Trong văn
học cũng như trong thực
tế, người ta thường đề cập đến mùa
thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực
tế hơn, chính
xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
Người ta thường thấy mùa
xuân hoa nở, nhưng ít người thấy mùa
xuân có lá rụng. Chính không thấy mùa
xuân có lá rụng, khiến cho nhiều người đã định hướng cuộc
đời của mình một cách mơ
hồ, không thực
tiễn.
Trong mùa
xuân có mặt của cả mùa
đông và mùa
hạ, trong mùa
hạ có mặt của cả mùa
xuân và mùa
thu, trong mùa
thu có mặt của cả mùa
hạ và mùa
đông, và trong mùa
đông đều có mặt của cả mùa
thu và mùa
xuân, đó là cách nhìn hết
sức thực
tiễn của thiền
quán.
Và cách nhìn thực
tiễn và chính
xác hơn nữa, là trong mỗi mùa đều có chất liệu của cả ba mùa kia, nên
mùa nào cũng cóù lá rụng và mùa nào cũng có hoa nở cả.
Bằng cái nhìn thiền
quán ấy, ta mới khám
phá ra nơi tự thân của chính ta và của những người chung quanh ta,
với bất cứ độ tuổi nào cũng có thể nở hoa và với bất cứ độ tuổi nào cũng có
thể rơi rụng và với độ tuổi nào ta cũng có niềm vui và nỗi
buồn của chính độ tuổi ấy.
Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng, tuổi
già không có niềm vui và tuổi
trẻ không có nỗi
buồn. Hiện nay giới trẻ, có những vị có rất nhiều nỗi
buồn, có những vị buồn cho số phận hẩm
hiu của chính mình, có những vị buồn cho hoàn
cảnh của gia
đình mình, cha và mẹ không hòa
thuận với
nhau, anh và em không có sự thương
yêu tương kính, tương thuận nhau, nhưng cũng có những vị buồn vì cho
rằng:
“Lũ chúng
ta đầu
thai lầm thế kỷ
Bị quê hương ruồng
bỏ giống nòi khinh”.
Cảm giác rằng, mình sinh ra đời không đúng
lúc và sai
lầm thời
đại, đó là những cảm
giác thất
vọng và khổ đau, nhưng cảm
giác thất
vọng và khổ đau hơn nữa, là mình đã vọng
tưởng rằng, mình đã bị quê hương ruồng
bỏ, mình đã bị giống nòi khinh! Và nếu ta sống với những cảm
giác như vậy, thì cuộc
đời của ta bốn mùa đều là lầm lũi và trở nên băng giá.
Trong tất cả chúng
ta, đến hành tinh này đều là thụ
động và rồi ta từ giã hành tinh cũng là thụ
động. Ta đâu có tự sinh mà cha
mẹ của ta sinh, khi sinh rồi ta đâu có muốn chết, mà cái chết vẫn đến
với ta bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Nên ta không có thẩm
quyền để chọn lựa sự sinh ra và sự chết đi của ta ngay từ buổi ban
đầu. Ngay từ buổi đầu ta có thẩm
quyền chọn lựa đâu mà lầm với không lầm! Khi nào ta có thẩm
quyền chọn lựa cha
mẹ, dòng
họ và thời
đại hay xã
hội đểø ta sinh ra mà ta sinh ra không đúng với những gì mà ta đã
chọn lựa, thì đó mới gọi là lầm, nhưng thử hỏi trong tất cả chúng
ta ai là người không lầm?
