Nhân Duyên Tôi Biết Thầy Tuệ Sĩ
nhan duyen toi biet
Tại
sao vậy? Vì chúng sinh sống với vô minh tà kiến và bị võng lưới vô minh
tà kiến buộc chặt, nên dù chúng sinh có cố gắng nhảy lên cao đến cỡ
mấy, cũng vẫn không thoát khỏi võng lưới này. Không thoát ra khỏi võng
lưới này, thì làm sao biết Phật!
Chúng
sinh thì không biết Phật và vĩnh viễn không bao giờ biết Phật. Nhưng,
Phật thì biết rất rõ chúng sinh, luôn luôn nghĩ về chúng sinh và tìm đủ
mọi phương tiện để đi đến với chúng sinh.
Nếu
chúng sanh mà biết Phật, thì họ không còn là chúng sinh nữa rồi, thế
thì họ là ai? Họ không thuộc về của ai cả. Họ là thuộc tính của Phật,
họ là quyến thuộc của Phật và cùng với Phật nghĩ về sự đau khổ của
chúng sinh mà vận khởi tâm đại bi, tìm đủ mọi phương tiện thuận nghịch
để đi tới với chúng sinh, lân mẫn với chúng sinh, từ ái với chúng sinh;
chia sẻ ngọt cay với chúng sinh, đồng sự với chúng sinh, giúp chúng
sinh thoát ly những nợ nần sinh tử và thăng hoa từ cuộc sống.
Phật
không những biết rất rõ chúng sinh mà còn biết rất rõ những đồng sự của
Ngài, để giúp những đồng sự thoát ra khỏi mọi ý niệm ngã và pháp, để
sống cùng với chúng sinh, làm lợi ích cho chúng sinh, mà không bị những
ý niệm chúng sinh quấy phá, buộc ràng.
Nếu
chúng sanh mà biết Phật, thì họ không còn là chúng sinh nữa rồi, thế
thì họ là ai? Họ không thuộc về của ai cả. Họ là thuộc tính của Phật,
họ là quyến thuộc của Phật và cùng với Phật nghĩ về sự đau khổ của
chúng sinh mà vận khởi tâm đại bi, tìm đủ mọi phương tiện thuận nghịch
để đi tới với chúng sinh, lân mẫn với chúng sinh, từ ái với chúng sinh;
chia sẻ ngọt cay với chúng sinh, đồng sự với chúng sinh, giúp chúng
sinh thoát ly những nợ nần sinh tử và thăng hoa từ cuộc sống.
Phật
không những biết rất rõ chúng sinh mà còn biết rất rõ những đồng sự của
Ngài, để giúp những đồng sự thoát ra khỏi mọi ý niệm ngã và pháp, để
sống cùng với chúng sinh, làm lợi ích cho chúng sinh, mà không bị những
ý niệm chúng sinh quấy phá, buộc ràng.
Cũng
vậy, trên bước đường học đạo, tôi biết Phật, nhưng tôi không biết thầy
Tuệ Sĩ và hoàn toàn không biết thầy Tuệ Sĩ là ai? Tôi chỉ biết thầy Tuệ
Sĩ, khi tôi biết Phật; nếu tôi không biết Phật, thì chắc chắn tôi cũng
không bao giờ biết thầy Tuệ Sĩ. Nhân duyên tôi biết thầy Tuệ Sĩ là do
tôi biết Phật và gia đình tôi đã có nhân duyên với Phật từ nhiều đời.
Khi
tôi xuất gia và đã trở thành một Tăng sinh theo học Phật tại Phật học
viện Báo Quốc-Huế, trước 1975. Khi ấy, tôi đã đọc say sưa cuốn Đại
cương thiền quán của Thầy, do Hòa thượng Thích Đôn Hậu, làm Chánh Đại
diện Miền Vạn Hạnh, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bấy giờ,
viết lời giới thiệu.
Vừa
đọc tác phẩm này, vừa cảm phục Thầy, vì lúc đó Thầy chưa đầy 20 tuổi,
mà đã nắm vững những triết lý của thiền, với những phương pháp thiền
quán và rồi Thầy lại viết Triết học Tánh không, lại dạy Triết học Đông
phương cho lớp chuyên khoa Phật học Liễu quán tại chùa Linh Quang Huế,
lúc ấy Thầy mới 24 tuổi, người nhỏ thó, mắt sáng quắc, được Hòa thượng
Thích Mật Nguyện giới thiệu Thầy với đương hội bấy giờ.
