Câu chuyện giấc mộng người vàng của Hán Minh Đế và sự thật lịch sử

cau chuyen

CÂU CHUYỆN GIẤC MỘNG NGƯỜI VÀNG CỦA HÁN MINH ĐẾ VÀ SỰ THẬT LỊCH SỬ

 

Thích Quảng Minh

 

Trước đây, các sử gia thường sử dụng thuyết Minh Đế cầu pháp để ghi nhận thời điểm Phật giáo chính thức du nhập vào Trung Quốc. Tuy nhiên, các học giả đương đại lại có những quan điểm trái chiều về thuyết này. Liệu rằng thuyết Minh Đế cầu pháp có đầy đủ chứng cứ lịch sử như các thế hệ học giả tiền bối đã tin tưởng hay không? Trước hết chúng ta cùng đi vào tìm hiểu thuyết này trong những nguồn tài liệu chính thống.

Trong bộ chính sử Hậu Hán thư (後漢書), tác giả Phạm Diệp viết:

Thế gian truyền rằng vua Minh Đế nằm mộng thấy người vàng, cao lớn, phát ra hào quang, liền kể lại cho quần thần nghe. Có người tâu rằng: Ở phương Tây có vị thần, tên gọi là Phật, nghe nói rằng thân cao sáu trượng, có màu vàng ánh. Vua muốn biết về đạo của vị Phật đó, liền sai sứ giả đi Thiên Trúc (Ấn Độ) để hỏi về pháp của đạo Phật.[1]

Trong bài tựa kinh Tứ thập nhị chương (四十二章經) có chép rằng:

Chuyện về vua Hán Hiếu Minh hoàng đế, một đêm mộng thấy vị thần, toàn thân vàng, phát hào quang, bay vào cung điện. Nhà vua lý thú với giấc mộng, buổi sáng liền vấn hỏi các vị quan: Đó là vị thần nào vậy? Quan thông thái Phó Nghị tâu rằng: Thần nghe ở Thiên Trúc, có bậc đắc đạo, gọi là Phật, có khả năng phi thường, phải chăng là vị ấy? Lúc đó, nhà vua đã hiểu rõ sự việc, nên phát lệnh cho Trương Khiên, Vũ Lâm, trung lang tướng Tần Cảnh, bác sĩ đệ tử Vương Tuân, cùng với mười hai người khác, đến nước Đại Nguyệt Chi, chép quyển kinh Tứ thập nhị chương mang về cất trong hang đá thứ mười bốn, lập tháp thờ tự. Từ đây, đạo pháp được truyền bá khắp nơi, chùa chiền được thành lập, người người cảm phục và phát nguyện tu tập, không thể tính đếm. Đất nước trở nên thái bình, mọi loài chúng sinh đều được nương nhờ ân đức, đến tận ngày nay.[2]

Tương tự, trong Lý hoặc luận (理惑論) đoạn 21, tác giả Mâu Tử viết:

“Chuyện về Hiếu Minh hoàng đế, nhà Hán, mộng thấy vị thần, thân phát ánh sáng mặt trời, bay vào trước cung điện. Nhà vua hân hoan, sáng hôm sau, rộng hỏi quần thần: Đó là thần gì? Quan thông thái Phó Nghị tâu rằng: Thần nghe ở Thiên Trúc có vị đắc đạo, gọi là Phật, có thể bay trên không, thân phát hào quang, chắc là vị thần ấy. Nhà vua hiểu rõ, bèn truyền lệnh cho trung lang tướng Trương Khiên, Vũ Lâm, lang trung Tần Cảnh, bác sĩ đệ tử Vương Tuân, cùng với mười tám người đến Đại Nguyệt Chi, chép kinh Tứ thập nhị chương, đem về cất tại gian số mười bốn thạch động Lan Đài[3].

Trong Cao Tăng truyện (高僧傳) do tác giả Huệ Kiểu (497 - 554) biên soạn, truyện về ngài Ca Diếp Ma Đằng, cũng có đoạn:

