Khái niệm Hòa bình theo Phật giáo: Lý luận và Thực tiễn
khai niem hòa binh
Khái niệm Hòa bình
theo Phật giáo: Lý luận và Thực tiễn
Rajitha P. Kumara* -
Nguyễn Quang Huy dịch
Lời giới thiệu
Từ
quan điểm chủ quan hay khách quan, sự an lạc của con người là nhu cầu cơ bản của
xã hội loài người. Trong một thế giới thay đổi nhanh chóng, các tổ chức và thể
chế xã hội khác nhau đã xuất hiện với mục tiêu duy trì sự sống của nhân loại
trong tinh thần hòa hợp. Nhiều đóng góp đã được thực hiện nhằm củng cố và phát
triển thêm phúc lợi cho xã hội loài người. Tuy nhiên, kỷ nguyên hiện đại với sự
phát triển nhanh chóng đang phải đối mặt với nhiều thách thức như ô nhiễm môi
trường, các vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe, tăng trưởng dân số, tình trạng
khan hiếm thực phẩm và nơi ăn chốn ở và đặc biệt là những vấn đề con người trực
tiếp tạo ra liên quan đến hòa bình và sự cộng sinh của nhân loại. Kết quả là,
các mặt thể chất, xã hội, trí tuệ và tinh thần của con người đã bị ảnh hưởng và
tổn thương nghiêm trọng. Giáo lý Phật giáo nhấn mạnh rằng hòa bình phụ thuộc
vào tình trạng thể chất, xã hội, tinh thần và trí tuệ của các cá nhân sống
trong xã hội đó. Trên
tinh thần này, giáo lý này nhấn mạnh trạng thái hòa hợp, tình thân hữu, sự an bình
và tĩnh lặng, cũng như việc thoát khỏi nạn chiến tranh và bạo lực.
Nền
tảng này đã bị ảnh hưởng rất nhiều trong thời gian gần đây và hệ quả là quan điểm
về vật chất đã xuất hiện trong nhận thức xã hội của con người về môi trường, xã
hội và các cá thể khác cùng tồn tại trong xã hội. Các thảm họa ở nhiều khía cạnh
khác nhau do con người tạo ra đã xuất hiện, trong đó chiến tranh là mối đe dọa
đáng sợ nhất.
Nó đẩy loài người vào những cuộc chiến không mong muốn ở nhiều cấp độ khác nhau
như cuộc chiến giữa hai nhóm thù nghịch, giữa các nhóm dân tộc khác nhau sinh sống
trong vùng lãnh thổ khác nhau hoặc cuộc chiến tranh tàn phá giữa hai quốc gia.
Có vẻ như việc các cường quốc thực hiện chiến tranh dưới chiêu bài mang lại hòa
bình cho các nước bị coi là đang bị đặt dưới ách cai trị của một chế độ chuyên
quyền và độc tài, nhằm duy trì hòa bình, hòa hợp cho các nước đó đã và đang trở
nên một hiện tượng phổ biến trong những năm gần đây.
Các
cuộc chiến đã được khoác lên mình một mặt nạ nhân tính thông qua các mỹ từ như
“nỗ lực nhân đạo”, “sự can thiệp ngoại giao”, “lực lượng gìn giữ hòa bình”, “trừng
phạt kinh tế”, v.v. mà cuối cùng kết thúc đều bằng việc sử dụng vũ lực để mang
lại hòa bình. Mặc
dù các công cụ này có thể tránh được ở một mức độ nhất định các cuộc chiến
tranh giữa các quốc gia và các vùng lãnh thổ gây thiệt hại sinh mạng, nhưng
không thể khắc phục hay cung cấp được các giải pháp cho các vấn đề quan trọng
và cơ bản của các dân tộc, các quốc gia hay lực lượng tham gianội chiến trong
các quốc gia.