Rồi
lại đọc, Tô Đông Pha-Phương Trời Viễn Mộng của Thầy viết; lại đọc Tư
Tưởng Vạn Hạnh do Thầy chủ bút, đọc Thiền Luận của Susuki do Trúc Thiên
và Thầy dịch, tôi lại đi tìm kiếm thầy Tuệ Sĩ và đã thật sự tìm thấy
Thầy, học trực tiếp với Thầy ở khóa Phật học tại Quảng Hương-Già lam,
ngoài những giờ trên lớp, còn học riêng với Thầy, như: Câu xá luận,
Trung quán luận, Thành duy thức luận, cộng thêm tiếng Phạn và tiếng
Nhật, mỗi khi thấy Thầy rãnh rỗi ở trong Trượng Thất.
Trong
khóa học này, tôi cũng đã được lạy Phật với Ôn Già Làm, Ôn Minh Tuệ, Ôn
Đức Chơn, cùng với Thầy và Đại chúng đều đặn vào mỗi buổi khuya và ngồi
thiền vào mỗi buổi tối, suốt khóa Phật học tại Phật học viện Quảng
Hương Già Lam, Sài Gòn, niên khóa 1980-1984. Các
thời khóa tu học của Viện, Thầy lúc nào cũng nghiêm túc và có mặt trước
chúng tôi. Thầy là tấm gương sáng không phải chỉ pháp học mà còn là cả
pháp hành cho chúng tôi noi theo.
Ở
trong không gian này, tôi đã trực tiếp học với Thầy và biết Thầy không
còn qua sách vỡ và tư tưởng, mà biết Thầy bằng chính đời sống của Thầy:
Thầy “Lấy
trí tuệ làm sự nghiệp; lấy lợi sinh làm gia vụ; lấy khổ đau sinh tử của
chúng sinh, làm sự cộng sinh để rèn luyện tâm chí, trưởng dưỡng hạnh
nguyện từ bi và lấy sự tác nghịch làm sự tác thành”.
Tôi
đã học với thầy Tuệ Sĩ không chỉ bằng sách vỡ và thầy Tuệ Sĩ cũng không
phải chỉ dạy tôi bằng sách vỡ, mà đã dạy tôi bằng chính đời sống của
Thầy.
Thầy
Tuệ Sĩ là người luôn luôn nghĩ về sự đau khổ của chúng sinh, những bất
hạnh của Dân tộc, những lầm lũi của kiếp người, mà dấn thân hành động, như chính thầy đã từng dấn thân hành động. Hành động và gan dạ đến nỗi đã đi ở tù và sẵn sàng nhận lấy bản án tử hình trước tòa với tâm chí không hề dao động.
Thầy dấn thân hành
động không phải để cho Thầy, mà để báo đáp ân sâu của Tam bảo, tiếp nối
đại nguyện của Thầy Tổ, không làm tủi nhục kể sĩ của bao thời đại và
không làm nhụt chí của những thế hệ kẻ sĩ tương lai, nên trong bức thư,
gửi cho Tăng Ni trẻ ở Huế, Thầy viết:
“Người
xuất gia, khi cất bước ra đi, là hướng đến phương trời cao rộng; tâm
tính và hình hài không theo thế tục, không buông mình chìu theo mọi giá
trị hư dối của
thế gian, không cúi đầu khuất phục trước mọi cường quyền bạo lực. Một
chút phù danh, một chút thế lợi, một chút an nhàn tự tại; đấy chỉ là
những giá trị nhỏ bé, tầm thường và giả ngụy, mà ngay cả người đời
nhiều kẻ còn vất bỏ không tiếc nuối để giữ tròn danh tiết…
Mỗi
thế hệ có vấn đề riêng của nó, do những biến thiên của xã hội chung
quanh, do những biến cố dao động mang tính thời đại. Thế hệ của Thầy
thừa hưởng được nhiều từ Thầy Tổ, nhưng chưa hề báo đáp ân đức giáo
dưỡng cao dày trong muôn một. Chỉ mới tròn ba mươi tuổi, đã phải khép
lại cổng chùa, xách cuốc lên rừng, xuống biển, cũng mưu sinh lao nhọc
như mọi người. Rồi lại vào tù, ra khám, lênh đênh theo vận nước thăng
trầm. Sở học và sở tri cũng cùn mòn theo tuổi đời, năm tháng. Duy, chưa
có điều gì thất tiết để điếm nhục tông môn, uổng công Sư trưởng tài
bồi. Một chút niềm tin chưa hề thoái thất, chỉ mong cùng chia sẻ với
thế hệ kế thừa. Một thế hệ đang trưởng thành để khởi tô ngọn đèn Chánh
pháp giữa một đất nước thấm nhuần phong hóa”.
