Chính sách nội trị và ngoại giao của nhà Tiền Lê qua thi pháp của thiền sư Đỗ Pháp Thuận
chinh sach noi tri
CHÍNH SÁCH NỘI TRỊ VÀ NGOẠI GIAO CỦA NHÀ TIỀN LÊ
QUA THI PHÁP CỦA THIỀN SƯ ĐỖ PHÁP THUẬN
Lê Cung
Chiến thắng Bạch Đằng (938) đã đập tan âm mưu
lâu dài của phong kiến phương Bắc muốn biến nước ta thành quận, huyện
của Thiên triều Trung Quốc, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ cho đất
nước. Nhưng do chính sách đô hộ kéo dài của phong kiến phương Bắc, sau
khi giành được độc lập, đất nước đứng trước những thách thức to lớn.
Nạn tái xâm lăng nước ta từ phía phong kiến phương Bắc vẫn mang tính
thường trực; trong lúc đó các triều đại độc lập đầu tiên (Ngô, Đinh)
đang còn non trẻ, chính sách cai trị, luật pháp, kỹ cương phép nước
đang còn phôi thai
dễ dẫn đến nội bộ triều đình phân hóa, mâu thuẫn
mỗi khi giặc xâm lăng bên ngoài đã bị đẩy lùi.
Trước một tình thế như vậy nên ở vào buổi
đầu khởi nghiệp, vua Lê Đại Hành mời Thiền sư Đỗ Pháp Thuận tham gia
vào việc trù định kế sách của triều đại. Thiền sư Đỗ Pháp Thuận
sinh năm 915, mất năm 990. Sách Thiền uyển tập anh cho biết:
“Thiền sư Pháp Thuận chùa Cổ Sơn, Thừ Hương, quận Ải. Không biết người
ở đâu.
Sư họ Đỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, rõ việc đương thời. Nhỏ
xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Khi đã đắc
pháp nói ra lời nào cũng hợp với sấm ngữ. Đương lúc nhà Lê mới dựng
nghiệp, trù định kế sách, Sư tham dự đắc lực. Đến khi thiên hạ thái
bình, Sư không nhận phong thưởng. Hoàng đế Lê Đại Hành càng kính trọng,
thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ Pháp sư, đem việc văn thư giao phó cho
Sư”.
Sử liệu trên đây giúp chúng ta hiểu được Thiền
sư Đỗ Pháp Thuận là người được vua Lê Đại Hành kính trọng vào bậc
nhất trong số các vị Thiền sư lúc bấy giờ, vua thường không gọi tên,
chỉ gọi Đỗ Pháp sư. Không những thế, vua Lê Đại Hành đã đặt hết
niềm tin vào Thiền sư Pháp Thuận khi “đem việc văn thư giao phó cho Sư”,
đặc biệt là vua Lê Đại Hành đã tham vấn Thiền sư về vận nước, nghĩa
là vấn đề sinh tử, tồn vong của triều đại (triều Tiền Lê). Khi được
hỏi về vận nước, Đỗ Pháp Thuận đã trả lời vua Lê Đại Hành bằng một
bài kệ:
Vận nước như mây quấn,
Trời Nam hưởng thái bình.
Vô vi trên điện các,
Chốn chốn dứt binh đao.
Nguyên văn:
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.
Sự xuất ngôn của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận với
bài kệ trên đây đặt trong bối cảnh đất nước đang đứng trước nguy cơ
của cả thù trong giặc ngoài, vận mệnh triều đại đang bị đe dọa nghiêm
trọng như đã nêu. Bằng thiên tư trí tuệ, sự nhạy bén về chính trị,
Thiền sư Đỗ Pháp Thuận khẳng định chắc nịch rằng để đất nước thái
bình, triều đại trường tồn, điều quan trọng bậc nhất là toàn dân
đoàn kết (cuộn mây). Từng cá nhân riêng rẻ giống như từng sợi mây tất
sẽ trở nên yếu đuối không tránh khỏi bị tiêu diệt mỗi khi kẻ thù ngó
tới, nhưng khi toàn dân đoàn kết như một cuộn mây thì không một kẻ thù
nào địch nổi.
Về sau, vấn đề đoàn kết, nhân dân ta thường sử
dụng hình ảnh bó đũa hoặc: Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết;
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công!
Không chỉ toàn dân đoàn
kết, mà hơn thế nữa để toàn dân đoàn kết, Pháp Thuận đòi hỏi bậc
nhân chủ phải hành xử vì quyền lợi nhân dân, tức là phải vô vi (vô
vi trên điện các). Với Phật giáo, vô vi (asamskrta) tức là
“cẩn thận không kiêu ngạo, là hạnh của học sĩ, bỏ lòng dơ ân ái,
không lấm bụi bặm của sáu tình, không để các ái nhỏ như tóc tơ che
giấu trong lòng mình thì các niệm lắng diệt”.
Vô vi mới tạo được niềm tin trong nhân dân, để từ đó họ xả thân bảo
vệ đất nước, vương triều.
Ý tưởng đại đoàn kết toàn dân, bậc nhân chủ
phải vì quyền lợi của nhân dân mà hành động được thiền sư Pháp Thuận
trả lời vua Lê Đại Hành cách đây hơn mười thế kỷ được xem như là một
luận điểm chính trị vượt thời gian và không gian. Đây chính là bí
quyết để đất nước thái bình, nhân dân an lạc. Nó đã trở thành một di
sản quý báu của dân tộc, được phát triển qua dòng thời gian và đã
trở thành chiếc “gươm thần” để nhân dân ta quật đổ bao kẻ thù
hung bạo, giữ vững được nền tự chủ của đất nước.
Trên mặt trận ngoại giao, đóng góp của Thiền
sư Đỗ Pháp Thuận cũng hết sức nổi bật. Theo Đại Việt sử ký toàn
thư: “Năm Đinh Hợi Thiên Phúc thứ 8 (987) mùa Xuân..., nhà Tống
lại sai Lý Giác đến. Tới chùa Sông Sách, vua sai Pháp sư tên Thuận giả
làm giang lệnh đi đón. Giác rất giỏi văn chương. Bấy giờ, gặp lúc có
bầy ngỗng bơi trên mặt nước, Giác vui ngâm:
Ngỗng ngỗng cả bầy
ngỗng,
Ngửa mặt ngó ven
trời.
Nguyên văn: Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng
thiên nhai.
Pháp Thuận đang cầm chèo liền nối vần ngay:
Lông trắng phơi dòng biếc,
Sóng xanh chân trời hồng.
Nguyên văn: Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba.
Hầu như lâu nay trong giới nghiên cứu đều thống
nhất rằng chính sự nối vần, hay nói cụ thể hơn là tài ứng xử bằng
văn thơ của Pháp Thuận đã làm cho Lý Giác vô cùng thán phục, nên khi
đến sứ quán, Lý Giác đã có bài thơ tặng Pháp Thuận:
May gặp thời minh giúp được mưu
Một thân hai lượt sứ Giao Châu
Đông Đô đôi biệt lòng thêm luyến
Nam Việt muôn trùng ngóng chửa bưa
Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời núi biếc thả dòng đưa
Ngoài trời lại có trời soi nữa
Sóng lặng khe đầm ngắm nguyệt thu.
Nguyên văn:
Hạnh ngộ minh thời tán thịnh du
Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu
Đông Đô lưỡng biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu,
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch,
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu,
Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.
Đỗ Pháp Thuận đem bài thơ dâng lên vua Lê Đại
Hành. Vua hỏi Đại sư Khuông Việt. Khuông Việt nói: “Bài thơ này tôn
trọng bệ hạ cùng với chúa nó không khác”. Ứng xử ngoại giao của
Thiền sư Đỗ Pháp Thuận đã khiến Lý Giác đi từ chỗ thán phục thần
dân Đại Cồ Việt đến sự ngưỡng mộ vua Lê Đại Hành không khác gì hoàng
đế triều Tống.
Tuy nhiên, sự nhận thức về mặt chính trị qua
cách ứng xử ngoại giao của Pháp Thuận không chỉ có thế. Bởi không
chỉ là một sự nối vần sắc sảo của Pháp Thuận mà dẫn đến sự thán
phục và ngưỡng mộ của Lý Giác đối với thần dân và bậc nhân chủ của
Đại Cồ Việt như đã đề cập ở trên. Chắc chắn trong cách ứng xử ngoại
giao giữa Pháp Thuận và Lý Giác còn ẩn chứa những ý nghĩa cao hơn
mà chính những người uyên Phật, thâm Nho như Pháp Thuận mới với tới.
Ngỗng ngỗng cả bầy ngỗng!
Ngữa mặt ngó ven trời.
Thực ra, đây là một lối chơi chữ mang tính kiêu
ngạo của sứ thần Lý Giác, mà không chỉ riêng Lý Giác, đây là thái
độ phổ biến của sứ thần phương Bắc. Ý Lý Giác xem vua và dân Đại Cồ
Việt như là bầy ngỗng đang ngẫng mặt hướng về thiên triều thần phục.
Ngôn ngữ ngoại giao mà Lý Giác sử dụng, thoạt nhìn thật là nhẹ
nhàng, bay bổng; song nhìn kỹ quả thực là một sự nhục mạ, một thách
thức lớn lao đặt ra với Đỗ Pháp Thuận.
Với trách nhiệm một công dân, cao hơn còn là
một vị Thiền sư giữ trọng trách đối với vận nước Đại Cồ Việt, Đỗ
Pháp Thuận hiểu hết thâm ý của sứ thần Lý Giác nhưng vẫn với thái
độ ung dung tự tại, nối vần một cách hết sức sắc sảo, để từ hai câu
thơ của Lý Giác trở thành một bài thơ hoàn chỉnh. Nhưng sự nối vần
của Đỗ Pháp Thuận ở đây không chỉ nhìn đơn thuần về mặt thi ca mà
phải được hiểu đây là một thái độ ứng xử chính trị trên phương diện
ngoại giao.
Lông trắng phơi dòng biếc,
Sóng xanh chân trời hồng.
Lông trắng được hiểu là sự công khai (bạch
hóa). Một sự công khai được phô bày nơi công cộng (lục thủy). Ở
đây, Pháp Thuận muốn tỏ cho sứ thần Lý Giác hiểu rằng Đại Cồ Việt
đã giành được độc lập và công khai sự độc lập này đối với thiên
triều qua Lý Giác. Và nếu có chăng một thế lực nào đó, dù là thiên
triều đi nữa, với âm mưu xâm phạm nền độc lập, nhân dân Đại Cồ Việt
sẵn sàng đứng lên bảo vệ bằng chính sức mạnh của mình (hồng trạo).
Hồng trạo ở đây được hiểu là mái chèo màu hồng (màu hồng tượng
trưng cho sức mạnh), thuyền lướt được là nhờ mái chèo, cũng có nghĩa
Đại Cồ Việt sẽ vững bước lướt qua mọi phong ba bão táp mà tiến lên
bằng sức mạnh của chính mình.
Như chúng ta đã biết, trước lúc tiến hành
cuộc xâm lược Đại Cồ Việt năm 981, Triệu Khuông Nghĩa, hoàng đế triều
Tống đã gởi thư cho Lê Đại Hành, do Lư Đa Tốn mang qua năm 980, với lời
lẽ đe dọa: “Ta đang chuẩn bị xe ngựa quân lính, sắp xếp các thứ
chiêng trống, nếu quy phục thì ta tha cho, nếu trái lệnh thì ta quyết
đánh. Theo hay chống, lành hay dữ, tự ngươi xét lấy”.
Nhưng rồi quân Tống đã bị thất bại nhục nhã. Năm 896, Lý Giác được
triều Tống cử đi sứ Đại Cồ Việt, được vua Lê Đại Hành trao trả hai
tên tướng là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt trong cuộc
chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt năm 891. Phải chăng sự thất bại của
quân Tống vẫn còn ám ảnh Lý Giác, nên khi nghe Đỗ Pháp Thuận nối vần
bằng hai câu thơ, y đã phải giật mình hiểu tại sao quân Tống thất bại
và ngay cả chính bản thân mình giờ đây cũng phải chuốc lấy thất bại
trên mặt trận ngoại giao. Điều này giúp chúng ta nhận thức được vì
sao Lý Giác đã có bài thơ chứa đựng lời lẽ đầy thán phục Đỗ Pháp
Thuận và ngưỡng mộ Lê Đại Hành như đã đề cập ở trên.
Rõ ràng qua công tác ngoại giao mà Đỗ Pháp
Thuận góp sức, cho thấy ý thức dân tộc Việt từ thời Tiền Lê đã vững
mạnh, vị thế Đại Cồ Việt trên trường quốc tế, nói cụ thể hơn trong
quan hệ với Tống triều Trung Quốc, đã được nâng lên một tầm cao mới.
Nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát đã có lý khi cho rằng: “Sự kiện đối đáp
giữa Pháp Thuận và Lý Giác đã chứng tỏ sự trưởng thành của ý thức
dân tộc trong mọi người dân, nhất là trong tầng lớp trí thức Phật
giáo, mà Pháp Thuận là một đại biểu xứng đáng. Họ ao ước làm thế
nào để nâng thể diện quốc gia trước sứ bộ đối phương, mà cho đến lúc
ấy vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược và quận huyện hóa đất nước Đại Cồ
Việt. Nền độc lập dân tộc vì thế cần phải được bảo vệ dưới mọi
hình thức. Nhận thức được ý nghĩa của sự kiện trên, mấy trăm năm sau,
Lê Quý Đôn còn phải ngỡ ngàng để ghi nhận trong Kiến văn tiểu lục:
Thuận sư thi cú
Tống sứ kinh dị”.
Di thảo của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận chúng
ta chỉ tìm thấy vỏn vẹn chưa đến hai bài thơ, chính xác là một bài
rưởi, gồm cả thảy 6 câu 30 chữ. Nhưng đây chính là sự kết tinh nhuần
nhuyển giữa tư tưởng siêu việt của Phật giáo và trí tuệ Đại Cồ Việt
mà người thể hiện là Thiền sư Pháp Thuận. Sáu câu thơ nhưng hàm chứa
những tư tưởng lớn về nội trị và ngoại giao của một đất nước thật
là điều hiếm có trong lịch sử. Làm được như vậy, Pháp Thuận đã hành
hóa theo đúng “tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc
đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng yên vui và no ấm”.
Tinh hoa Phật giáo Đại Cồ Việt qua sự chứng ngộ của Thiền sư Đỗ Pháp
Thuận thực sự đã chuẩn bị cho sự thăng hoa của Phật giáo Đại Việt
vào thời đại Lý - Trần; và điều như là hiển nhiên trong sự nghiệp
đổi mới đất nước hiện nay, tinh hoa Phật giáo Đại Cồ Việt cần phải
được phát huy bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”.
Sau
khi Ngô Quyền mất năm 944, em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi, tiếp
theo là mâu thuẫn nội bộ nhà Ngô, đất nước rơi vào cảnh hỗn
loạn với 12 sứ quân. Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh đập tan “loạn 12
sứ quân”, rồi lên ngôi hoàng đế vào đầu năm 968, tức Đinh Tiên
Hoàng. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con là Đinh Liễn bị một viên
quan là Đỗ Thích ám hại. Đất nước lại một lần nữa rơi vào
hỗn loạn. Nắm lấy cơ hội này, năm 981, nhà Tống quyết định đem
quân sang xâm chiếm Đại Cồ Việt.