Vào niên hiệu Vĩnh Bình, vua Hán Minh Đế đêm mộng thấy người vàng bay trên không đến, bèn tập hợp quần thần để giải mộng đó. Vị quan thông thái Phó Nghị tâu rằng: Thần nghe ở Tây Vực có vị thần, gọi là Phật, phải chăng bệ hạ đã thấy vị ấy? Nhà vua cho rằng đúng như vậy nên phái trung lang tướng Thái Âm, bác sĩ đệ tử Tần Cảnh đi sứ đến Thiên Trúc, tìm cầu Phật pháp. Phái đoàn đến Thiên Trúc thì gặp ngài Ma Đằng, đã mời ngài về đất nhà Hán. Ngài Ma Đằng nhận lời và vượt bao hiểm trở để đến Lạc Dương. Minh Đế tiếp đón long trọng, nơi cửa thành Tây Môn, cho xây dựng tinh xá để Ma Đằng cư trú. Kể từ đây, đất nhà Hán bắt đầu có vị tu sĩ Phật giáo cư trú.[4]

Như vậy, qua những trích dẫn trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy thuyết Minh Đế cầu pháp đã được biên chép không đồng nhất. Trong Hậu Hán thư, sử gia Phạm Diệp đã đưa thuyết này vào trong phần Liệt truyện (列傳) và không hề đề cập đến niên đại hay một nhân vật nào, ngoài vua Hán Minh Đế. Trong bài tựa kinh Tứ thập nhị chương và đoạn 21 của tác phẩm Lý hoặc luận, các tác giả cũng chỉ nhắc đến vua Hán Minh Đế, vẫn không nói đến niên đại diễn ra sự kiện, nhưng lại có bổ sung những nhân vật đi cầu pháp. Còn trong Cao tăng truyện, tác giả Huệ Kiểu đã ghi chép tương đối khác: có niên hiệu “Vĩnh Bình” (永平), có nhân vật đi cầu pháp, có cả vị Sa-môn Ma Đằng (摩騰) đến truyền pháp. Ngoài ra, một số tác phẩm lịch sử Phật giáo về sau đã ghi chép dựa vào những tài liệu trên nhưng cũng có nội dung không thống nhất, giữa các tác phẩm trước và sau. 

Như vậy, dường như những tài liệu càng về sau, đặc biệt là những tài liệu thuộc lịch sử Phật giáo, đã bổ sung thêm các tình tiết. Chính vì điều này, một số học giả đã đặt vấn đề nghi vấn đối với sự thật của giả thuyết. Để làm sáng tỏ sự việc này, chúng ta cùng phân tích sự thật câu chuyện.

Sự kiện ngài Ca Diếp Ma Đằng (Kāśyapa Mātaṇga) và Trúc Pháp Lan (Dharmarakṣa) đến đất nước Trung Quốc

Sau khi tìm hiểu về thuyết Minh Đế cầu pháp, người viết nhận thấy một số vấn đề không hợp lý trong việc ghi chép thuyết này ở những thời kỳ về sau. Qua tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu và ý kiến, người viết xin nêu ra năm vấn đề cho thấy sự mâu thuẫn của thuyết này.  

Trước hết, việc ghi chép niên đại của thuyết này giữa các tác phẩm lịch sử dường như không hoàn toàn thống nhất. Trong Hậu Hán thư Tư trị thông giám, các sử gia đã không ghi về niên đại, ngoại trừ thụy hiệu Hán Minh Đế đã giúp cho chúng ta dự đoán sự kiện đã diễn ra vào triều đại của ông trị vì. Còn lại nội dung chỉ dùng trạng từ “thế truyền” (世傳), nghĩa là người thế gian truyền tụng, để dẫn dắt câu chuyện theo cách dân gian truyền thuyết thường sử dụng.