Thầy
Tuệ Sĩ hôm nay là Tuệ Trung Thượng Sĩ hôm qua và hôm qua nữa. Tuệ Trung
Thượng Sĩ ngày hôm qua và hôm qua nữa, đã đi vào thể tính của “như”,
sống với “như”, nên không cần nói đến trì giới và nhẫn nhục, đã vung
tay kiếm đâm chết những kẻ trí thức thượng thừa ngái ngủ, trong tháp
ngà ảo vọng của nhận thức tư duy một cách không thương tiếc; đập vỡ và
buông bỏ mọi kiến chấp nhị nguyên của những kẻ đã bị đầu độc và nhồi sọ
trong sáo ngữ khuôn phép của lễ nghi khoa giáo ở tại công đường, để đưa
họ trở về sống với pháp thân thanh tịnh, u huyền tịch lặng bản nhiên:
“Trì giới kiêm nhẫn nhục
Chiêu tội bất chiêu phúc
Dục tri vô tội phúc
Phi trì giới nhẫn nhục”.
Nhưng,
thầy Tuệ Sĩ thời đại của chúng ta, tuy cũng biết vậy, nhưng giấu kỹ
kiếm báu vào bao, chỉ sử dụng khi nào cần và có khi cần sử dụng, thì
giáo nghĩa: Tạng, Thông, Biệt, Viên; hay Thỉ, Chung, Đốn, Tiệm rõ ràng,
mặc dù thấu đạt “Tánh không vô trú”; “Tâm, Phật, Chúng sanh, tam vô sai
biệt”, nhưng vẫn khiêm tốn dạy dỗ cho con người rằng: “Hiếu thảo với
Cha mẹ, quý kính Sư trưởng, yêu mến Quốc gia, bỏ ác làm lành, ăn chay
niệm Phật, tin sâu nhân quả…”; nên chính Thầy là người lặng lẽ yêu nước
thương dân, yêu đời quý đạo, nghiêm trì giới luật và quan tâm đến giới
luật, để làm khuôn phép cho mọi người mà nhất là giới trẻ. Thầy sống vô
chấp mà không phá kiến, phóng khoáng mà không rời phép tắc; giảng dạy
các hệ thống tư tưởng triết học Đông Tây, mà không bị các tư tưởng hệ
ấy, hút mất tinh chất, biến đổi đức hạnh, không hề thoái thất một mảy
may niềm tin đối với Tam
bảo và Thầy Tổ; Thầy viết văn, nhưng không bị cuốn hút bởi văn hào;
Thầy rạch ròi thông thạo các ngôn ngữ, cổ ngữ, nhưng vẫn trung trinh
với ngôn ngữ mẹ sinh; Thầy làm thơ mà không bị men thơ chi phối; Thầy
đánh đàn mà không bị những cung đàn làm tê liệt nghị lực, tâm can.
Tuệ Trung Thượng Sĩ hôm qua và hôm qua nữa, đã nói: “Tâm
chi sinh hề, sinh tử sinh; Tâm chi diệt hề, sinh tử diệt; Sinh tử
nguyên lai, tự tính không; thử huyễn hóa thân, diệt đương diệt…”.
Nhưng,
thầy Tuệ Sĩ thời đại của chúng ta cũng biết đúng như vậy, nhưng không
nói vậy. Vì như chính Thầy nói cho thế hệ Tăng Ni trẻ trong thời đại
này: “Mỗi thế hệ có vấn đề riêng của nó, do những biến thiên của xã hội chung quanh, do những biến cố dao động mang tính thời đại”.
