọ Kinh. Chủ trương của Ahashi vẫn còn có nhiều tranh cãi.

Sự quan hệ giữa các truyền bản liên hệ đến bản nguyện của Phật A Di Đà của các nhà nghiên cứu có nhiều sự tranh cãi thuận nghịch khác nhau, nhưng theo Giáo sư Lê Mạnh Thát, cho rằng: “Từ 24 nguyện của Đại A Di Đà Kinh và Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, đã làm cơ sở phát triển 48 nguyện của Vô Lượng Thọ Kinh và truyền thống 48 nguyện của Bi Hoa Kinh, rồi cuối cùng tổng hợp lại trong 36 nguyện của Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh”. (Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam A, Tập I, Trang 468).

Tóm lại, sự phát triển của các bản nguyện, không nhất thiết theo tỷ lệ thuận như Kimura Taiken đề nghị và có một số khác đồng tình, mà nó có thể ngược lại. Nghĩa là có thể hàng trăm đại nguyện hay nhiều hơn, được cô đọng lại thành 48 đại nguyện, và từ bốn mươi tám đại nguyện cô đọng thành 36 đại nguyện, từ ba mươi sáu đại nguyện cô đọng lại thành 24 đại nguyện, trong quá trình chỉnh lý.

Như vậy, theo tôi bốn mươi tám đại nguyện là văn bản xuất hiện sớm nhất, điều này ta thấy ở trong kinh Bi Hoa thuộc văn hệ Bản Duyên, sau đó được chỉnh lý thành bốn mươi tám nguyện ở trong Vô Lượng Thọ Kinh và Vô Lượng Thọ - Như Lai Hội ở Đại Bảo Tích Kinh, rồi tiếp tục chỉnh lý thành ba mươi sáu nguyện ở Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh và chỉnh lý sau cùng, còn lại hai mươi bốn nguyện ở trong Đại A Di Đà kinh và Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh.

Tại sao phải chỉnh lý và cô đọng kinh điển, vì xã hội con người càng ngày càng đô thị hóa, đời sống con người càng trở nên bận rộn với những đô thị hóa ấy của họ, khiến kinh điển cần phải được chỉnh lý và cô đọng lại những điểm then chốt, để cho người nghe dễ nhớ và thực hành. Nên, bốn mươi tám đại nguyện được chỉnh lý và cô đọng thành hai mươi bốn đại nguyện là điều dễ hiểu. Và rõ ràng, ở trong cuốn Pháp Môn Tịnh Độ, Bốn mươi tám Đại nguyện, Hòa thượng Tâm Như - Trí Thủ, đã rút gọi lại còn hai mươi mốt đại nguyện, mà Ngài cho rằng, những đại nguyện này liên hệ mật thiết với sự tu hành của chúng ta. (Toàn Tập Tâm Như - Trí Thủ, Tập 4, tr 1430, Nhà Xuất bản Phương Đông 2011).

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle