o
| Stephen Hawking
Tôi
hãy còn kinh ngạc với sự đón nhận cuốn sách của tôi: Lược sử thời gian.
Nó đã ở danh mục sách bán chạy nhất của New York Times trong ba mươi bảy tuần và
của tờ Sunday Times trong hai mươi tám tuần (cuốn sách được xuất bản ở Anh chậm
hơn ở Mỹ). Và nó được dịch ra hai mươi thứ tiếng (hai
mươi mốt, nếu bạn xem tiếng Mỹ khác với tiếng Anh) (Đến nay đã có 33 bản dịch
không kể bản tiếng Việt. PS). Điều đó vượt sự mong ước của tôi dự định lần đầu tiên vào năm 1982
viết một cuốn sách về Vũ trụ cho độc giả rộng rãi. Một trong các ý định
của tôi là kiếm tiền trả học phí cho con gái. (Trên thực tế, khi cuốn sách cuối
cùng rồi cũng ra được, con gái tôi đang học năm chót). Nhưng
động cơ chủ yếu của tôi muốn giải thích sự hiểu biết của chúng ta về vũ trụ đã
tiến lên được bao nhiêu và có lẽ chúng ta đã gần tới mức nào trong việc tìm kiếm
một lý thuyết hoàn chỉnh mô tả vũ trụ và tất cả mọi thứ trong đó.
Nếu tôi phải dành thời gian và sức lực để viết một cuốn sách,
tôi muốn nó có thể đến với một số người càng đông càng tốt. Các tác phẩm
khoa học mà tôi đã viết cho tới lúc đó đều do Cambridge University Press xuất
bản. Họ đã làm công việc rất tốt, nhưng có vẻ không thành thạo
với thị trường độc giả rộng rãi mà tôi nhằm vào. Tôi
tiếp xúc với một người môi giới văn học, Al Zuckerman, vốn là anh em rể của một
đồng sự. Tôi đưa cho anh ta bản nháp chương đầu tiên và
giải thích rằng tôi muốn viết một cuốn sách có thể bán tại các quầy sách của các
sân bay. Anh ta trả lời là điều đó không thể được: một cuốn sách như thế
có thể bán chạy cho giới đại học và sinh viên, nhưng không có cơ hội nào để cạnh
tranh với Stephen King (một tiểu thuyết gia).
Tôi đưa bản nháp đầu tiên của cuốn sách cho Zuckerman vào năm
1984. Anh ta đã gửi nó cho mấy nhà xuất bản và khuyên tôi nên nhận đề nghị
của Norton, nhà xuất bản Mỹ hơi kén chọn. Tôi quyết định chọn Bantam, không chuyên môn hóa chút nào trong việc
xuất bản những tác phẩm khoa học, nhưng sách của họ được phát hành rộng rãi tại
các quầy sách sân bay. Nếu họ chấp nhận sách của tôi thì chắc là do mối
quan tâm của một trong các cố vấn biên tập của họ, Peter Gujjardi.
Ông này vốn rất nghiêm túc trong công việc và bắt tôi viết lại cuốn sách sao cho
những người ngoại đạo như ông ta cũng hiểu được. Cứ mỗi lần tôi gửi cho
ông ta một chương đã được soát lại và sửa chữa thì ông ta gửi lại cho tôi một
bản liệt kê dài các nhận xét và các câu hỏi mà ông muốn tôi làm sáng tỏ.
Thỉnh thoảng tôi nghĩ rằng quá trình này chắc không có kết thúc. Nhưng
ông ta có lý: rốt cuộc cuốn sách trở nên hay hơn nhiều.
Ít lâu sau khi nhận được đề nghị của Bantam, tôi bị sưng phổi.
Tôi phải chịu phẫu thuật mở khí quản làm cho mất giọng.
Trong một thời gian, tôi chỉ có thể giao tiếp bằng cách nhướn lông mày khi ai đó
chỉ đúng chữ phù hợp trên một lá bài. Nếu không có
chương trình máy tính người ta tặng thì tôi hoàn toàn không thể viết xong cuốn
sách. Viết như vậy hơi chậm, nhưng tôi nghĩ ngợi cũng chậm, do vậy rất
phù hợp với tôi. Nhờ chương trình mà tôi hoàn toàn viết lại bản nháp đầu tiên đáp lại
sự cổ vũ của Gujjardi. Trong việc sửa chữa này tôi được
sự trợ giúp của một trong các sinh viên của tôi, Brian Whitt.
Tôi có ấn tượng rất mạnh đối với bộ phim truyền hình nhiều tập
của Jacob Bronowski có tên gọi là “Sự thăng tiến của đàn ông”.