Đối với những tác phẩm thuộc lịch sử Phật giáo, sự hổn dung về niên đại sau đó bắt đầu diễn ra. Trước tiên, trong Cao Tăng truyện, tác giả Huệ Kiểu đã nhắc tới niên hiệu “Vĩnh Bình” (永平), tức khoảng thời gian từ năm 58-75, tuy vẫn chưa rõ ràng nhưng đã ghi chép theo dạng Kỷ (, biên niên sử) mang tính sử liệu hơn. Kế tiếp, trong một số tác phẩm khác như Lịch đại Pháp bảo ký (曆代法寶記), Tập cổ kim Phật đạo luận hoành (集古今佛道論衡), Phá tà luận (破邪論), Tứ phần luật hành sự sao tư trì ký (四分律行事鈔資持記), Quảng hoằng minh tập (廣弘明集)... các tác giả đều thống nhất niên đại của thuyết Minh Đế cầu pháp vào “Vĩnh Bình năm thứ ba”[5]. Trong khi trong một số tác phẩm như Lịch đại Tam bảo ký, Phật tổ thống kỷ, Thích thị kê cổ lược (釋氏稽古略), Chú Tứ thập nhị chương kinh (註四十二章經), Khai Nguyên thích giáo lục (開元釋教錄)... các tác giả đã dùng niên đại “Vĩnh Bình năm thứ bảy”[6] để đánh dấu sự kiện vua Hán Minh Đế nằm mơ thấy thần nhân và phái sứ đoàn đi cầu pháp. Còn trong hai quyển Truy môn cảnh huấn (緇門警訓) Đường hộ pháp Sa-môn Pháp Lâm biệt truyện (唐護法沙門法琳別傳), các tác giả lại ghi rằng“Vĩnh Bình năm thứ mười ba” sự kiện giấc mơ người vàng của Hán Minh Đế mới diễn ra[7]. Qua đó, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự không đồng nhất trong việc ghi chép niên đại của thuyết Minh Đế cầu pháp ở những sử liệu Phật giáo Trung Quốc thời cổ đại lẫn trung đại. Đối với việc thành lập một thuyết lịch sử công truyền, yếu tố tiên quyết nhất là niên đại diễn ra sự kiện. Trong khi đó thuyết Minh Đế cầu pháp lại không đồng nhất về niên đại, thậm chí một số tài liệu chính sử còn lược đi. Điều đó làm xuất hiện những nghi vấn về sự thật lịch sử của thuyết này.

Thứ hai, việc ghi chép về thân thế của những nhân vật trong phái đoàn cầu pháp thời đó dường như không hợp lý với thời đại vua Hán Minh Đế.

Trước hết là tướng Trương Khiên (張騫). Theo những bộ chính sử như Sử ký, Hán thư, Hậu Hán thư, Tư trị thông giám…, ông là một nhân vật lịch sử sống vào khoảng thế kỷ thứ II tr.TL, dưới triều Hán Vũ Đế. Thế nên, sự có mặt của danh tướng Trương Khiên vào thời vua Hán Minh Đế (khoảng hạ bán thế kỷ thứ I) một sự ngụy tác. Tiếp theo là nhân vật Tần Cảnh (景博), vị bác sĩ đệ tử mà sách Thông điển (通典) đã từng nhắc đến trong giả thuyết Khẩu truyền Phật giáo của Y-Tồn, vào niên hiệu Nguyên Thọ, thời vua Hán Ai Đế. Giả sử nhân vật Tần Cảnh còn sống đến thời điểm đi cầu pháp, ông đã trên dưới trăm tuổi. Thêm nữa, thân thế của Tần Cảnh cũng không phải trung lang tướng như giả thuyết. Liệu rằng sức khỏe của một học giả đã trăm tuổi có đáp ứng được chuyến đi hiểm trở như vậy không? Bên cạnh đó, nhân vật Vương Tuân là một võ tướng dưới quyền của tướng Ngỗi Hiêu (隗囂), không phải là bác sĩ đệ tử như giả thuyết. Ông đã sống và chinh chiến dưới triều vua Hán Quang Vũ Đế (5 tr.TL - 57)[8], đã được Hậu Hán thư Tư trị thông giám ghi nhận. Trong khi danh xưng Vũ Lâm (羽林) là tên gọi của đội vệ binh được đào tạo từ trẻ mồ côi thời nhà Hán. Cuối cùng, nhân vật trung lang tướng Thái Âm (蔡愔) chỉ thấy xuất hiện trong Cao Tăng truyện, hoàn toàn không thể tìm thấy danh tánh nhân vật này trong hai bộ chính sử Hán thư Hậu Hán thư.

Mặt khác, đối với chế độ tông pháp của lịch sử phong kiến, việc kỵ húy trong hàng danh gia vọng tộc rất được chú trọng. Trong khi việc trùng tên trùng họ của những nhân vật được xem là quan chức cấp cao trong triều đình thời bấy giờ lại khó có thể xảy ra. Như vậy, sự ghi chép về thân thế danh tánh của những nhân vật được chọn đi sứ rõ ràng có vấn đề về sự thật và không phù hợp với thời đại lịch sử.