Vì
nhân duyên, nghiệp quả của con người, ngay cả những con người học đạo
và hành đạo trong mỗi thời đại khác nhau, tất yếu phải có những ứng xử
khác nhau, nhưng chỉ có khác nhau về ứng xử, nhưng không hề có sự khác
nhau về giác ngộ; chỉ có khác nhau về cách vận dụng pháp môn, nhưng
không hề có khác nhau về chỗ đồng quy của mọi pháp môn ấy.
Thầy
Tuệ Sĩ thời đại của chúng ta, không đi tìm bồ đề, vì chính Thầy là bồ
đề; Thầy không đi tìm kiếm pháp môn mà chính Thầy là pháp môn; Thầy
không đi tìm chữ nghĩa mà chính Thầy là người buông bỏ chữ nghĩa; Thầy
không đi tìm tư tưởng, vì chính Thầy là Tư tưởng Vạn hạnh; Thầy không
đi tìm trăng thanh mà chính Thầy là vầng minh nguyệt; Thầy không đi tìm
gió mát mà chính Thấy là dòng nước mát thanh lương; Thầy không đi tìm
khí tiết mà chính Thầy là người giữ gìn danh tiết cho thời đại; Thầy
không đi tìm phương trời cao rộng mà chính Thầy là phương trời ấy; Thầy
không đi tìm mọi giá trị hư huyễn của thế gian mà từ chối mọi giá trị
ấy một cách triệt để, Thầy nói:
“Người
xuất gia, khi cất bước ra đi, là hướng đến phương trời cao rộng; tâm
tính và hình hài không theo thế tục, không buông mình chìu theo mọi giá
trị hư đối của thế gian, không cúi đầu khuất phục trước mọi cường quyền
bạo lực. Một chút phù danh, một chút thế lợi, một chút an nhàn tự tại;
đấy chỉ là những giá trị nhỏ bé, tầm thường và giả ngụy, mà ngay cả
người đời, nhiều kẻ còn vất bỏ không tiếc nuối để giữ tròn danh tiết…”
Thầy
Tuệ Sĩ đối với tôi là tất cả những gì tôi tôn kính. Điều ấy thật là dễ
hiểu. Vì tôi là học trò của Thầy. Hạnh phúc nhất của những người làm
học trò là có những bậc Thầy để tôn kính. Tôi hạnh phúc, vì tôi có thầy
Tuệ Sĩ để tôn kính và tôi thấy vinh dự mỗi khi tôi nghĩ về Thầy.
Tôi
viết bài này không phải để ca ngợi thầy Tuệ Sĩ, vì chính thầy Tuệ Sĩ từ
chối triệt để mọi sự ca ngợi về Thầy; không phải để cảm ơn thầy Tuệ Sĩ
mà thầy Tuệ Sĩ có thể làm những gì mà Thầy thấy đúng lúc cần phải làm
là Thầy làm; nói những gì đúng lúc cần phải nói là Thầy nói. Nói và làm
để nâng mọi giá trị cuộc sống của con người lên một tầm cao của trí
tuệ, nhằm sưởi ấm lữ khách trong đêm dài băng giá và nhuần đượm nhân
sinh giữa nắng hạ điêu tàn!
Tôi
viết bài này không phải để cảm ơn thầy Tuệ Sĩ mà để cảm ơn song thân và
gia đình huyết thống của Thầy đã có Thầy cho thời đại của chúng ta; tôi
viết bài này để cảm ơn hồn thiêng sông núi nước Nam, đã có Thầy cho quê
hương dân tộc trong thời đại nhiễu nhương, chính giáo bất phân, tà
chánh khó lường, chân ngụy khó tả, trung nịnh khó thấy của chúng ta và
cảm ơn đại gia đình tâm linh đã có thầy Tuệ Sĩ, để tiếp nối những gì mà
Thầy Tổ của chúng ta chưa hoàn tất. Và cảm ơn tất cả mọi người đã hỗ
trợ, đồng hành và tiếp nối với những gì mà thầy Tuệ Sĩ đang làm và tiếp
tục làm, vì lợi ích chúng sinh, và phụng hành ý chỉ mà kinh Hoa Nghiêm
đã dạy: “Phụng sự chúng sinh là cúng dường chư Phật dạy”.
Kính
lễ Thầy
Người học trò bé nhỏ: Thích Thái Hòa