Vì là thụ
động trong sự sinh ra và trong cái chết đi, nên đầu
thai lầm thế kỷ là điều khó tránh
khỏi, nhưng khi lớn lên ta đã được học
hành và ta đã có ý
thức đối với cuộc sống, mà ta chọn cho ta một cách
sống hay một định hướng sai
lầm, đó mới là điều thật đáng than trách. Và điều đáng than trách hơn
nữa, là do ta đã chọn cách
sống và định hướng sai
lầm, nên ta đã bỏ dòng
họ và quê hương của ta và rồi ta có cảm
giác là ta bị quê hương ruồng
bỏ giống nòi khinh! Nhưng thực
ra, chẳng có quê hương nào ruồng
bỏ mình mà do mình mặc
cảm quê hương, rồi trốn chạy; và chẳng có ông bà nào trong dòng
họ mà khinh con cháu, nhưng do con cháu vì mặc
cảm tự tôn hay mặc
cảm tự ty mà chạy
theo tà
kiến, nên không những quên mất dòng
họ mà còn kết
án dòng họ!
Quên mất dòng
họ, chính là quên mất quê hương và quên mất quê hương là quên mất
đường về. Đối với tuổi
trẻ đánh mất quê hương, chính là đánh mất bản
chất mùa
xuân của chính mình. Và đối với tuổi
già cũng có những vị đã đánh mất quê hương và dòng
họ của chính họ, nên họ đã trầm mình trong những tháng ngày đông giá
lạnh. Nhưng cũng có những vị đã tìm
ra được những niềm vui thanh
khiết, trong những ngày còn lại của đời
người và họ sống hết
sức có ý
nghĩa, và họ đã tạo ra được mùa
xuân cho chính họ vào tuổi
già, đồng
thời họ cũng đã tạo ra được mùa
xuân cho cả con cháu của họ.
Bởi vậy, mùa
thu hay mùa
đông, mùa
xuân hay mùa
hạ của thiên
nhiên là có ước lệ của thời
gian nhất
định, nhưng mùa
thu hay mùa
đông, mùa
xuân hay mùa
hạ thuộc về tâm
hồn của con
người là bất
định về thời
gian, nghĩa là có khi chỉ cần trong một khoảnh khắc mà sự sống con
người trở
thành vĩnh
cửu và vô hạn, nhưng cũng có khi, con
người kéo lê đời mình cả trăm năm trong vô
vọng, mà chẳng có một chút ý
nghĩa nào, ngoài sự lo
lắng và sợ
hãi, ngoài việc sống để giành giựt hơn thua, để rồi tạo ra mùa hè nóng
bức hay mùa
đông băng giá cho nhau!
Thực sự, trong cuộc sống của con
người, ở nơi nào có đấu tranh, có giành giựt, thì ở nơi đó có sự oi
bức của mùa
hạ, chính sự oi bức của mùa
hạ ấy, mới làm cho đời
sống của con
người bị chết ngột không có lối thoát; chính cái oi bức của mùa
hạ ấy, mới đốt cháy hết sạch mọi hạnh
phúc trong
đời sống của con
người. Sự oi bức do mùa
hạ của thiên
nhiên đem lại, con
người có thể vượt
qua được bằng những tiện
nghi của khoa học hiện
đại, nhưng sự oi bức của mùa
hạ trong tâm
hồn, thì không có một văn
minh khoa học nào có thể giúp ta vượt
qua, ngoài sự
thiền quán để an
tịnh tâm ý và nuôi
dưỡng chất liệu từ
bi trong ta.
Và sự băng giá hay lạnh cóng của khí hậu
thiên nhiên mùa
đông, ta cũng có thể sử
dụng những tiện
nghi của khoa học hiện
đại để vượt
qua, nhưng sự băng giá và lạnh buốt của tâm
hồn, thì cho dù những tiện
nghi của khoa học có hiện
đại đến bao nhiêu đi nữa, cũng không thể giúp ta vượt ra khỏi tình
trạng ấy. Ta có thể vượt ra khỏi tình
trạng ấy, khi nào ta biết bật ngọn
đèn chánh
niệm ở nơi tâm ta lên, khi tâm ta đã có ngọn
đèn chánh
niệm, ta biết rõ ta đang hiện
hữu với tất cả những gì toàn
vẹn trong từng giây, từng phút của sự sống, và mỗi giây phút đi qua
đời ta là mỗi giây phút sống
động nhiệm mầu, là mỗi giây phút đưa ta đi đến với thời
gian không
giới hạn, với không
gian vô
cùng.