Thứ ba, chính là sự thông thái của viên quan Phó Nghị[9] khi ông trả lời vua Hán Minh Đế, như được đề cập trong bài tựa kinh Tứ thập nhị chươngCao Tăng truyện. Trong trường hợp thuyết Minh Đế cầu pháp là cột mốc đánh dấu thời điểm đầu tiên Phật giáo truyền vào Trung Quốc, vậy thì những kiến thức của Phó Nghị về Đức Phật xuất phát từ đâu để ông có thể giải thích cho vua nghe về Phật giáo? Nếu viên quan Phó Nghị đã từng đến Tây Vực hay Thiên Trúc để tìm hiểu về đạo Phật thì ông chính là người đầu tiên truyền bá Phật giáo vào Trung Quốc. Còn nếu từ một nguồn tài liệu hay một nhân vật nào đó đã truyền tải thông tin về Phật giáo cho ông thì thuyết Minh Đế cầu pháp này càng không phải thời điểm đầu tiên Phật giáo du nhập vào Trung Quốc. Như vậy, thời điểm đầu tiên Phật giáo có mặt Trung Quốc không thể bắt đầu từ lúc thành lập thuyết Minh Đế cầu pháp.

Thứ , sự xuất hiện của hai vị Sa-môn Ca Diếp Ma Đằng (迦葉摩騰, Kāśyapa Mātaṇga) và Trúc Pháp Lan (竺法蘭, Dharmarakṣa) cũng không thống nhất. Về điều này các tác phẩm lịch sử Phật giáo đã ghi chép không thống nhất về niên đại xuất hiện của họ. Trước hết, trong bài tựa kinh Tứ thập nhị chương, phái đoàn cầu pháp đã sang nước Nguyệt Chi thỉnh về được bản kinh, nhưng không đề cập đến danh tánh hai vị dịch giả trên. Trong khi trong Xuất tam tạng ký tập (出三藏記集) quyển hai, tác giả Tăng Hựu (445 - 518) đã ghi rằng phái đoàn cầu pháp đến nước Đại Nguyệt Chi chỉ gặp Sa-môn Trúc Ma Đằng. Sau đó, họ đã thỉnh ngài về Lạc Dương phiên dịch kinh sách[10]. Tương tự, trong Khai Nguyên thích giáo lục (開元釋教錄), tác giả Trí Thăng cho rằng phái đoàn cũng chỉ gặp Tôn giả Ca Diếp Ma Đằng thỉnh ngài trở về Lạc Dương, còn dùng ngựa trắng để chở kinh sách và Phật tượng[11]. Theo Lịch đại Tam bảo ký, quyển bốn, tác giả Phí Trường Phòng cũng nhận định giống như hai tác phẩm ở trên[12].

Tuy nhiên, vẫn trong quyển bốn của Lịch đại Tam bảo ký, ở phần sau, xuất hiện thêm chi tiết về ngài Trúc Pháp Lan, người đã tiếp tục phiên dịch bản kinh Tứ thập nhị chương, sau khi ngài Ma Đằng viên tịch[13]. Đặc biệt, theo Cao tăng truyện của tác giả Huệ Kiểu, cả hai vị Sa-môn Tây Vực này đã cùng xuất hiện vào niên đại Vĩnh Bình của vua Hán Minh Đế. Từ đó việc xuất hiện thêm ngài Trúc Pháp Lan cùng đến Lạc Dương với ngài Nhiếp Ma Đằng đã được một số tác phẩm như Lịch đại Pháp bảo ký, Phá tà luận, Thích thị yếu lãm (釋氏要覽)... ghi nhận[14]. Rõ ràng việc ghi chép về sự xuất hiện của hai vị Sa-môn Tây Vực này có nhiều điểm không thống nhất. Trong khi đó đối với hai bộ chính sử nổi tiếng là Hậu Hán thưTư trị thông giám, các tác giả lại hoàn toàn không nhắc đến danh tánh của hai vị Sa-môn Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan ở thời điểm đó.

Như vậy, thuyết Minh Đế cầu pháp chứa đựng những dị biệt về sự có mặt của nhà truyền giáo ban đầu.

