Trịnh Xuân Thuận
Science et Bouddhique rút từ sách
Dictionnaire amoureux du ciel et des étoiles
của giáo sư Trịnh Xuân Thuận - Duyệt Nghiêm chuyển ngữ.
Với
tư cách một nhà vật lý thiên văn học nghiên cứu sự hình thành và tiến hóa của
những thiên hà, công việc làm tôi không ngừng tự vấn về những khái niệm về thực
tại, vật chất, thời gian và không gian. Là một người Việt lớn
lên trong truyền thống đạo Phật, tôi không thể không tự hỏi đạo Phật chú ý tới
những khái niệm này như thế nào. Thế nhưng, lập luận
dựa vào việc đối chiếu khoa học và đạo Phật chưa chắc sẽ có ý nghĩa. Nhất
là ở phương diện thực tập của đạo Phật, con đường giúp đạt tới sự hiểu biết về
cái ngã, phát triển tâm linh hoặc trở thành một con người tốt đẹp hơn.
Đối với tôi, đạo Phật trước hết là con đường
đưa đến sự Giác Ngộ, một thứ kỷ luật tinh thần, hướng cái nhìn chủ yếu vào nội
tâm. Khoa Học và đạo Phật sử
dụng những phương pháp nghiên cứu thực tại hoàn toàn khác nhau.
Trong khoa học, tri thức và luận lý nắm giữ vai trò then chốt. Bằng việc
phân chia, xếp loại, phân tích, so sánh và đo lường, khoa học diễn giải những
quy luật của tự nhiên theo
ngôn ngữ trừu tượng của toán học. Dĩ nhiên trong khoa học, trực giác không hẳn không có chỗ đứng,
nhưng nó chỉ hữu ích khi nào được hệ thống hóa trong một cấu trúc toán học chặt
chẽ. Ngược lại, trực giác – hay kinh nghiệm nội tâm –
đóng vai trò đầu tiên trong quá trình suy tư, quán chiếu. Thay vì chẻ nhỏ thực tại
thành những phần riêng biệt, Phật giáo dùng phương pháp tiếp cận toàn bộ sự vật
để hiểu chúng như một tổng thể. Đạo Phật không nhờ cậy vào bất kỳ dụng cụ
đo lường nào cũng như những quan sát biện luận, vốn là xương sống của nền khoa
học thực nghiệm. Những phát biểu (của đạo Phật) mang bản chất
định tính hơn là định lượng. Mục tiêu chính yếu của
khoa học là tìm hiểu về bản chất của thế giới hiện tượng, trong khi đó, điều này
không phải là mối quan tâm chính của đạo Phật.
Đạo Phật đã mô tả thực tại với ba khái niệm
chính : tương tức,
không và vô thường. Ba khái niệm cơ bản này tương ứng như thế nào
với sự mô tả thực tại của khoa học hiện đại ?
Đầu tiên, chúng ta hãy xem xét đến khái niệm
về Tương Tức (duyên khởi).
Đối với đạo Phật, tương tức là cốt lõi trong sự biểu hiện những hiện tượng : không có gì có thể tồn tại một cách tự thân hoặc do
bởi chính nó. Một cái gì đó chỉ được xác định bằng tên gọi của những cái khác, và
hiện hữu trong quan hệ với những thực thể khác. Nói cách khác, cái này có
bởi vì cái kia có. Theo đạo Phật, chúng ta có một thế giới được tạo
thành từ những hiện tượng riêng biệt phát sinh từ những nguyên nhân và điều kiện
riêng biệt, nhận thức đó được gọi là ‘sự thật tương đối’ hoặc ‘sự thật giả lập’.
Kinh nghiệm sống hàng ngày khiến chúng ta cho rằng mọi sự vật có một thực tại
khách quan độc lập, có vẻ như là chúng hiện hữu bởi chính nó với những bản sắc
tự thân. Tuy nhiên, đạo Phật nhấn mạnh rằng cái cách
nhìn thế giới hiện tượng như vậy chỉ là một sản phẩm của tâm thức. Sự vật sự việc chỉ có thể xảy ra khi có sự liên hệ và phụ thuộc với
những yếu tố khác. Một vật chỉ có thể tồn tại khi nó
liên kết, bị ảnh hưởng và làm ảnh hưởng lên cái khác.
Một thực thể tồn tại riêng biệt với tất cả mọi sự mọi vật thì nó hoặc là phải
tồn tại mãi mãi, hoặc là không tồn tại chút nào cả. Nó không thể tác động lên bất cứ một cái gì và không có cái gì có
thể tác động lên nó.