Do
đó, theo quan điểm Phật giáo,
để có thể đạt được mục tiêu hòa hợp và hòa bình, quan trọng nhất vẫn là việc
xác định và kiểm tra một cách khách quan, công bằng và trung thực những nguyên
nhân dẫn đến chiến tranh giữa các quốc gia hoặc hoặc vùng lãnh thổ. Trong thế
giới hiện đại, chiến tranh có thể diễn ra trên nhiều phương diện. Ví dụ, việc
hai nước trực tiếp tham chiến do đổ vỡ quan hệ ngoại giao hay tiến hành chiến
tranh lạnh không còn là một hiện tượng phổ biến. Chúng ta đã có thể tránh được
điều này và đó là một điều duy nhất mà nhân loại có thể tự hào về thế giới văn
minh này. Tuy nhiên, những gì diễn ra ở một số quốc gia, đặc biệt là ở một số
nước châu Á và Trung Đông, nơi vẫn diễn ra chiến tranh tàn khốc giữa các phe
nhóm với sự bảo trợ của các cường quốc hùng mạnh,
thì không thể nào khiến chúng ta yên lòng.
Thực tế khắc nghiệt và sự
thật cay đắng
Điều
đáng nhấn mạnh là chiến tranh thì không đem lại lợi ích gì, đồng thời là mối đe
dọa cho sự tồn tại căn bản của con người, và thậm chí phải mất rất nhiều thế hệ
sau cũng khó có thể hàn gắn được những vết thương chiến tranh - điều mà người
ta hay gọi tên là hậu quả và các xung đột thời hậu chiến.
Trong kỷ nguyên hiện đại, điều đáng tiếc nhất là dưới chiêu bài mang lại hòa
bình và hỗ trợ cho người dân ở các nước bị xâm chiếm cuộc sống tốt đẹp hơn, người
ta đã tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược mà kết quả thấy được chỉ là nhiều
thập kỷ đã trôi qua nhưng ngày lại ngày, người dân ở đó vẫn đang phải trả giá bằng
chính sinh mạng của mình và không có điều gì tốt đẹp hơn được xây dựng ngoài
tình trạng bạo lực và tàn phá ở các quốc gia đó.Tình
trạng này trên thực tế chỉ tạo thêm mảnh đất màu mỡ cho các hoạt động buôn bán
vũ khí, ma túy, sự hình thành các nhóm cực đoan và các tổ chúc khủng bố ngày
càng gia tăng.Chính
quyền đã được thiết lập tại các quốc gia này thì không gì khác hơn một sự thất
bại hoàn toàn. Đây
chính là một thực tế khắc nghiệt và một sự thật vô cùng cay đắng. Một tình huống
đáng báo động khác là tình trạng này đang có xu hướng dần lan sang các nước
khác dưới những cái tên rất hay như các biện pháp khắc phục hậu quả sau chiến
tranh, bảo vệ quyền con người, phổ biến vũ khí và vũ khí hóa học, v.v. Xét từ
quan điểm lịch sử, rõ ràng là con người đang trong quá trình tiến hóa nhưng có
vẻ như các quốc gia giàu có cố gắng đẩy lùi tiến trình này theo hướng ngược lại
và kết quả chắc chắn là sự hủy diệt hàng loạt.
Thay đổi tư tưởng và
xác định các vấn đề cơ bản
Trên
quan điểm Phật giáo, nếu không giải quyết được các vấn đề căn bản của nhân loại
thì không thể có được hòa bình trên trái đất.
Khi cần phải kiến tạo hòa bình thì việc duy trì một mối quan hệ tốt đẹp giữa
các nhóm dân tộc thiểu số khác nhau hay việc tạo ra một sự thống nhất trong đa
dạng giữa các tôn giáo, nền văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau chỉ
có thể thực hiện được khi có sự thay đổi về tư tưởng.
Sự thay đổi tư tưởng cần nói đến ở đây là sự tôn trọng những khác biệt về văn
hóa, chính trị, sắc tộc tại các quốc gia khác hay giữa các quốc gia với nhau. Một
thực tế quan trọng khác là thay vì kích động các dân tộc thiểu số về quyền của
họ, về sự bất công, về việc phân giới cắm mốc, v.v., các biện pháp khắc phục hậu
quả cần được tiến hành thông qua việc nâng cao năng lực cho họ, hoặc tiến hành các
đóng góp trên nhiều phương diện khác nhau nhằm giúp họ tham gia vào các công việc
quốc gia.