Vấn đề cuối cùng và quan trọng nhất chính là yếu tố chính trị ngoại giao giữa Trung Quốc và Trung Á vào thời điểm niên hiệu Vĩnh Bình (từ năm 58 - 75). Kể từ năm Thần Tước thứ hai (năm 60 tr.TL), vua Hán Tuyên Đế đã thành công trong việc thiết lập “Đô hộ phủ” (都護府) tại khu Tây Vực. Sau đó, vào thời vua Hán Ai Đế, các quốc gia Tây Vực đã phải chịu sự quản lý trực tiếp của triều đình Trung Quốc. Bấy giờ, khoảng năm mươi tiểu quốc ở Tây Vực, các vị trí quan lại từ Dịch trưởng cho đến Tướng quốc đều phải mang ấn thụ của triều đình nhà Hán. Họ vừa giữ trọng trách quốc gia, vừa chịu sự điều hành của chính quyền Trung Quốc. Đối với những quốc gia ở Trung Á họ cũng bắt đầu thiết lập quan hệ bang giao với Trung Quốc, nhằm đảm bảo lợi ích của họ phía Đông. Kể từ đây, thông qua khu Tây Vực, chính quyền Trung Quốc đã thiết lập quan hệ giao thương ổn định với khu vực Trung Á. Bên cạnh đó, sự lưu thông của con đường tơ lụa đã góp phần thúc đẩy kinh tế của Trung Quốc và Tây Vực vào giai đoạn đầu Tây lịch. Do đó, bộ tộc Hung Nô đã nhiều lần tấn công vào con đường tơ lụa ở Tây Vực, mục đích cướp bóc hàng hóa vận chuyển và gây ảnh hưởng quân sự đối với sự lớn mạnh từng ngày của các tiểu quốc ở Tây Vực.

Do đó, vào năm Kiến Vũ thứ mười bốn (năm 38), Toa Xa vương (Yarkand) tên là Hiền, cùng Thiện Thiện vương (Shan Shan) tên là An, đã cùng đến triều cống xin nhà Hán lập “Đô hộ phủ”, để chống lại sự hoành hành của Hung Nô. Tuy nhiên, lúc này, triều đại Hán Quang Vũ đang trong thời kỳ củng cố chính trị, sau khi vừa giành lại vương vị từ Vương Mãng, nên đã khước từ lời đề nghị của họ. Đồng thời, bấy giờ, nước Toa Xa cũng đang phát triển mạnh mẽ thế lực ở khu vực Pamirs. Trước đó, năm Kiến Vũ thứ chín (năm 33), Toa Xa vương Hiền đã đánh bại Câu Di vương và Tây Dạ vương, sát nhập hai tiểu quốc vào sự quản lý của nước Toa Xa. Cùng với nhiều mối quan hệ bang giao hữu hảo, Toa Xa vương Hiền cũng hun đúc giấc mộng bá chủ khu Tây Vực trong tương lai gần.

Vào năm Kiến Vũ thứ mười bảy (năm 41), Toa Xa vương Hiền lại dâng sớ nạp cống cho nhà Hán, xin được sắc phong chức quan “Tây Vực thủ hộ”[15] và ban ấn thụ, mục đích thay thế nhà Hán điều hành và cai quản khu Tây Vực. Ban đầu, vua Hán Quang Vũ đồng ý với đề nghị. Thế nhưng Thái thú Đôn Hoàng là Bùi Tuân  (裴遵) hay tin và dâng tấu sớ can ngăn rằng:“Với Di địch chớ nên đem đại quyền cho mượn; hơn nữa lại khiến cho các nước khác thất vọng”[16]. Thế nên nhà vua liền hạ chiếu thu hồi ấn thụ “Tây Vực thủ hộ”, đổi ban cho Toa Xa vương quân hàm Đại tướng của nhà Hán. Thực tế, nếu lời thỉnh cầu được toại nguyện, Tây Vực sẽ nổi lên một thế lực quân sự thứ hai làm lũng đoạn và thao túng con đường tơ lụa, về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhà Hán.

Từ đó, Toa Xa vương Hiền bắt đầu tự tung tự tác, trá xưng danh hiệu “Đại đô hộ” (大都護), ức hiếp các tiểu quốc lân bang, bắt buộc họ phải thỏa hiệp với yêu sách của mình. Thế nên, vào năm Kiến Vũ thứ hai mươi mốt (năm 45), mười tám nước ở Tây Vực liên tiếp gửi thư và con tin vào vùng đất Trung Nguyên xin nhà Hán thiết lập Đô hộ phủ trở lại. Tuy nhiên, lúc này tộc Hung Nô hay tin nên liên tục tấn công biên cương nhà Hán, quyết ngăn chặn mối liên kết quân sự này. Trước áp lực chính trị từ nhiều phía, Hán Quang Vũ lại lần nữa khước từ lời đề nghị liên minh, tập trung củng cố phòng thủ biên thùy.