Thực tại không thể được định vị cũng không thể
được cắt rời từng mảnh nhỏ mà phải được xem xét như một tổng thể toàn diện.
Nhiều thử nghiệm vật lý đã cho chúng ta thấy
được tính tổng thể này của thực tại. Trong thế giới nguyên
tử và hạ nguyên tử, những thí nghiệm thuộc loại EPR cho chúng ta biết rằng thực
tại là ‘không thể tách rời’, hai hạt ánh sáng tác động qua lại lẫn nhau thì tiếp
tục thuộc về cái một và thuộc cùng một thực tại; cho dù có tách rời chúng ra một
khoảng cách như thế nào thì chúng cũng hoạt động tương liên ngay lập tức mà
không có bất kỳ một sự truyền đạt thông tin nào. Về phần thế giới vĩ mô, tính
toàn thể của nó đã được chứng minh bằng quả lắc Foucault, trong đó, cách hoạt
động của nó tương ứng với nhau không chỉ trong môi trường cục bộ mà còn ở toàn
thể vũ trụ. Những cái đang hoạt động ngấm ngầm trên quả đất nhỏ bé của chúng ta
quyết định cái bao la của vũ trụ.
Khái niệm tương tức cho rằng không thể định
nghĩa mọi vật một cách tuyệt đối, mà chỉ là tương đối với một cái gì đó khác. Về cơ bản, đó
cũng là ý tưởng đã định nghĩa ‘nguyên tắc về tính tương đối của những chuyển
động vật lý’, được trình bày lần đầu tiên bởi Galilée, sau đó đã được mổ xẻ lại
và phát triển ở mức độ cao hơn bởi Enstein. Galilée cho rằng :
‘Sự chuyển động thì giống như là không có gì cả.’
Qua đó, ông ta muốn nói rằng sự chuyển động của một vật thể
không thể được xác định một cách tuyệt đối, mà chỉ là chuyển động so với chuyển
động của một vật thể khác.
Giả sử có một hành khách trong một toa xe lửa đang di chuyển, không có một tiếng
động nào, vận tốc không đổi và tất cả những màn cửa được che lại thì không có
một thí nghiệm hoặc một phép đo nào có thể thực hiện được để cho phép người đó
nói rằng toa tàu đang đứng yên hay chuyển động. Chỉ có cách mở
những màn cửa sổ ra và nhìn những cảnh vật đang trôi qua bên ngoài thì người
hành khách mới có thể giải thích được điều đó. Hễ bên
ngoài không có bất kỳ cái gì để qui chiếu thì chuyển động cũng bằng với không
chuyển động. Mọi vật không tồn tại bởi chính nó mà chỉ
trong sự liên hệ với những sự vật khác - đạo Phật nói như vậy.
Sự chuyển động chỉ có tính thực tế khi so với cảnh vật đang trôi
qua bên ngoài, đó là nguyên tắc của tính tương đối.
Thời gian và không gian cũng mất đi đặc tính
tuyệt đối như Newton đã thử nghiệm. Enstein cho chúng ta
biết rằng thời gian và không gian chỉ có thể được xác định một cách tương đối so
với sự chuyển động của quan sát viên và so với cường độ của vùng trọng lực đang
chứa đựng chúng. Tại những vùng rìa của lỗ đen vũ trụ, không gian cực kỳ đặc
biệt, ở đó trọng lực mạnh kinh khủng đến nỗi ánh sáng không vượt qua được và một
giây có thể là vĩnh cửu. Cũng giống như đạo Phật, thuyết tương đối nói rằng
hướng đi của thời gian, với một quá khứ đã đi qua và một tương lai sẽ đến, chỉ
là một ảo tưởng, bởi vì tương lai của tôi có thể là quá khứ của một người khác
và là hiện tại của một người thứ ba : tất cả phụ thuộc
vào những chuyển động tương đối của chúng ta.
Thời gian không đi qua, nó chỉ đơn giản là có đó.
Phát sinh trực tiếp từ khái niệm Tương Tức còn
có khái niệm về ‘Không’, nhưng không có nghĩa là hư không, mà là vắng mặt
một sự tồn tại riêng biệt.
Bởi vì tất cả đều tương tức với nhau nên không có gì có thể tự
xác định cũng như tự hiện hữu.
