Khái niệm Bồ-tát trong Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa
KHAI NIEM BO TAT
KHÁI NIỆM
BỒ-TÁT TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ ĐẠI THỪA
TN. Huyền
Minh
Khi nói đến
Phật giáo Đại thừa, chúng ta thường nghĩ đến tinh thần Bồ-tát đạo với những
phương tiện thiện xảo để làm lợi ích chúng sinh. Lý tưởng Bồ-tát được nói đến
rất nhiều trong các kinh Đại thừa, như Bát-nhã, Lăng-già, Hoa nghiêm, Pháp
hoa, Phạm võng…“Nhờ vào phương tiện thiện xảo mà Bồ-tát có thể hành động
tuy khác với giới luật hoặc nguyên tắc đạo đức được áp dụng khá khắt khe trong
đời sống của người xuất gia, nhưng hoàn toàn vì lợi ích cho người khác”.
Điều này được thể hiện rất rõ trong kinh Hoa nghiêm, qua hạnh nguyện
độ sinh của 54 vị thiện tri thức mà Thiện Tài đến cầu đạo. Đó là những hạnh
nguyện tiêu biểu trong vô lượng đại nguyện của Bồ-tát. Trong Phật giáo Đại thừa,
Bồ-tát không chỉ là người xuất gia mà bao gồm đủ các thành phần trong xã hội.
Tinh thần Bồ-tát đạo đã có từ thời Đức Phật còn tại thế, tuy vậy qua thời gian,
lý tưởng Bồ-tát đã có những thay đổi.
Sơ lược sự
phát triển của Phật giáo Đại thừa
Lịch sử Phật
giáo Ấn Độ trải qua ba thời kỳ: Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Bộ phái, và
Phật giáo Đại thừa. Giai đoạn Phật giáo Nguyên thủy được tính từ khi Đức Phật
thành đạo đến 100 năm sau Ngài nhập diệt, khoảng 530-370 tr.TL. Phật giáo Bộ
phái được tính từ khi Phật giáo bị phân phái cho đến khi Phật giáo Đại thừa xuất
hiện, khoảng 370 tr.TL - 150 TL. Phật giáo Đại thừa sinh khởi khoảng 50 năm
trước hoặc sau TL, tức sau Phật nhập diệt khoảng 400-500 năm.
Tuy nhiên, sự
phân chia này cũng chưa thống nhất. Học giả Akira Hirakawa (Bình Xuyên Chương
平川彰)
người Nhật Bản đã chia lịch sử Phật giáo Ấn Độ thành 5 thời kỳ: Phật giáo Nguyên
thủy, Phật giáo Bộ phái, Phật giáo Đại thừa sơ kỳ, Phật giáo Đại thừa hậu kỳ,
Phật giáo Mật tông.
Học giả Lữ Trưng
(吕徵)
phân
lịch sử Phật giáo Ấn Độ thành 7 thời kỳ: Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Bộ
phái, Đại thừa sơ kỳ, Phật giáo Tiểu thừa, Đại thừa trung kỳ, Đại thừa vãn kỳ,
và các thời kỳ khác. Hòa thượng Ấn Thuận thì phân thành 3 giai đoạn: Phật pháp,
Đại thừa Phật pháp, Đại thừa bí mật Phật pháp.
Sự phân chia này là theo cách riêng của ngài. Việc ngài dùng từ “Phật pháp” để
chỉ cho thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Bộ phái thì hơi khó hiểu và
dễ gây hiểu nhầm với ý nghĩa “Phật pháp” thường dùng. Còn cách chia của học giả
Lữ Trưng thì nhấn mạnh về sự phát triển của Phật giáo Đại thừa, ít chú trọng Mật
giáo, trong khi trên thực tế Mật giáo đã tồn tại và phát triển ở Ấn Độ cả mấy
trăm năm. Do đó, cách phân chia của học giả Akira Hirakawa tương đối hợp lý,
khách quan nên được phần lớn các học giả đồng tình.
Quá trình
hình thành Phật giáo Đại thừa diễn ra vô cùng phức tạp, có lẽ manh nha bắt nguồn
từ kỳ kết tập kinh điển lần thứ hai. Nguyên nhân phân chia bộ phái theo
Cullavagga 1 (Tiểu phẩm 1) là do nhóm Tỷ-kheo Bạt-kỳ (Vajji) ở
Tỳ-xá-ly (Vesālī) tự đề xướng và thực hành 10 việc (dasavatthūni)
bị cho là phi pháp đối với giới luật thời bấy giờ.