Sau một năm, Toa Xa vương Hiền ngày càng bạo ngược hơn, bắt đầu tấn công nước Thiện Thiện, giết chết vua nước Quy Tư, thị uy sức mạnh ở Tây Vực. Tiếp tục lần thứ ba, vua nước Thiện Thiện lại gửi thư cầu viện nhà Hán và nhận phúc đáp từ Hán Quang Vũ Đế rằng: “Nay sứ giả và đại binh chưa thể phái đi được, nếu các nước lực bất tòng tâm, đông nam tây bắc, xin tự do tự tại vậy.”[17] Lời phúc đáp đã chấm dứt những hy vọng liên thủ của các tiểu quốc Tây Vực với nhà Hán. Thế nên họ buộc phải chuyển sang quy phục Toa Xa vương Hiền. Một số nước ở Tây Vực không thỏa hiệp thì đã đóng cửa biên giới và tự lực phòng thủ. Vì vậy, mối quan hệ giữa Trung Quốc và khu Tây Vực coi như đứt đoạn, các trạm dịch và cửa khẩu đều phải đóng cửa. Vấn đề này đã khiến việc giao thương qua con đường tơ lụa phải ngưng trệ trong một khoảng thời gian tương đối dài. Tất nhiên mối quan hệ ngoại giao giữa Trung Á và phía Tây Trung Quốc cũng bị gián đoạn.

Mặt khác, theo ghi chép của sử gia Tư Mã Quang, sự cách tuyệt giữa Trung Quốc và Tây Vực còn diễn ra trước đó nữa. Cụ thể, vào năm Thiên Phượng thứ ba (năm 18), thời Vương Mãng chiếm quyền, sự kiện phái đoàn của Vương Tuấn, Quách Khâm, cùng quan Đô hộ Tây Vực là Lý Sùng đi sứ ở Tây Vực bị tập kích. Khi phái đoàn đến nước Yên Kỳ, các tướng lĩnh ở nước Cô Mặc, Phong Lê, Nguy Tu... cùng với quân đội Yên Kỳ, đã phục kích và sát hại phái đoàn, chỉ có Quách Khâm và Lý Sùng đi sau nên chạy thoát. Về sau, Lý Sùng cũng chết ở Quy Tư. Lúc này tình hình Trung Quốc đang loạn lạc, một số tiểu quốc ở Tây Vực đã trở mặt, không triều cống Trung Quốc. Thế nên Vương Mãng quyết định đóng cửa biên giới, thu hồi Đô hô phủ, cắt đứt mối quan hệ ngoại giao chính trị với đặc khu Tây Vực.

Cho đến năm Vĩnh Bình thứ mười sáu (năm 73), Hán Minh Đế mới phát lệnh cho tướng quân Ban Siêu (32 - 102) đi sứ Tây Vực, nhằm nối lại mối quan hệ ngoại giao. Lúc này Toa Xa vương Hiền đã băng hà, nhưng thế lực Hung Nô vẫn bạo tàn, ngang ngược. Khi phái đoàn của Ban Siêu vừa đến nước Thiện Thiện, vô tình sứ giả tộc Hung Nô cũng đến. Trong đêm, tướng Ban Siêu và quân đội âm thầm tập kích và tiêu diệt sứ đoàn Hung Nô, vua nước Thiện Thiện hay tin liền quy phục nhà Hán. Từ đó, dưới uy quyền của Ban Siêu, các tiểu quốc ở Tây Vực đã quy phục Trung Quốc trở lại và thiết lập mối quan hệ ngoại giao triều cống. Thời điểm này là năm Vĩnh Bình thứ mười sáu (năm 73).

Như vậy, tình trạng đóng cửa biên giới, cách tuyệt ngoại giao giữa Trung Quốc và Tây Vực kéo dài tổng cộng đến sáu mươi lăm năm, từ năm 18 đến 73, tính cả thời Vương Mãng. Đồng thời, theo tác giả Zenryu Tsukamoto, tới cuối thời Hán Chương Đế (76 - 89), một số quốc gia như Toa Xa (Yarkand), Quy Tư (Kucha) và Sớ Lặc (Kashgar), những trọng điểm trên hai tuyến đường Bắc và Nam vượt sa mạc Takla-Makan, để đi vào Trung Á, vẫn chưa quy phục nhà Hán. Liệu rằng trong niên hiệu Vĩnh Bình (từ năm 58 - 75), một sứ đoàn chính thức của Trung Quốc có thể băng qua vùng nội loạn và chống đối lại nhà Hán để đến được Thiên Trúc (Ấn Độ) hay Trung Á thỉnh cầu một tôn giáo “thấy trong mơ” hay không? Từ sự kiện cách tuyệt mối quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Trung Á, người viết có thể nhận định rằng, giả thuyết về một phái bộ được công cử sang Thiên Trúc (Ấn Độ) cầu thỉnh Phật giáo về Trung Quốc vào niên hiệu Vĩnh Bình, hoàn toàn vô căn cứ và không phù hợp với những diễn biến của chính sử.