(Một tên gọi phân biệt giới tính như vậy ngày nay sẽ không được phép). Bộ
phim giới thiệu tất cả những gì mà loài người đạt được từ những người dã man
nguyên thủy cách đây vạn rưởi năm đến chúng ta ngày nay. Tôi
cũng muốn giới thiệu những tiến bộ mà chúng ta đạt được khi tiến đến một sự
thông hiểu hoàn toàn các quy luật chi phối vũ trụ. Tôi tin chắc rằng hầu
hết mọi người đều muốn biết vũ trụ vận hành như thế nào. Nhưng đa số họ không đủ
khả năng theo dõi các phương trình toán học - vả lại ngay tôi cũng
chẳng yêu mến lắm các phương trình. Điều đó một phần là tôi viết rất khó khăn,
nhưng chủ yếu là do tôi không có sự nhạy cảm trực giác đối với các phương trình.
Tôi suy nghĩ bằng hình ảnh và mục đích của tôi là mô tả bằng chữ các hình tượng
trong đầu qua những so sánh tương tự quen thuộc và bằng vài đồ thị. Tôi
hy vọng bằng cách đó có thể chia sẻ với số đông người sự phấn khởi và tình cảm
của tôi với các tiến bộ nổi bật mà môn vật lý đạt được trong hai mươi lăm năm
gần đây.
Tuy vậy, dù đã tránh được các diễn dịch toán học, một số ý
tưởng vật lý vẫn còn xa lạ và rất khó trình bày. Tôi đứng trước hai con
đường: hoặc là tôi thử giải thích chúng với nguy cơ làm độc giả rối trí, hoặc là
tôi tránh các chỗ khó khăn? Một số khái niệm lạ lùng, như việc những nhà quan
sát di chuyển với tốc độ khác nhau đo được những khoảng cách thời gian khác nhau
đối với cùng một cặp hiện tượng, không thực cần thiết cho bức tranh mà tôi muốn
vẽ ra. Hình như tôi có thể bằng lòng với việc kể chúng ra mà
không đi vào chi tiết.
Mặt khác, một vài ý tưởng khó hiểu nhưng lại rất cơ bản khiến
tôi phải giải thích. Đặc biệt có hai khái niệm mà tôi
buộc phải đưa vào. Một khái niệm mà người ta gọi là “tổng hòa về các lịch sử”. Ý
tưởng đó nói rằng không tồn tại chỉ một lịch sử duy nhất của vũ trụ, mà là tập
hợp của tất cả các lịch sử có thể có của vũ trụ, và rằng tất cả các lịch sử đó
đều có thực như nhau (cho dù như vậy có ý nghĩa gì). Ý tưởng
khác cần thiết để rút ra ý nghĩa toán học của tổng hòa của các lịch sử, đó là ý
tưởng về “thời gian ảo”. Ngược lại quá khứ, ngày nay
tôi có cảm giác rằng tôi cần bỏ nhiều công sức hơn nữa để giải thích hai khái
niệm rất khó đó, có vẻ chúng đã đặt ra nhiều vấn đề nhất cho các độc giả cuốn
sách của tôi. Tuy vậy, cũng không thực sự cần thiết phải hiểu chính xác thời gian
ảo là gì, chỉ cần biết nó khác biệt như thế nào với cái mà chúng ta gọi là thời
gian “thực”.
Khi thời hạn phát hành đến gần, một nhà khoa học nhận được nhiều trang để bình
luận trên tờ Thiên nhiên đã ngạc nhiên về số lượng các sai sót trong đó, đặc
biệt về vị trí và chú giải của các minh họa. Ông đã điện cho Bantam, ở đó họ
cũng đã rất ngạc nhiên như vậy và quyết định thu hồi tất cả các bản in để sửa chữa. Sau
ba tuần lễ sửa chữa và kiểm tra cật lực, cuốn sách rồi cũng được đặt lên quầy
các hiệu sách đúng thời hạn phát hành đã thông báo.
Vào lúc đó, tờ Time đã dành cho tôi một bài báo dài.
Các nhà xuất bản tuy vậy cũng ngạc nhiên về số lượng yêu cầu.
Cuốn sách được tái bản mười bảy lần ở Mỹ, và mười lần ở Anh.