Thực sự, không có sự sống nào gọi là sự sống khép kín, bản
chất của sự sống là mở. Ta phải mở và thả ra tất cả những gì mà ta đã
nắm bắt trong một
đời người. Ta phải buông thả những ý
niệm và những tri
giác sai
lầm trong ta về thời
gian và không
gian ra. Ta phải thả mùa
xuân trong
đời sống của ta
ra, thì mùa
hạ trong
đời sống của ta không
có lý do gì để có mặt. Trong
đời sống của ta, mùa
hạ đã không
có lý do để có mặt, thì mùa
thu và mùa
đông cũng theo đó mà lặng yên.
Buông bỏ mùa
xuân, nghĩa là buông
bỏ mọi hạt
giống vô
minh, tham
ái và hưởng thụ ở trong tâm
thức ta, vì trong
đời sống của con
người, mùa
xuân được tạo nên bởi những chất liệu này, mà không phải là những
chất liệu của chánh
niệm, tuệ
giác và tình
thương, nên mùa
xuân ấy là mở đầu cho một sự sống hạnh
phúc mơ
hồ, mà thất
vọng và khổ đau chắc
chắn sẽ xuất
hiện ở trong mùa
hạ và trong những mùa kế
tiếp của đời
người.
Bằng đôi mắt thiền
quán, khi ta thở
vào hay ra là ta phải có ý
thức toàn
thân, chính ý
thức ấy, khiến ta có thể tạo ra mùa
xuân đầy sức sống, đầy ý
vị cho ta suốt cả chiều dài, chiều rộng, chiều cao và chiều sâu của
cuộc sống, từ những yếu
tố sinh học và tâm
học ở trong ta.
Thở với ý
thức toàn
thân là ta phải có ý
thức về toàn
thể không
gian và thời
gian trong lúc ta đang thở. Đối với không
gian, hơi
thở của ta liên
hệ chặc chẽ với không khí, với hơi ấm, với thể lỏng và với thể rắn, đồng
thời nó gắn chặt với các bộ phận sinh học khác ở trong cơ thể của ta.
Và quan trọng hơn hết là một khi hơi
thở của ta đã gắn chặt được với không
gian tâm
thức, thì bấy giờ những hạt
giống khổ đau ở trong tâm
thức ta từ từ lắng yên và chuyển
hóa. Lúc
ấy mùa
xuân đối với ta không gọi mời mà nó vẫn đến, không cần duy
trì mà nó vẫn hiện
hữu. Nó hiện
hữu một cách thanh cao với ý
nghĩa toàn
vẹn và không có giới
hạn.
Thở với ý
thức toàn
thân là ta ý
thức rõ, ở trong thân
thể ta từ đầu đến chân
không có chỗ nào là không có mặt của hơi
thở và trong các bộ phận của cơ thể, không có bộ phận nào là không
gắn liền và không liên
hệ với hơi
thở. Chính hơi
thở chánh
niệm với ý
thức toàn
thân, chúng tạo ra năng
lực mùa
xuân hiện
thực cho các bộ phận sinh học trong ta.
Sở dĩ, hơi
thở và các bộ phận trong cơ thể, chúng gắn liền được với
nhau là do chúng không có tự
tính cho chính nó. Hơi
thở không có tự
tính cho chính nó, nên hơi
thở có thể đến và hòa nhập vào với bất cứ bộ phận nào của cơ thể và
có thể trở
thành một với các bộ phận ấy.
Và các bộ phận trong cơ thể cũng vậy, chúng không có tự
tính cho chính nó, nên chúng mới tiếp
nhận hơi
thở một cách tự
nhiên. Hơi
thở đi
vào và hiện
hữu ở trong các bộ phận và các bộ phận đi
vào và hiện
hữu ở trong hơi
thở mà không hề có một sự
chướng ngại nào cả.