Tựu trung, thông qua năm vấn đề liên quan từ niên đại đến nhân vật lẫn sự kiện lịch sử của thuyết Minh Đế cầu pháp, chúng ta nhận thấy rằng có quá nhiều lỗ hổng trong sự ghi chép. Thế nên, những dữ kiện khi được xâu kết lại, hoàn toàn không phù hợp với sự thật lịch sử. Thuyết này như vậy dường như chỉ là một giai thoại huyền sử.



 



[1] Nguyên văn:

世傳明帝夢見金人長大頂有光明.以問群臣.或曰.西方有神名曰佛.其形長丈六尺而黃金色帝於是遣使天竺問佛道法.遂於中國圖畫形像焉.楚王英始信其術.中國因此頗有奉其道者.後桓帝好神數祀浮圖.老子.百姓稍有奉者.後遂轉盛Xem Hậu Hán thư, quyển 88, phần Liệt truyện, số 78. Tây Vực truyện.

[2] Nguyên văn:

昔漢孝明皇帝夜夢見神人.身體有金色.項有日光.飛在殿前.意中欣然.甚悅之.明日問群臣.此為何神也.有通人傅毅曰.臣聞天竺有得道者.號曰佛.輕舉能飛.殆將其神也.於是上悟.即遣使者張騫羽林中郎將秦景博士弟子王遵等十二人.至大月支國.寫取佛經四十二章.在第十四石函中登起立塔寺.於是道法流布.處處修立佛寺.遠人伏化願為臣妾者.不可稱數.清寧.含識之類蒙恩受賴于今不.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 17, số 784, Tứ thập nhị chương kinh.

[3] Nguyên văn:

昔 漢孝明皇帝.夜夢見神人.身有日光.飛在殿前.意中欣然也.心甚悅之.明日傳問群臣.此為何物有通事.舍人傅毅曰.臣聞天竺有德道者.號曰佛.輕舉飛騰. 身有日光.殆將其神.於是上悟.遣使張騫羽林郎中秦博士弟子王尊等一十二人大月氏.寫取佛經四十二章.在蘭臺石室第十四。

 Xem Đại Chánh tạng, tập 51, số 2075, Lịch đại Pháp bảo ký, quyển 1.

[4] Nguyên văn:

漢永平中.明皇帝夜夢金人.飛空而至.乃大集群臣.以占所夢.通人傅毅奉答.臣聞西域有神.其名曰佛.陛下所夢將必是乎.帝以為然.即遣郎中蔡愔.博士弟子秦景等.使往天竺.尋訪佛法.愔等於彼遇見摩騰.乃要還漢地.騰誓志弘通.不憚疲苦.冒涉流沙.至乎雒邑.明帝甚加賞接.於城西門外.立精舍以處之.漢地有沙門之始也.Xem Đại Chánh tạng, tập 50, số 2059, Cao Tăng truyện quyển 1.

[5] Nguyên văn: 後漢明帝. 永平三年. 夜夢見金人. 身長一丈六尺. 項背圓光. 飛行殿庭.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 51, số 2075, Lịch đại Pháp bảo ký, quyển 1.

-  Nguyên văn: 後漢明帝永平三年夜.夢金人飛空而至.旦集群臣占之.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 40, số 1805, Tứ phần luật hành sự sao tư trì ký, quyển 2.

-  Nguyên văn: 後漢書.孝明帝永平三年.上夢金人項佩日月光飛行殿前.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 52, số 2109, Phá tà luận, quyển 1.

-  Nguyên văn: 漢法本內傳云.明帝永平三年.上夢神人金身丈六.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 52, số 2104, Tập cổ kim Phật đạo luận hoành, quyển 1.

-  Nguyên văn: 明帝永平三年.上夢神人.金身丈六項有日光.寤已問諸臣下.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 52, số 2103, Quảng Hoằng minh tập, quyển 1.

[6] Nguyên văn: 諡為孝明帝.至永平七年.夜夢金人身長丈六.項佩日輪.飛空而至.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 49, số 2034, Lịch đại Tam bảo ký, quyển 4.

-  Nguyên văn: 漢明帝永平七年.帝夢金人丈六飛行殿庭.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 49, số 2035, Phật tổ thống kỷ, quyển 54.