Tại sao nhiều người mua nó? Tôi khó mà khách quan được, vậy xin nhường lời cho các ý kiến bên
ngoài. Tôi thấy đa số các bài bình duyệt tuy thuận lợi nhưng không được
sáng tỏ cho lắm. Các bài đó có khuynh hướng đi theo các
công thức sau đây: Stephen Hawking mắc bệnh Lou Gehrig (đối với người Mỹ) hoặc
bệnh về các nơron vận động (đối với người Anh). Anh ta bị gắn chặt vào một chiếc
ghế di động, không nói được và chỉ có thể ngọ ngậy một số x ngón tay (x biến thiên từ 1 đến 3, tùy theo bài báo không chính
xác mà người bình duyệt đã đọc về tôi). Tuy vậy anh ta đã viết
một cuốn sách về vấn đề cơ bản trong các vấn đề là chúng ta từ đâu tới và chúng
ta đi đâu? Câu trả lời mà Hawking đề nghị là vũ trụ không được sáng tạo
ra cũng như mất đi: đơn giản là nó tồn tại. Để phát biểu ý tưởng đó, Hawking đã
đưa ra khái niệm thời gian ảo mà tôi (người bình duyệt) thấy hơi khó
theo dõi. Dù sao nếu Hawking có lý và nếu chúng ta đi
tới một lý thuyết hoàn toàn thống nhất, chúng ta sẽ biết được tư tưởng của Chúa. (Khi sửa chữa các bản nháp, tôi đã định gạch câu cuối cùng nói rằng
chúng ta sẽ biết đến tư tưởng của Chúa. Nếu tôi làm vậy, số sách bán được có thể giảm đi một nửa).
Sáng suốt hơn một chút (theo tôi) là bài báo của The
Indipendent nói rằng ngay một cuốn sách khoa học nghiêm túc như lược sử thời
gian cũng có thể trở thành cuốn sách kích động. Vợ tôi (cuối năm 1995 các báo
loan tin S. Hawking ly dị với bà Jane đã có với ông ba mặt con và lấy người hộ
lý vẫn chăm sóc ông) thì kinh hãi nhưng tôi hơi khoái vì thấy cuốn sách của mình
được so sánh với cuốn Luận về thiền và việc bảo dưỡng xe máy.
Tôi hy vọng rằng, cũng như cuốn Luận, nó cho mọi người cảm giác rằng họ không bị
tách rời một cách định mệnh khỏi các vấn đề lớn về tư duy và triết học.
Không nghi ngờ gì là khía cạnh con người, liên quan đến việc tuy bị tàn tật
nhưng tôi vẫn trở thành một nhà vật lý lý thuyết, đã phát huy tác dụng.
Nhưng những ai vì quan tâm đến điều ấy mà mua cuốn sách có thể thất vọng, vì
cuốn sách chỉ có đôi chỗ hiếm hoi đả động đến tình trạng sức khỏe của tôi; đây
là cuốn sách về lịch sử của vũ trụ, không phải của tôi.
Điều đó không giúp cho Bantam khỏi bị buộc tội rằng đã khai thác thô bạo bệnh
tật của tôi, và tôi thì đã hợp tác bằng cách cho in ảnh của mình lên trang bìa.
Trên thực tế thì theo hợp đồng tôi không có quyền gì
đối với tờ bìa. Tuy thế tôi cũng thuyết phục được Bantam dùng một tấm ảnh tốt
hơn cho tờ bìa cuốn sách xuất bản ở Anh, thay cho hình ảnh thảm hại và đã cũ
dùng để trang trí cho cuốn xuất bản ở Mỹ. Nhưng họ vẫn không thay đổi tờ bìa cho
cuốn sách xuất bản ở Mỹ vì họ nói với tôi rằng độc giả Mỹ bây giờ đã đồng nhất
tấm ảnh ấy với cuốn sách.
Người ta cũng ám chỉ rằng mọi người mua sách vì họ đã đọc các bài bình duyệt,
hoặc vì cuốn sách được liệt vào danh mục các sách bán chạy nhất, chứ họ không
đọc nó; họ chỉ đơn thuần có nó trong tủ sách hay đặt nó trên bàn xa lông để được
tiếng là sở hữu nó, mà không cần bỏ công tìm hiểu. Tôi tin rằng điều ấy cũng xảy
ra, nhưng tôi không biết đó có phải cũng là trường hợp của các sách nghiêm túc
khác, bao gồm cả Thánh kinh và Shakespeare. Trái lại, tôi biết rằng một số người
ít ra cũng đã đọc nó, vì hàng ngày tôi nhận được một chồng thư về cuốn sách của
mình; nhiều thư có những câu hỏi hay những bình luận chi tiết, chứng tỏ người
viết đã đọc cuốn sách, dù rằng họ không phải luôn luôn hiểu được tất cả. Cũng có những người lạ đón gặp tôi trên đường phố để nói rằng cuốn
sách đã làm họ hài lòng đến mức nào.