Trên phương diện này, khái niệm hiện đại về thế giới là ngôi làng chung trở nên
rất quan trọng cho dù khái niệm này đã từng được sử dụng cho các mục đích khác.
Một
điều quan trọng khác là các cơ quan quản lý nên có một thái độ cởi mở hơn về việc
này. Họ chính là những người cần phải thể hiện sự thay đổi quyết liệt bằng cách
xây dựng những luật lệ khiến không cho thế lực nào có thể đưa ra được những quyết
định cực đoan, và định kiến chống lại người khác.
Một trong những những vấn đề thách thức mà thế giới hiện đại đang phải đối mặt
là chủ nghĩa cực đoan về tôn giáo, văn hóa, kinh tế chính trị đang được thực
thi bởi các chế độ, các nhóm dân tộc thiểu số và một số các quốc gia giàu có
trên thế giới. Điều này đã dẫn đến việc hình thành các tư tưởng chia rẽ, xung đột,
sử dụng bạo lực giữa những người dân bình thường, tạo ra nguy cơ đe dọa cho sự
cùng tồn tại và hòa hợp giữa mọi người trong xã hội. Có một thực tế rõ ràng rằng
việc sử dụng chiến tranh để mang lại hòa bình cho những nơi mà ít nhất mà đã từng
có hòa bình ở một mức độ nào đó giờ đây đã trở thành một chuyện bình thường được
chấp nhận.
Bản chất của hòa bình
theo quan điểm Phật giáo
Nếu
một quốc gia có những vấn đề về nội bộ liên quan đến việc vi phạm nhân quyền
hay nội chiến, quan điểm của nhà Phật
là các quốc gia khác có thể tạo ra những nền tảng cần thiết trợ giúp cho việc
thay đổi tư tưởng hay cách nhìn nhận về việc này từ cấp cao nhất cho đến cấp thấp
nhất. Phật giáo kịch liệt lên án những can thiệp ngoại giao mang tính chất dối
trá, thiên lệch nghiêng hẳn về một phía, làm gia tăng tình trạng bạo lực và rối
loạn xã hội khiến các thế lực khác có thể lợi dụng các tình huống thảm khốc này
để gây ra thêm hậu quả nặng nề với cái giá phải trả là sinh mạng của rất nhiều
người.
Quan điểm Phật giáo cho rằng sau khi tạo ra một chốn hoang tàn đổ nát, người ta
không thể gọi đó là hòa bình được, bởi vì hòa bình được định nghĩa là không có
sự bất hòa trong
bối cảnh có sự khác biệt về văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội. Do đó, bản
chất của sự hòa hợp và hòa bình không có gì khác hơn là sự đồng tồn tại của những
sự khác biệt. Quan điểm thông thường cho rằng hòa bình đạt được bằng cách đánh
bại một đối thủ là hoàn toàn trái với quan điểm nhà Phật bởi vì Phật giáo luôn
nhấn mạnh rằng không có ai thực sự là kẻ chiến thắng trong chiến tranh.
Triết lý căn bản của Phật giáo là không thể dùng hận thù để diệt hận thù.
Điều nhân loại đã chứng kiến trong kỷ nguyên hiện đại là sau khi hận thù và bạo
lực đã được tạo ra ở một số nước nhân danh cái gọi là hòa bình bởi các quốc gia
giàu có, thì chính hòa bình và đời sống hòa hợp ở những quốc gia đó đã trở
thành một điều không tưởng.
Tạo
ra sự bình đẳng giữa mọi người ở các giai tầng khác nhau trong xã hội là điều
hoàn toàn có thể thực hiện được nhờ sự thay đổi trong cách suy nghĩ.
Bình đẳng không có nghĩa là tất cả mọi người đều có một vị trí như nhau và hưởng
mọi thứ giống nhau. Bình đẳng là sự thay đổi thái độ của những người đang nắm
giữ quyền lực, và thế lực kinh tế.
Sẽ là vô nghĩa khi thuyết giảng cho những người dân thường về tầm quan trọng của
hòa bình, hòa hợp và sự bình đẳng trong khi giới giàu có và quyền lực trong xã
hội lại đang ấp ủ những âm mưu và động cơ đen tối thông qua các chương trình
nghị sự nào đó.