-  Nguyên văn: 佛教流通東土之始.永平七年.帝夢金人.長大.項有日光.飛至殿庭.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 49, số 2037, Thích thị kê cổ lược, quyển 54.

-  Nguyên văn: 元此四十二章經. 皆有來因. 是永平七年, 明帝夜夢一人體有金色項有日光.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 39, số 1794, Chú Tứ thập nhị chương kinh, quyển 1.

-  Nguyên văn: 明帝以永平七年.甲子.夢見金人.身長丈六項.佩日輪光明赫奕.飛在殿前.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 55, số 2154, Khai Nguyên thích giáo lục quyển 1, Tổng lục chi nhất.

[7] Nguyên văn: 傳云.明帝永平十三年.上夢神人金身丈六.項有日光.寤已問諸臣下.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 48, số 2023, Truy môn cảnh huấn, quyển 10, Khai Phật hóa pháp bổn nội truyện.

-  Nguyên văn: 自後漢明帝.永平十三年.夢見金人已來.像教東流靈瑞非一.具如漢魏諸史姚石等書。

 Xem Đại Chánh tạng, tập 50, số 2051, Đường hộ pháp Sa-môn Pháp Lâm biệt truyện, quyển 1.

[8] Xem Hậu Hán thư, quyển 13, phần Liệt truyện, số 3. Ngỗi Hiêu Công Tôn Thuật liệt truyện.

[9] Phó Nghị (傅毅) tự là Võ Trọng, xuất thân ở Mậu Lăng quận, từ nhỏ đã nổi tiếng học rộng hiểu nhiều.

 Xem Hậu Hán thư, quyển 80, phần Liệt truyện, số 70. Văn uyển liệt truyện, quyển thượng.

[10] Nguyên văn: 始於.月支國遇沙門竺摩騰.譯寫此經還洛陽。

 Xem Đại Chánh tạng, tập 55, số 2145, Xuất Tam tạng ký tập quyển 2, Tân tập kinh luận lục.

[11] Nguyên văn:

於大月支國與摩騰相遇.時蔡愔等固請於騰.遂與.同來至于洛邑.明帝甚加賞接.所將佛經及.獲畫像馱以白馬同到洛陽。

 Xem Đại Chánh tạng, tập 55, số 2154, Khai nguyên Thích giáo lục quyển 1, Tổng lục chi nhất.

[12] Nguyên văn: 往適天竺.於月支國遇攝摩騰.寫得佛經四十二章.并獲畫像.載以白馬還達雒陽.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 49, số 2034, Lịch đại Tam Bảo ký, quyển 4.

[13] Nguyên văn:

聞漢使愔來.訊訪漢地佛法.遂有心輕舉.國王不聽.密與騰同來.間行後至.明帝世翻初共騰出四十二章.騰卒.蘭自譯.昔漢武帝穿昆明池.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 49, số 2034, Lịch đại Tam bảo ký, quyển 4.

[14] Nguyên văn: 請得佛像菩薩形像經四十二章.得法師二人.迦葉摩騰.竺法蘭.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 51, số 2075, Lịch đại Pháp bảo ký, quyển 1.

-  Nguyên văn: 使於天竺而圖其形像.愔仍與沙門攝摩騰竺法蘭.東還洛陽.中國有沙門.自此始也.

 Xem Đại Chánh tạng, tập 52, số 2109, Phá tà luận, quyển 1.

-  Nguyên văn: 後漢明帝.永平十年丁卯.佛法初至.有印度二僧.摩騰法蘭.以白馬馱經像.

Xem Đại Chánh tạng, tập 54, số 2127, Thích thị yếu lãm, quyển 1.

[15] Chức quan “Tây Vực thủ hộ” (西域守護) hay “Tây Vực hộ vệ tướng quân” (西域護衛將軍) (protector general of the Western Regions) là người đứng đầu trị sở “Đô hộ phủ” (都護府) ở Tây Vực.

[16] Nguyên văn: 敦煌太守裴遵上言.夷狄不可假以大權. 又令諸國失望。

Xem Hậu Hán thư, quyển 88, phần Liệt truyện, số 78. Tây Vực truyện.

[17] Nguyên văn: 天子報曰.今使者大兵未能得出.如諸國力不從心.東西南北自在也。

 Xem Hậu Hán thư, quyển 88, phần Liệt truyện, số 78. Tây Vực truyện.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle