Tác dụng tham gia và tri kiến đặc thù (tri kiến tự chứng)
tac dung
Pháp Hiền cư sỹ
Suốt trong buổi chiều của ngày thứ nhì, Đỗ Duy
Minh đã đưa ra một khái niệm ngắn nói về sự
liên hệ mới
giữa năng tri
và sở tri (người biết và
sự vật được biết) mà
cả hai
hầu như
đã được vật
lý hiện đại dự
tri rồi. Nhờ
đoạn trình bày
ngắn của
anh ấy, mà
chúng tôi
được bước vào trong
một sự
“liên doanh,” tức là sự liên hệ từ người tham gia với đối tượng được quan sát. Vì
đối nghịch với tri thức không do duyên sinh và phi nhân cách, cho nên quá nhiều
nền khoa học và học thuật đương đại đều ra mặt tranh luận cho các dạng tri kiến
đặc hữu (personalzed knowing –
tri kiến tự chứng) và
tri kiến hữu thể hóa
(embodied knowing – tri kiến sẽ thành), tuy tất cả đều mang tính khách
quan. Sự lý giải về cái [ý] thức con người (của khoa học và học
thuật đương đại) luôn cộng thông
với Phật giáo
và những hình thái tu tâm dưỡng tánh khác,
hầu như dẫn chúng ta đi trên một
con đường duy
nhất. Như vậy, hình
thái về một liên hệ đầy hiệu quả giữa hai phương pháp
lý giải và tri thức này phải là gì, khi mà ta được [khoa học] đưa đến thế giới khách
quan và hai là cơ sở tu dưỡng tâm linh [của Phật giáo] khiến ta thể nhập được
lĩnh vực nội tại của thức?
DUY MINH: Bữa tiệc giàu sang
và tế
nhị dành cho
tư duy,
chúng ta vẫn đang được chiêu đãi, thế nhưng ý tưởng đã phát sinh trong cuộc hội
thảo này mới là tiêu điểm của tôi: ý tưởng của người quan sát – kẻ năng tri. Một
trong những thông điệp mà Anton trình
bày là
thông tin
đạt tới
từ những kinh
nghiệm được chắt lọc cao nhất, chính là sự liên kết giữa người quan sát và thế
giới ngoại quan – năng quán và sở quán – qua cách điều giải của các công cụ.
Năng và sở quán tương dung thành một
liên kết
chung
và cùng
nhau phát
sinh một
thực chất thông tin. Tôi e rằng, Anton vốn biết bản thân của
thông tin là
một hý trường mà những hàm ẩn toàn diện về sự
liên kết này khiến ta phải cất công khám phá hơn nữa. David cũng vừa chỉ ra
rằng, khi mà thuyết tương đối được thừa nhận một cách
rộng rãi,
thì tính phức hợp do người quan
sát giới thiệu trở thành
tiên quyết và có
ý nghĩa
tuyệt đối. Trong
cả hai
trường hợp
này, người quan sát hoặc kẻ năng tri đều trở nên cực kỳ quan trọng.
Vì xét điều ấy như là
vấn đề cốt tủy, cho nên tôi muốn chia sẻ cảm nghĩ của
mình về hai loại tuệ giác [khai sáng]: châu Âu và
châu Á,
nhất là
Phật tuệ. Trong thời kỳ
khai sáng của
châu Âu, vẫn có
những biến thể của nó.
Ở Pháp,
người ta
nhấn mạnh vào cuộc cách mạng tinh thần và chủ
nghĩa cá nhân chống lại tôn giáo thuộc quyền giáo sĩ (tôn giáo tăng lữ), còn
thời kỳ khai sáng ở
Tô-cách-lan (Scotland), thì
đặt trọng tâm nhiều vào chủ
nghĩa hoài nghi,
chủ nghĩa kinh nghiệm và
chủ nghĩa thực dụng. Giữa những giá trị vĩ
đại này đã hình thành phong trào khai sáng của châu Âu, tự do, bình đẳng, chủ
nghĩa cá nhân, nhân quyền, quyền khiếu kiện theo luật pháp và lý tính (trí) là
nét nổi bật hơn cả – nhất là lấy lý trí làm công cụ; hoặc sự trợ giúp của lý
tính mà
ta đạt tới tri thức thực tiễn và
những phương hướng y
trên công
cụ. Triết gia
Bacon của
thế kỷ thứ 17 đã định nghĩa, tri thức là
sức mạnh, khác với quan
niệm của Hy Lạp: tri thức là trí tuệ.