Mặc
dù sự thật là ở một số chế độ có những vấn đề về vi phạm nhân quyền, bạo lực, áp
chế tự do ngôn luận, v.v., nhưng các giải pháp đúng đắn không được đưa ra để đối
phó với các vấn đề như vậy, thay vào đó, toàn bộ nền văn hóa, chính trị và kinh
tế xã hội của các quốc gia đã bị tổn hại nặng nề dưới chiêu bài hòa bình.
Theo
triết lý nhà Phật, sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội có thể đạt được nếu
tính đạo đức và sự tôn trọng công lý trong việc đưa ra và thực thi các quyết định
được đề cao theo tinh thần giáo pháp nhà Phật. Tất cả điều này cần phải được thực
hiện vì lợi ích chung của cộng đồng dân cư sống tại quốc gia đó, và người ngoài
được quyền đóng góp, song không được can thiệp quá mức vào các vấn đề nội bộ của
quốc gia. Các cuộc xung đột nội bộ hỗn loạn ở một số nước đã cho thấy rằng sự
can thiệp trực tiếp với động cơ và mục tiêu đầy mưu đồ đã đẩy đất nước đó dấn
sâu hơn vào tình trạng bất ổn chính trị và bạo lực lan tràn.
Giáo pháp nhà Phật về Thập thiện và Bảy điều kiện tạo ra hạnh phúc đã xác định
các biện pháp kinh tế, xã hội, luật pháp và đạo đức cần được thực thi để dẫn dắt
một đất nước tới hòa bình và hòa hợp.
Mặt khác, các bản kinh như kinh Cửu-la-đàn-đầu,
Chuyển luân vương, Madhura, v.v. cho thấy rõ các biện pháp
cần phải được thực hiện để duy trì luật pháp và trật tự trong một đất nước bị
tàn phá bởi nghèo đói và bạo lực. Trách nhiệm chính trị, kinh tế và xã hội được
nhấn mạnh trong nhiều bản kinh Pāli và kinh Bổn
sinh (Jataka). Tầm quan trọng của việc hòa giải giữa các nhóm mâu thuẫn và
chia rẽ đã được đề cao trong kinh Yodhajiva
(Người dũng sĩ) thuộc Tương ưng bộ
(Samyutta-nikāya).
Kết luận
Theo
học thuyết về chính trị của nhà Phật, các bước cần thực hiện để làm nhụt chí
các thế lực hiếu chiến ở một quốc gia để có thể duy trì được một môi trường hòa
bình và hòa hợp cần phải mang tính đa dạng và tương hỗ lẫn nhau xét trên cả mặt
lý thuyết và thực tiễn.
Những
biện pháp này sẽ dẫn đến những thay đổi nơi thái độ của con người trong khi nhận
thức xã hội của họ trở nên sâu rộng hơn.
Từ
đó, sự thay đổi thái độ dần dần sẽ diễn ra, tạo nên các nền tảng cốt lõi để xây
đắp nền hòa bình bền vững cho một đất nước. Như vậy, có thể kết luận rằng các yếu
tố:
-
Tôn trọng đạo đức
-
Thay đổi thái độ,
-
Mở rộng nhận thức xã hội, và
-
Xây dựng lý tưởng cao đẹp hơn
là
những yếu tố căn bản được tìm thấy trong giáo lý Phật giáo trên cả phương diệnlý
thuyết và thực tiễn. Để đạt được các mục tiêu này, cần phải tôn trọng quyền tự
quyết, không lợi dụng lấy việc giải quyết mâu thuẫn, chia sẻ quyền lực để làm
sâu sắc hơn sự chia rẽ và xung đột, không ủng hộ việc xây dựng các giai cấp đặc
quyền trong một quốc gia để thực thi các chương trình nghị sự đầy mưu toan,
v.v., những nội dung cũng được coi là hết sức cốt lõi, được chấp nhận và đánh
giá cao trong giáo lý Phật giáo.
Về căn bản, nhìn chung, tư tưởng Phật giáo ủng hộ:
-
Sự an toàn thân thể (không bị bạo lực đe dọa để có được sự tiến bộ)
-
Xã hội bình yên (tôn trọng sự thống nhất trong đa dạng)
-
Trí tuệ minh mẫn (an ninh trong các vấn đề kinh tế, pháp luật và trật tự) và
-
Sự an lạc về tinh thần (tôn trọng thực hành tôn giáo và văn hóa).