Cái ý tưởng về những phẩm tính có thể hiện hữu do và bởi chính mình cần phải
được buông bỏ. Nhưng hãy coi chừng !
Đạo Phật không nói rằng sự vật sự việc không hiện hữu.
Không có chủ thuyết về hư vô mà chúng ta thường hay gán một cách sai lầm.
Thuyết ‘Không’ khẳng định rằng sự tồn tại này không phải là độc lập mà là tương
tức, cũng như cần tránh quan điểm về vật chất thực dụng. Nó chấp nhận vị
trí trung gian mà theo đó một hiện tượng không tồn tại đơn độc nhưng cũng không
phải là không có mặt, mọi thứ tác động qua lại và vận hành theo quy luật nhân
quả :
đó là cái mà đạo Phật gọi là ‘Con đường trung đạo chân chính’.
Hơn nữa, khoa học lượng tử cung cấp cho chúng
ta một cách diễn đạt tương tự đáng ngạc nhiên.
Theo Bohr và Heisenberg, chúng ta không thể nói về nguyên tử
và điện tử bằng như những thực thể có thực mang những đặc tính được xác định,
như vận tốc hoặc vị trí. Chúng ta phải xem chúng như là bộ phận của một
thế giới được cấu thành từ những năng lượng tiềm tàng chứ không phải là những
vật thể hay sự kiện. Phẩm chất (đặc tính), cũng giống như vật chất và ánh sáng
trở thành một trò chơi của những liên hệ tương tức qua lại :
nó không còn là cái gì bên trong, mà có thể bị thay đổi do sự tác động qua lại
giữa người quan sát và vật được quan sát. Bản chất này không phải là đồng nhất
mà là đối ngẫu và bổ sung. Cái mà chúng ta gọi là ‘hạt phân tử’ có dạng sóng khi
chúng ta không quan sát chúng và khi ta tắt hết những thiết bị đo đạc và quan
sát thì chúng có dạng hạt. Nói về một thực tại bên trong đối với một hạt phân tử
- một thực tại tồn tại khi chúng ta không quan sát nó – là một điều vô nghĩa, đó
là bởi vì chúng ta không bao giờ nắm bắt được nó. Trở lại với khái niệm samskara
của đạo Phật (có nghĩa là ‘sự kiện’), ngành cơ học lượng tử đã duyệt xét lại một
cách kỹ càng hơn cái ý niệm của chúng ta về một vật thể, khi cho nó phụ thuộc
vào sự đo lường, hay nói cách khác, vào một sự kiện. Hơn nữa, lượng tử bất định
cũng đặt ra một giới hạn cơ bản về tính chính xác của các phép đo lường thực tại
này: luôn tồn tại một sự không chắc chắn nào đó, hoặc về vị trí, hoặc về tốc độ
của một hạt phân tử. Vật chất bị mất đi
chất của nó.
Khái niệm tương tức của đạo Phật thì đồng nghĩa với ‘Không’ và
‘Không’ thì đồng nghĩa với Vô Thường. Thế giới giống như một luồng những
sự kiện và những dòng lưu động vĩ đại kết nối tất cả những cái này với cái khác
và tương tác qua lại một cách liên tục. Khái niệm về sự biến đổi không ngừng và có mặt khắp nơi (của đạo
Phật) rất tương ứng với vũ trụ luận hiện đại. Tính bất di bất dịch của
những bầu trời theo
Aristot và vũ trụ tĩnh của Newton không còn tồn tại nữa. Tất cả đều chuyển dịch,
tất cả đều thay đổi, tất cả đều không vĩnh cửu, từ những hạt cơ bản cực nhỏ cho
đến vũ trụ toàn thể, kể cả những thiên hà, những ngôi sao và cả nhân loại.
Sau vụ nổ nguyên thủy, vũ trụ bị xung lực ban
đầu thúc đẩy và không ngừng giãn nở.
Tính chất động này được diễn giải trong những phương trình của thuyết tương đối.
Lý thuyết Big Bang đã làm cho vũ trụ có một lịch sử. Có một khởi đầu, một quá khứ, một hiện tại và một tương lai.
Vũ trụ sẽ hủy diệt trong một lò lửa nóng chết người hoặc trong một trạng thái
băng giá. Toàn bộ cấu trúc của vũ trụ - hành tinh, ngôi sao, thiên hà hoặc những
dãy thiên hà – trong một sự vận động vĩnh cửu, đang tham dự vào một vở múa ba lê
hoành tráng của vũ trụ : chúng xoay chung quanh trục của mình, quanh những tinh
thể khác, tiến ra xa hay lại gần cái này với cái kia. Những thành phần này cũng
có một lịch sử là :
được sinh ra, tiến hóa và hủy diệt đi. Những ngôi sao tuân
theo những vòng luân hồi được tính bằng triệu thậm chí tỷ năm.