Bức chân dung này được
phong trào khai sáng của châu Âu khắc họa, làm nguyên nhân của nguồn sáng; khi
tri thức được rộng mở trên
toàn thế
giới, thì sự tối
ám sẽ biến mất dần.
Nếu lý tính ấy được chúng ta làm cho tỏa chiếu khắp vũ trụ, đúng như làm cho
ánh sáng tỏa sáng một căn phòng, thì mọi vật dụng và chiều kích trong đó, không
thứ nào mà ta không nắm bắt. Tất nhiên, chủ nghĩa lạc quan sẽ không còn bị
chùn bước, vì nó dựa trên sự tiến bộ của nền vật lý và khoa học mới.
Giờ thì niềm tin
đã vượt ngoài tầm khống chế của thời kỳ khai sáng cổ điển – niềm tin trong khả năng của người lãnh hội (năng tri) là mở ra bản thân của tri thức. Giờ đây hãy giả định rằng, khi lĩnh vực tri thức của ta đang phát
triển, thì nhu cầu hiểu biết của chúng ta càng lúc càng trở nên thuyết phục
hơn và, trong một cách nào đó,
sự tối ám
cũng càng
lúc càng
thêm mở
rộng. Đây là một
điều kiện đặc thù chỉ có
con người mới có. Tri kiến thì thiếu hụt, còn xúc cảm thì thặng dư. Khả năng hiểu biết của ta không bao giờ
thỏa mãn được cảm
xúc, ý hướng và yêu cầu của mình dù nó được tích lũy như thế
nào. Bao giờ cảm xúc cũng
luôn trào
dâng và
tri kiến thì luôn thiếu hụt. Điểm cốt yếu mà tôi muốn đề cập ở
đây, chính
là cảnh giới tự tri: lĩnh hội và thực chứng bản chất của
mình qua kỹ
năng thực tập
tâm linh và thuật tự tu dưỡng, và nó hầu như tồn tại trong mọi truyền thống tâm linh –
Đông cũng như Tây –
và nhất là trong truyền thống Phật giáo.
Trong ý nghĩa
này, triết học là đạo lý sống, cốt ở
sự rèn
luyện tâm thức để khám phá
cảnh giới bên trong của
chính mình. Sự lãng
quên cảnh giới bên trong
mà loài người đang cơ nhỡ đã
từng được đức Dalai Lama của chúng ta cảnh tỉnh; còn tiêu điểm mà
khoa học khai sáng, chính
là khám phá
thiên nhiên, tức là khám phá thế giới khách quan vậy.
Sự đột hiện của nền
vật lý mới xét như là một phương pháp cho ta biết dứt khoát rằng, các phép nhị
phân duy nhất mà cơ bản là chỉ cho nét đặc trưng trong hệ
thống triết học Descartes và nhiều nhà
tư tưởng khai sáng khác
– phép
nhị phân
về thân– tâm, tâm–vật, chủ–khách –
lẽ ra
phải được thay
thế. Một trong hai: hoặc tính nhị phân hoặc sự tư duy lẽ ra phải được
thay bằng sự liên kết [duyên khởi] mang lại nhiều thành quả hơn, sắc thái hóa
hơn và thành thứ lớp của bề mặt và chiều sâu, trong và ngoài, cái bộ phận và
toàn thể, gốc rễ và cành nhánh hơn.