Đây
là những nền tảng về hòa bình và hòa hợp đã đươc nhấn mạnh trong giáo pháp nhà
Phật. Trạng thái cao nhất của hòa bình chính là sự an lạc về tinh thần trong
khi sự bình an về thân thể là cơ sở để đạt được điều này. Thân thể bình an
chính là trạng thái không bệnh tật và không bạo lực. Mặt khác, sự an lạc về
tinh thần chính là một khía cạnh khác của hòa bình xác định khả năng của một
người trong việc phân biệt đúng sai và không thiên lệch. Do đó, người ta nên
tránh tất cả các loại hành vi gây hại đến sự gìn giữ cho tâm thái một trạng
thái bình tĩnh và yên ả.
Xã
hội bình an là khía cạnh thực tế nhất trong các khái niệm của Phật giáo về hòa
bình. Khái niệm này nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì trạng thái hòa hợp và
thân thiện trong xã hội và không cho phép bất kỳ loại bạo lực hay chiến tranh
nào xuất hiện giữa các phe phái khác nhau. Để đạt được và duy trì được sự hòa hợp
và thân thiện, cần có sự thống nhất về mục tiêu, ý tưởng, cảm xúc, v.v. Tinh thần
là yếu tố tốt nhất để định hướng những người dân thường đến một mục tiêu chung cao
cả nhất. Thách thức đối với hòa bình xuất hiện khi có sự cạnh tranh giữa con
người để tranh giành của cải, kho báu, các mối quan hệ và hạnh phúc.
Giáo
lý nhà Phật đề cao thái độ khách quan đối với hòa bình và hòa hợp so với các
phương pháp chủ quan mang đầy tính mưu đồ có khả năng làm cho tình hình chính
trị và bạo lực ở một quốc gia trở nên căng thẳng hơn. Bốn khía cạnh của hòa
bình dựa trên cơ sở khách quan sẽ không cho phép thực thi các biện pháp trừng
phạt chống lại một quốc gia vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến nhu cầu cơ bản của
con người như thực phẩm, y tế, nhà ở và các vấn đề khác. Theo giáo lý nhà Phật,
điều này được coi là một phương thức phi đạo đức và vô nhân tính mà chỉ những kẻ
thiếu văn minh mới tiến hành đối với người dân ở một quốc gia.
*
(B.A. M.A. M.Phil., PhD-Renmin), Giảng viên cao cấp, Khoa Ngôn ngữ Pāli & Phật
giáo, Đại học Kelaniya, Sri Lanka.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dhammadassi
Thero, naimbala, Phật pháp và thế giới hiện
đại, NXB.Turbo (Turbo publicity Service), Sri lanka, 2008
Elizaberth
J. Hariss., Bạo lực và bất ổn trong xã hội,
Hội Xuất bản Pháp Luân, Kandy, 1994.
Từ điển Bách khoa toàn
thư Phật học, trích dẫn số 3, Bộ các vấn đề Phật
giáo, Sri Lanka, 1995.
Tạp
chí Kinh Tế, Bộ Xuất bản Ngân hàng
Nhân dân, tháng 6-2011.
Karunarathne
W.S., Các luận trong Phật pháp, NXB.Samaranayaka,
Colombo, 1993.
Kelly
Siegel “Can thiệp của LHQ vào các cuộc nội chiến và việc phục hồi kinh tế hậu
khủng hoảng”, luận văn tốt nghiệp đại học.
Leon
Feer, Rhys Davids, Tương ưng bộ, tập
IV, Pāli Text Society, London, 1975, p.308.
Malalasekara,
G.P, Phát biểu của Chủ tịch Giáo hội nhân dịp Đại hội Phật giáo lần thứ 32, Dia’s
Printing Works, Ratnapura, 1952.
Narada
Thera, Kinh Pháp cú, Colombo, 1972.
Tenckner,
Robert Chalmers V., Trung bộ, tập II,
Pāli Text Society, Oxford.