Thế giới nguyên tử và hạ nguyên tử cũng không
bất động ở đó.
Tất cả đều vô thường.
Những hạt có thể tự thay đổi bản chất của nó: những hạt (đơn vị cơ bản của vật
chất) có thể đổi gia hệ (famille) hoặc thay đổi ‘hương vị’ (saveur), một proton
có thể trở thành một neutron bằng cách phóng thích một positon (phân tử đối cực
của điện tử) và một neutrino. Vật chất và phi vật chất
(antimatière), bằng những tiến trình phân rã hoàn toàn có thể biến thành năng
lượng tinh nguyên. Năng lượng chuyển động của một hạt có thể chuyển hóa vào trong một
hạt khác hoặc ngược lại. Nói cách khác, phẩm tính của
vật chất có thể biến đổi thành vật chất. Do tính lượng tử bất định của
năng lượng, không gian quanh ta sinh sôi nảy nở ra một số lượng không thể tưởng
những phân tử gọi là ‘phân tử tiềm tàng’, tồn tại rất hư ảo và ngắn ngủi. Xuất
hiện và biến mất trong những chu kỳ sinh - diệt cực
ngắn. Chúng được ví dụ cho sự vô thường ở những mức độ vi tế
nhất.
Ở đây, trong khi trình bày những cái thấy tập
trung này về thực tại, tôi không có ý định sơn phết lên khoa học một xu hướng
thần bí cũng không chống đỡ cho đạo Phật bằng những khám phá của khoa học. Khoa học vận hành một
cách tốt đẹp, hoàn hảo và đạt tới mục đích mà nó muốn đạt tới (là hiểu được
những hiện tượng) mà không hề cần sự yểm trợ của triết học đạo Phật hay bất kỳ
một tôn giáo nào khác. Ngược lại, chính đạo Phật, là khoa học của sự Tỉnh Thức
và cho dù trái đất quay xung quanh mặt trời như thế nào hoặc đảo ngược lại cũng
không có ảnh hưởng gì. Tuy nhiên, bởi vì cả khoa học cũng như đạo Phật đều khao
khát đi tìm chân lý và để đạt được mục tiêu này, cả hai đều sử dụng những tiêu
chuẩn mang tính xác thực, chặt chẽ và logic (hợp lý), vì vậy, những cách thức
riêng của mỗi bên không thể đưa đến một sự đối lập không thể khoan nhượng, mà
ngược lại, có thể bổ sung hài hòa cho nhau. Tôi hoàn toàn đồng ý với nhà vật lý
học Werner Heisenberg khi ông phát biểu: ‘Tôi xem cái tham vọng vượt qua những
đối nghịch, gồm một sự tổng hợp cả sự thấu hiểu thuần lý tính lẫn kinh nghiệm
thần bí về cái nhất thể, là ‘mythos’ (mythos :
danh từ Hy Lạp mà tác giả dùng trong bài viết, có nghĩa là thần thoại) - dù có
được nói ra hay không được nói ra, của thời đại chúng ta. »
Qua những buổi trao đổi của tôi với Matthieu
Ricard*, tôi phải nói lên sự ngưỡng mộ của mình về cách mà đạo Phật phân tích
thế giới hiện tượng.
Đó là một cách thức rất sâu sắc và độc đáo.
Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của khoa học và đạo Phật không giống nhau.
Khoa học không ngừng nghiên cứu và diễn giải những hiện tượng, trong khi mục
đích của đạo Phật là sự trị liệu. Bằng việc nắm bắt được bản chất thật
của thế giới vật chất, chúng ta có thể tự giải phóng mình khỏi những đau khổ do
dính mắc một cách sai lầm vào thực tại biểu kiến của thế giới bên ngoài và tiến
lên con đường tỉnh thức. Khoa học, chính nó, là trung
tính : nó không vướng bận vào tinh thần hay đạo đức
học. Những áp dụng kỹ thuật của nó có thể gây nên những hệ quả xấu hay tốt đối
với đời sống thể chất của con người. Ngược lại, thiền quán có mục đích chuyển hóa nội tâm và làm phát
triển trong ta lòng từ bi để có khả năng giúp đỡ những người khác.