Chính khả
năng liên kết [hay duyên
khởi – integration] này lại là khả
năng tiếp nhận tính lưỡng trị đầy hiệu quả, nói đúng
hơn, chính
điều đó
khiến ta vươn tới cái gì
là chân
lý và trong một ý nghĩa giới hạn nào đó, sự
kết hợp ấy mới khai phóng được mọi tính chất thuộc về các khả thể lạ
thường.
Tự tu và giác ngộ
Sự trình
bày ngắn gọn của Duy
Minh sở
đắc một cách
tuyệt vời ý niệm chồng chập phức hợp mà ta đã
từng bỏ công minh họa cho thế giới lượng tử.
Tính lưỡng trị của electron thể hiện trên đường đi
của mình là hữu thể: Chính tính lưỡng trị tích cực này
chỉ cho
ta biết vị trí hoàn
toàn lạ
thường của thế
giới hiện tượng và ở đó ta có
được kỹ thuật phát triển.
DALAI LAMA:
Theo bạn, có phải tính
lưỡng trị
thiếu sự minh bạch hay ý bạn muốn nói đến một cái
gì quá toàn năng?
DUY MINH:
Chắc chắn
tính lưỡng trị
không phải là
sự thiếu vắng tính
trong sáng
đơn thuần mà vì nó
có nhiều hiệu quả với mọi loại tính năng và tiềm năng, một
nguồn cung cấp vô tận cho vạn hữu mà ta hãy còn chưa biết đến.
Tầm nhìn tích hợp của
trí tính mà ta có, cần đến sự tương tác lợi
lạc giữa hai đặc tính
của sự
khai sáng: Sự
khai sáng của
Tây phương, tập trung
trên lý trí
biểu hiện bằng công cụ, khám phá thế giới khách quan và
đối với
Á châu, nhất là Phật giáo, đó là sự giác ngộ. Rất nhiều những thuật
ngữ, và ý tưởng mà trước đó được cho
là đáng
ngờ – đối thoại, truyền thông, tương tác, hỗ tương tri
nhận tính
(intersubjectivity), tính hỗ tương quan hệ, tính tương đối, tính liên kết – tất cả [các ý tưởng và thuật ngữ này] đều bị phê phán
mà trí
năng mới
lạ ấy phải hứng chịu. Khái niệm
về trí tính không còn bị hạn cuộc đơn thuần trong loại
động vật
có lý tính nữa. Xét
từ bối
cảnh này,
có lẽ
trí tính, phải cần
cả đến sắc–tâm hỗ trợ, nó
không chỉ
là những chức năng tri nhận của tư duy mà còn là
những chiều hiệu ứng của tâm và thậm chí của thân nữa.
Chính trong ý nghĩa
này mà khái niệm về tư duy được cụ thể hóa,
hoặc đó
là một loại “thắng tuệ [tri
kiến đặc thù – personal knowledge]”, như
đã được học
giả Michael Polanyi
mệnh danh và nó
càng lúc
càng trở nên
quan yếu.
Loại tri thức đặc thù này không
phải là loại tri thức chủ
quan. Nó cũng
không phải là tư kiến. Nó
có thể được thuyết minh công khai, cảm nhận tự đáy lòng hoặc được hữu thể hóa
(embodied). Nó có thể được tranh
luận và
bàn bạc giữa những liên
hệ cá
nhân. Theo tôi,
giờ là thời điểm chín muồi để ta nghĩ đến một nền giáo dục chưa từng có. Đó là lý tưởng cao vời,
thậm chí, có lẽ lý tưởng ấy là nguyện ước tất yếu, mà nền giáo dục mới này được
gắn chặt cùng sự tự
tu của
Phật giáo và
các truyền thống tu tập
khác. Sự thiết lập các luật trừng tâm như thế nơi cơ sở đào tạo
hiện đại là rất thiết yếu, bao gồm các bộ môn khoa học tự nhiên chuyên môn hóa
tối cao, bởi vì người học sẽ được nâng cao thành
người quan sát
mang tính
cộng đồng, chứ không chỉ
hình thành cho riêng
từng cá nhân
một. Điều đó cũng sẽ
nâng cao sự tự giác chung,
có phê phán từ những thành viên biết phản tỉnh trong
cộng đồng khoa học. Và điều này hoàn toàn
cần thiết cho một cuộc đột phá mới.