Bởi vậy, khi thiền
quán ta thấy rõ tự thân của ta vốn là “Nhất chân
pháp giới”, nghĩa là vũ
trụ đang hiện
hữu ở trong sự thuần
nhất chân thực.
Sự hiện
hữu này không làm trở ngại đối với sự hiện
hữu kia, sự hiện
hữu kia không làm trở ngại đối với sự hiện
hữu này. Chúng
hiện hữu trong nhau, để cùng nhau tạo ra một sự sống vô
cùng, hay là một mùa
xuân bất tận.
Đối với thời
gian, khi ta thở với ý
thức toàn
thân, thì ta thấy cả bốn mùa đều có mặt trong nhau và bốn mùa đều có
mặt trong từng hơi
thở của ta. Ta thở
vào và ra dài, hay ta thở
vào và ra ngắn, thì sự vào và ra của hơi
thở, nó liên
hệ chặc chẽ từ
không gian vật
lý đến không
gian tâm
thức trong
đời sống của ta. Và khi ta thở
vào và ra dài hay ta thở
vào và ra ngắn, thì sự dài ngắn của hơi
thở, chúng có liên
hệ chặc chẽ từ thời
gian vật
lý đến thời
gian tâm
thức trong
đời sống của ta.
Không gian vật
lý dù lớn mấy cũng nhỏ so với không
gian tâm
thức và thời
gian vật
lý dù dài mấy cũng ngắn so với thời
gian tâm
linh, nên khi thiền
quán, có khi ta chỉ ngồi
yên lặng để nhìn kỹ tâm ta, mà trong khoảnh khắc ta thấy cả mười
phương vô
tận thế
giới, hay ta ngồi
yên lắng để cảm nhận niềm vui của tâm chỉ mới thoáng chốc mà đã trải
qua mấy mùa sương tuyết, hay khi ta hẹn ai và chờ đợi thì thời
gian vật
lý mới chỉ đi qua mấy phút mà ta có cảm
giác lâu như thế kỷ.
Bởi vậy, không
gian của tâm là không
gian vô
cùng, nên ta đi mãi trong đó mà không bao giờ chạm phải bởi bất cứ
một biên
cương nào cả. Và thời
gian của tâm là thời
gian vô
tận, nên sống và chết ta cứ đi mãi ở trong đó, và ẩn hay hiện của
chúng, chỉ là những trò chơi đuổi bắt, khi gió
nghiệp thổi lên, khiến những ngọn sóng ái triều chập chùng khởi sinh vô
tận.
Nhưng, một khi gió
nghiệp lắng yên, sóng thức không còn có điều
kiện để sinh
khởi, biển
tâm hoàn
toàn an
tịnh, không còn gợi lên một tý sóng cồn, bấy giờ ta sống trong biển
tâm ấy, thì không
gian chính là thời
gian và thời
gian chính là không
gian, chúng không phải là một mà cũng không phải khác. Ở nơi đó mọi ý
niệm hoàn
toàn lắng yên. Thực
tại vốn không có ý
niệm, nếu ta sử
dụng ý
niệm để
ý niệm về thực
tại, thì thực
tại đó là thực
tại của ý
niệm mà không phải là thực
tại của thực
tại.
Khi ta sử
dụng ý
niệm để phán xét và cảm nghiệm niềm vui và nỗi
buồn của cuộc sống, thì chính cái ta đang sống và đang tiếp
xúc để cảm nghiệm ấy, là cái đang sinh
diệt, chúng là trò chơi được biểu hiện từ
tâm thức. Và hẳn nhiên, thế
giới mà ta đang sống và đang cảm nghiệm như thế, thì cả bốn mùa đều
có lá rơi, chứ không phải chỉ có mùa
thu mới có lá rơi và ta cũng có thể rơi bất cứ lúc nào và bất cứ ở
đâu, đó là một sự thực của cuộcï sống, nó luôn luôn xảy ra cho ta và cho
những người chung quanh ta là như vậy.