Tuy nhiên,
theo Dị bộ tông luân luận, Đại Tỳ-bà-sa luận và Luận sự
(Kathavatthu), nguyên nhân phân chia bộ phái là do “Thuyết La-hán ngũ sự”
(Năm việc về La-hán). Thời gian xảy ra “năm việc” và “tác giả của năm việc” cũng
có nhiều thuyết khác nhau. Trong Di bộ tông luân luận của ngài Thế Hữu có
đề cập đến hai thời điểm xảy ra năm việc: 1. Sau khi Phật nhập diệt hơn 100 năm,
2. Sau khi Phật nhập diệt 200 năm, nhưng không đề cập đến tác giả của năm việc.
Chỉ có Dị bộ tông luân luận của ngài Huyền Trang ghi: “Sau khi Phật nhập
diệt hơn 100 năm, trong Tăng đoàn xảy ra tranh cải ‘năm việc của Đại Thiên’, dẫn
đến phân chia thành hai phái Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ”. Như vậy, ngài Huyền
Trang đã xác định rõ năm việc là của Đại Thiên.
Qua hai
nguyên nhân phân chia bộ phái trên ta thấy, sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng
100 năm, Tăng đoàn phát triển lan rộng cả phía Trung và Tây Ấn Độ, số lượng Tăng
chúng ngày càng đông, do đó đời sống sinh hoạt và những nhu cầu thiết yếu cần
phục vụ cho đời sống Tăng đoàn dần dần thay đổi. Bên cạnh đó, những giải thích
khác nhau về giáo lý Đức Phật cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
phân chia bộ phái. Sau khi đã phân chia thành hai bộ phái, Thượng tọa bộ và Đại
chúng bộ về sau lại phân chia thêm thành 18 bộ phái, tổng cộng là 20 bộ phái.
Dị bộ tông luân luận nói rằng phái Nhất thiết hữu bộ (Hữu bộ) xuất thân từ
Theravāda nhưng có ảnh hưởng lớn trong sự hình thành tư tưởng Phật giáo Đại
thừa. Theo Kimura Taken: “Tư tưởng Đại thừa đã nảy mầm từ Nguyên thủy Phật
giáo nhưng mãi khoảng trước hay sau kỷ nguyên Tây lịch mới thật sự trở thành
phong trào rõ rệt. Tư tưởng Đại thừa đã phát khởi ở cả hai miền Nam và Bắc Ấn.
Nam Ấn đại biểu cho Không luận, Bắc Ấn đại biểu cho Hữu luận. Đến khi cả hai
trào lưu hợp lại thì cuộc vận động Đại thừa đã trở nên rõ rệt”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng Phật giáo Đại
thừa không phải hình thành để chống lại Phật giáo Nguyên thủy, mà là để đáp ứng
nhu cầu của thời đại, đồng thời còn để khôi phục lại những giá trị chân thật của
lời Phật dạy mà trong thời kỳ bộ phái đã lãng quên, như học giả Kimura Taiken đã
nhận định: “Ta có thể nói Đại thừa đứng trên lập trường thâm sâu để khôi
phục Phật giáo Nguyên thủy”.
Tư tưởng Phật giáo Đại thừa chú trọng đến Bồ-tát đạo bởi vì do nhu cầu của xã
hội: xã hội bấy giờ đang cần một tôn giáo vì lợi ích của con người, quan tâm sâu
sắc đến đời sống của họ, đồng hành cùng họ chứ không phải hình ảnh “thiền định
độc cư trong rừng” như trước. Bên cạnh đó, giáo lý Bồ-tát cho rằng muốn thành
Phật trước hết hành giả phải thực hành Bồ-tát hạnh cho đến khi viên mãn. Bồ-tát
lấy lý tưởng “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh” làm bản nguyện.
Trước hết là cầu Phật đạo để đạt đến giác ngộ giải thoát. Sau đó là phát nguyện
đem sự giải thoát ấy để cứu độ tất cả chúng sinh. Hai nguyện lực này không
thể tách rời nhau. Bởi thế quan điểm của Đức Phật về độ tha có nói rõ rằng tự
mình giác ngộ rồi mới có thể làm cho người khác giác ngộ, tự mình ra khỏi bùn
lầy mới có thể đưa người khác ra khỏi bùn lầy:
“Này Cunda, con người tự mình bị rơi vào bùn lầy, có thể kéo lên một người bị
rơi vào bùn lầy, sự tình ấy không thể xảy ra. Này Cunda, con người không tự mình
rơi vào bùn lầy, có thể kéo lên một người rơi vào bùn lầy, sự tình ấy có thể xảy
ra. Này Cunda, con người tự mình không được nhiếp phục, không được huấn luyện,
không được hoàn toàn giải thoát, tự mình có thể nhiếp phục, huấn luyện và hoàn
toàn giải thoát người khác, sự tình ấy không xảy ra. Một người được nhiếp phục,
được huấn luyện, được hoàn toàn giải thoát, tự mình có thể nhiếp phục, huấn
luyện, hoàn toàn giải thoát người khác, sự tình ấy xảy ra.”