Khoa học sử dụng những công cụ ngày càng hoàn hảo. Còn trong thiền quán, tâm là công cụ độc nhất. Hành giả quán
sát những tư tưởng của mình được đan kết lại cùng nhau như thế nào và dính mắc
vào y ra sao. Y khảo sát cái cơ chế vận hành của hạnh phúc và đau khổ để từ đó
cố gắng khám phá ra những tiến trình tâm linh nhằm nâng cao sự an bình nội tâm,
làm cho cõi lòng mình rộng mở hơn đối với tha nhân để giúp họ cùng phát triển,
cũng như từ đó thấy rõ được những tiến trình gây ra những hệ quả độc hại để loại
bỏ chúng. Khoa học mang lại cho chúng ta nhiều thông tin nhưng không giúp được
cho những tiến bộ tâm linh cũng như chuyển hóa nội tâm. Ngược
lại, thiền quán có thể giúp ta có được một sự chuyển hóa tự thân sâu sắc, thể
hiện qua cách mà chúng ta tiếp nhận cuộc sống chung quanh để dẫn đến ứng xử và
hành động. Hành giả đạo Phật bớt dính mắc vào những sự vật khi ý thức
được rằng chúng không có một hiện hữu tự thân nào cả, do vậy mà giảm đi được
những đau khổ. Đối với cùng nhận định này, nhà khoa học lại tạm bằng lòng xem đó
như một sự tiến bộ về trí năng để sử dụng vào những công trình nghiên cứu khác,
sự khám phá này không làm thay đổi cái nhìn cơ bản của họ đối với thế giới và
cách thức mà họ hướng dẫn đời sống của mình.
Đối diện với những vấn đề đạo đức cấp bách –
ví dụ như trong lĩnh vực di truyền học – khoa học cần một sự trợ giúp của tâm
linh để không quên đi tính nhân bản. Enstein đã
phát biểu một câu nói rất đáng tán thưởng : «Tôn giáo của tương lai là
một tôn giáo toàn vũ. Nó phải vượt thoát được cái ý niệm về một Thượng đế tồn
tại như một con người, cũng như phải tránh những lý thuyết và giáo điều. Bao phủ
lên cả khoa học tự nhiên lẫn tâm linh, tôn giáo đó phải đặt nền tảng trên một ý
thức tôn giáo được phát khởi trên kinh nghiệm về tất cả mọi sự mọi vật, khoa học
tự nhiên lẫn tâm linh, được xem như một sự hợp nhất có ý nghĩa…
Đạo Phật trả lời được cho sự mô tả này. Nếu có tồn tại một tôn giáo nào
có thể đáp ứng được với những đòi hỏi của khoa học hiện đại, thì đó là đạo Phật.»
Trịnh Xuân Thuận
---------------
* Tôi đã gặp Matthieu Ricard (sinh năm 1946) lần
đầu tiên ở trường đại học Andorre mùa hè năm 1997. Mathieu là
một người lý tưởng để có thể đề cập đến những câu hỏi này. Không những có
được một sự đào tạo về khoa học, đã nhận bằng tiến sĩ về sinh học phân tử ở viện
Pasteur, mà ông ta còn rất am hiểu về triết học và những kinh văn đạo Phật, sau
đã trở thành một tu sĩ Phật giáo và sống ở Népal từ ba mươi năm nay. Chúng tôi
đã có những buổi thảo luận say mê trong những cuộc dã ngoại dài giữa khung cảnh
hùng vĩ của dãy Pyrénées. Cuộc thảo luận của chúng tôi rất bổ ích cho cả hai. Nó đã gợi
lên cho chúng tôi những câu hỏi mới, những cái nhìn mới mẻ, những tổng hợp bất
ngờ đã và đang đòi hỏi một sự đào sâu và làm sáng tỏ thêm. Quyển sách ‘Cái vô
tận trong lòng bàn tay’ đã ra đời từ những cuộc trao đổi thân tình giữa tôi,
một nhà vật lý thiên văn có nguồn gốc Phật giáo, muốn đối chiếu những hiểu biết
về khoa học của mình với những nguồn gốc triết học, với Matthieu, một nhà khoa
học Tây phương đã trở thành tu sĩ Phật giáo, mà những kinh nghiệm cá nhân đã đưa
ông đến việc so sánh hai hướng tiếp cận thực tại.
Nguồn: PSN