Thời điểm giờ đây là
thời điểm chín muồi cho các nhà khoa học – không riêng với những nhà vật lý mà
còn chỉ chung cho các nhà khoa học, thì trạng thái
nội quán
đưa tới
giác ngộ trong Phật giáo như là
hình thái
tự tu
dưỡng phải được toàn bộ
chúng ta thừa nhận. Tôi có thể hỏi đức Dalai
Lama một câu
hỏi riêng,
với tư cách một bậc
đạo sư, ngài bất ngờ mở lòng ra với nền khoa học đương đại (chắc là trong số
chúng ta Ngài là người bận rộn nhất và hãy còn là người có một phẩm chất tâm
linh vô cùng tự tại): vậy thì, một ai đó có
kiến giải hiện đại sẽ phải thể hội sự lợi lạc của thắng trí
phức hợp từ quán pháp
của Phật giáo như thế nào?
DALAI
LAMA:
Khi nói
đến một
cái
gì đó
chưa kịp suy
nghĩ quả là rất khó.
Tôi
cảm
nhận được bầu không khí nồng ấm thể hiện
qua
những
nụ
cười trên
khuôn
mặt của
toàn thể
những
người tham
dự ở nơi đây.
Niềm tin
cơ bản
của
tôi là
bản chất con
người của chúng
ta luôn nhu hòa và từ ái.
Tất
nhiên,
đối với một vài cá nhân thì họ đặt trọng tâm trên bình diện tri thức nhiều
hơn, song,
bản chất cơ
bản của con
người thì vẫn
thế.
Đối với một
nhà
khoa học,
người mà 24
giờ ròng rã
tư duy
phân
tích, thì
chỉ
cần bỏ ít giây trong ngày để tu dưỡng lòng bi, thì điều đó sẽ
thật hữu
ích khi ta phải đi qua một thời kỳ gian khó hay cảm
nhận
khổ
đau.
Thậm
chí
điều đó sẽ giúp
ta biết chắc rằng, ta sẽ có
một
đáp
trả tự nhiên nào đó về lòng bi và liên hệ.
Tôi
vẫn luôn
nghĩ rằng, tri
thức của chúng ta
chẳng
thể quen
dùng
cho việc
phá
hoại. Điều đó rõ ràng lắm rồi.
Người
ta
có
thể
hiếu kỳ và
mừng
vui
khi
có
được nhiều kiến thức, thế nhưng, chắc rằng,
“đa kiến”
đừng nên gây
khổ đau hay
phiền não cho
xã hội
loài người, cho một nhóm người hoặc cho những
cá nhân.
Hai nhà phiên dịch sau
khi đã cùng nhau bàn bạc, và rồi hỏi Duy Minh là, có phải bạn muốn kết luận cảnh
giới giác ngộ của đức Phật theo những cách quan sát của bạn hay bạn chỉ muốn nói
đến giới luật phổ biến của sự tự tu.
DUY MINH:
Ồ, vâng! Vẫn là
cảnh giới giác ngộ. Vấn đề thách thức tôi thật sự là ý niệm về việc thành tựu tâm linh
(chứng tánh – spiritual fruition)
mà quả vị
là ý tưởng toàn bộ
tam thiên thế giới được thực chứng trong một sát-na. Thế
nhưng, cái
thị lực này, chắc là
thị lực
của một hành
giả thành
tựu
định y trên đại bi
và nội quán. Thị lực
ấy hoàn toàn
không phải là chủ quan, bởi
vì nó có thể truyền đạt và giúp cho thế giới này được chuyển hóa.
Làm thế nào mà những con người như bản thân chúng
ta, và
các khoa
học gia
trong những lĩnh vực khác
có thể liên kết với loại kinh nghiệm đặc thù
ấy như là cái cách hiểu biết, chẳng những chúng ta tự lĩnh hội bản thân mà
chính ta còn thực hiện tác dụng ấy trong các môi trường nhiều chuyên môn hóa
khác nhau nữa?