Hiển nhiên tôi dễ nhận ra và khác biệt nhiều, chứ không phải
được công nhận nhiều so với đa số các tác giả khác.
Nhưng tần số của những khen ngợi công cộng đó (làm đứa con
trai 9 tuổi của tôi bối rối). Hình như chứng tỏ rằng ít
ra có một tỷ lệ những người mua sách đã đọc nó.
Nhiều người hỏi tôi rằng hiện nay tôi định tiếp tục làm gì.
Tôi khó mà viết được phần tiếp theo
cuốn sách Lược sử thời gian. Tôi sẽ gọi nó là gì?
Một lịch sử dài hơn của thời gian? Bên kia
sự kết thúc của thời gian? Đứa con của thời gian? Người môi giới gợi ý nên quay
một cuốn phim về cuộc đời của tôi! Nhưng cả tôi và gia đình tôi sẽ không có được sự tôn trọng cá nhân
nếu chúng tôi để cho các diễn viên đóng vai của mình. Cũng sẽ là như vậy, trong chừng mực ít hơn, nếu tôi cho phép ai đó
viết tiểu sử của mình. Dĩ nhiên, tôi không thể ngăn cấm ai đó tự ý viết
tiểu sử của tôi, miễn là không bôi nhọ tôi, nhưng tôi sẽ cố làm nản lòng những
người có dự định ấy bằng cách nói rằng tôi nghĩ đến việc tự viết tiểu sử cho
mình. Có thể làm như vậy, nhưng tôi không vội. Tôi đang dự tính nhiều nghiên cứu chúng là ưu tiên đối với tôi.
Những hệ quả khác của giả thiết không có điều kiện biên hiện
nay đang được nghiên cứu. Một vấn đề đặc biệt lý thú là trị số của những
độ lệch nhỏ khỏi mật độ đồng nhất của vũ trụ vào những giai đoạn sớm, chính
những độ lệch nhỏ đó sau này sẽ cấu thành trước hết là các thiên hà, sau đó là
các sao và cuối cùng là bản thân chúng ta. Nguyên lý bất định buộc rằng vũ trụ
vào các giai đoạn sớm không thể tuyệt đối đồng nhất bởi vì tồn tại những bất
định hay những thăng giáng của vị trí và vận tốc của các hạt. Sử dụng điều kiện
không có biên, chúng ta thấy rằng vũ trụ trong thực tế phải xuất phát từ sự
không đồng nhất trong phạm vi
cho phép bởi nguyên lý bất định.
Vũ trụ đã phải trải qua một thời kỳ giãn nở nhanh như trong
các mô hình lạm phát. Suốt thời kỳ đó, những chỗ không đồng nhất ban đầu
sẽ được phóng đại lên đến khi đủ lớn để cho phép chúng ta giải thích được nguồn
gốc của những cấu trúc quan sát được trong vũ trụ. Trong một vũ trụ giãn nở,
trong đó mật độ vật chất thay đổi không nhiều từ chỗ này sang chỗ khác, thì hấp
dẫn làm cho những vùng có mật độ cao hơn giãn nở chậm và bắt đầu co lại. Điều này dẫn đến sự hình thành các thiên hà, các sao và sau đó là cơ
thể của chúng ta.
Như vậy mọi cấu trúc phức tạp mà chúng ta quan sát được trong vũ trụ đều có thể
giải thích được bởi giả thiết không có biên của vũ trụ cộng với nguyên lý bất
định của cơ học lượng tử.
Ý tưởng cho rằng không và thời gian có thể làm thành một mặt đóng không có biên
cũng đưa ra những điều ràng buộc sâu sắc đối với vai trò của Chúa trong các công
việc trong vũ trụ. Với tiến bộ của các lý thuyết khoa học có khả năng mô tả
nhiều hiện tượng, đa số tin rằng Chúa cho phép vu trụ tiến hóa
theo những quy luật nhất định và không can thiệp để vi phạm các định luật
đó. Song các định luật này không nói lên được vũ trụ đã thoát thai từ trạng thái nào - lên dây cót đồng hồ và chọn xem vũ
trụ bắt đầu như thế nào vẫn là phần của Chúa. Nếu mà vũ trụ có một điểm xuất
phát, chúng ta buộc lòng phải giả định có một Đấng sáng tạo. Nhưng nếu vũ trụ là
hoàn toàn tự thân, không biên không mút thì vũ trụ cũng không có bắt đầu, không
có kết cuộc: vũ trụ chỉ tồn tại. Vậy thì Đấng sáng tạo giữ vị trí gì ở đây?
Theo PSN