ARTHUR
ZAJONC: Tôi
có thể tóm gọn lại điều đó chăng? Có hai loại tri kiến (tuệ tri) mà ta đã luận
đàm, đó là ngoại trí và nội trí. Hai loại trí
tuệ này
có hai
khuynh hướng khác nhau: tri kiến của châu Âu đưa tới sự thành tựu
khách quan và đưa tới cái biết về thế giới bên ngoài; còn Phật tuệ là sự thành
tựu nội tại và đưa tới cái biết về cảnh giới ở bên trong
hay chứng tánh. Sự liên hệ giữa
hai truyền thống này là gì? Có phải chúng độc lập và
tách biệt nhau? Hoặc có cách
nào đem
cả hai thành
một mối tương quan đầy hiệu quả?
DALAI LAMA:
Dứt khoát
là có
tương quan. Tất nhiên, chúng ta cần phát triển bên trong lẫn
bên ngoài. Theo tôi thì
sự phát triển bên ngoài làm
điều kiện để ý nguyện bên trong của
chúng ta được thỏa mãn. Nói chung, mục đích khám phá thực tại chính
là vì lợi lạc
chúng sinh, ngoài
việc hoàn
thành nguyện
ước bên trong của mình (tự
lợi và lợi tha). Đến giờ mô hình mà khoa học thực hiện hầu như chỉ liên quan đến
những hiện tượng có thể được đo đạc và tính toán mà thôi.
Cùng lúc, 24 giờ một ngày, tất cả
chúng ta đều kinh nghiệm các hiện tượng rất quan trọng khác mà nó lại thuộc về
kinh nghiệm của giác quan. Nó là một trong những yếu
tố quan trọng để ta liên hệ đến kinh nghiệm khổ vui của chính mình.
Có vẻ
nhiều chất liệu sâu xa chỉ
là những điều kiện giúp cho
ta bớt khổ và
tăng vui.
Cũng có
những cách thức và các phương tiện khác cũng giúp ta như thế, cả
hai: cách thức và phương tiện đều quan
trọng như
nhau. Dù ta
có tin
vào tôn
giáo hay không, thì theo
tôi, những cách thức và các phương tiện mà ta có
được đều rất thiết yếu. Như vậy,
trong khi
đang thăm
dò thế giới ngoại tại, thì
điều đó cũng quan trọng như ta đang lý giải những nghĩ suy và hàm năng tâm thức của mình, nhất là trong lĩnh vực cảm (quan)
thọ. Bản chất cảm thọ nào
là hữu ích?
Bản chất cảm thọ nào là bản chất của phiền não?
Ta
có
thể làm
cho cảm thọ tăng
ích (tích cực) như thế nào?
Và làm
thế nào
ta diệt được phiền não hay cảm thọ thoái hóa?
Các nhận định tóm lược
của đức Dalai Lama chỉ là một phúc đáp sơ khởi cho câu hỏi có tầm quan trọng và
rộng lớn được Duy Minh đặt ra. Duy Minh đã tìm cách
đảo ngược sự rập khuôn thường kiến (đã
thành cơ sở chung – communplace) của cảm tính chủ quan
xét như là lập trường chống lại tư duy khách
quan thuần túy. Bạn ấy
hướng chúng ta
đến tri
thức đặc thù và những cảm
tính cụ thể hóa.
Những nhận định đó tạo nên một chuyển biến tuyệt vời đưa tới những quan tâm
xảy ra
trong ba
ngày mà lúc
đó đã
là lúc đến phiên tôi
trình bày. Sự
thăm dò mà tôi chọn, chính là
việc tương quan giữa kinh nghiệm và lý thuyết trong vật
lý, với kỳ vọng là tìm thấy một nền tảng mới, không chỉ cho tri thức khoa học mà còn cho tri thức mỹ học
cũng như đạo đức nữa. Theo tôi, điều này cần đến sự thay đổi quan niệm từ trong
bản chất mà Duy Minh đang đề cập đến.