Khái niệm
Bồ-tát trong Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa
Danh từ Bồ-tát (P: Bodhisatta, S: Bodhisattva,
C:
菩蕯)
được kết hợp bởi hai thành tố “bodhi” (trí tuệ, giác tuệ) và “satta” (gia công
hay chuyên cần để làm gì đó). Như vậy Bodhisatta được hiểu là sự gia công hay
chuyên cần để đạt đến trí tuệ.
Bộ Bách khoa tôn giáo
thì định nghĩa: “Theo từ nguyên học, Bodhisattva (Bồ-tát) là thuật ngữ
được ghép thành từ chữ Bodhi, với ý nghĩa là “sự giác ngộ hay chứng ngộ [của một
vị Phật], và sattva có nghĩa là “chúng sinh”. Như thế, Bodhisattva đề cập đến
hoặc một người đang mưu cầu giác ngộ (Bodhi) hoặc “một chúng sinh giác ngộ
(Bodhi being), nghĩa là chúng sinh ấy chắc chắn sẽ chứng đắc quả vị Phật”.
Lý tưởng Bồ-tát là một trong những nội dung quan trọng của Phật giáo Đại thừa.
Tuy nhiên, không phải Đại thừa mới có lý tưởng Bồ-tát mà lý tưởng này đã có từ
thời Đức Phật còn tại thế. Đức Phật đã dạy các đệ tử: “Này các Tỷ-kheo, hãy
lên đường thuyết pháp vì hạnh phúc, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người. Chớ có đi
hai người một chỗ…”
Như vậy, Đức Phật luôn khuyến khích các đệ tử thực hành Bồ-tát hạnh, vì lợi ích
của trời và người. Ngoài ra, lý tưởng Bồ-tát trong Phật giáo Nguyên thủy còn
được tìm thấy qua những câu chuyện trong
Jātaka
(Bổn sinh). Về sau, những tác phẩm như Phật sử (Buddhavaṃsa), Sở hạnh
tạng (Cariyapitaka), chú sớ Pāli và các bản kinh Đại thừa tiếp tục phát
triển khái niệm Bồ-tát.
Nhìn chung,
khái niệm Bồ-tát trong Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa có điểm tương đồng là
đều phát tâm làm lợi ích chúng sinh. Tuy nhiên, có một vài điểm khác biệt.
Bồ-tát trong Phật giáo Nguyên thủy là người chưa giác ngộ, chỉ là một người bình
thường đang tu tập, đang trên đường đi tìm sự giác ngộ:
“Này các Tỷ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi giác
ngộ, khi chưa chứng Chánh đẳng giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm
cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự
mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô
nhiễm.”
Trong kinh Trung bộ cũng có nhắc đến:
“Này vương tử, trước khi giác ngộ, thành bậc Chánh đẳng giác, khi còn là vị
Bồ-tát, Ta nghĩ như sau: Lạc được chứng đắc không phải do lạc, lạc được chứng
đắc do khổ…”
Cụm từ “trước khi giác ngộ, khi chưa chứng Chánh đẳng giác, khi còn là
Bồ-tát” cho thấy lúc Đức Phật chưa chứng đạo, còn là Bồ-tát, Ngài là một
người phàm chưa giác ngộ. Bồ-tát ở đây không mang ý nghĩa thần thánh, mà là con
người bằng xương bằng thịt. Như vậy, Bồ-tát ở thời kỳ đầu là hình ảnh con
người ở thế gian, đang nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị Phật.
Sang thời kỳ Phật giáo Đại thừa, hình ảnh Bồ-tát được thần thánh hóa, bắt nguồn
từ tư tưởng Đại chúng bộ: “Tất cả Bồ-tát không khởi dục tưởng, nhuế tưởng,
hại tưởng. Bồ-tát vì muốn làm lợi ích cho hữu tình, cho nên nguyện sinh vào cõi
dữ, tùy ý đến và đi.”
Bồ-tát ở giai đoạn này là một vị thánh đã đoạn tận tham, sân, si. Đặc biệt,
Bồ-tát sinh vào cõi đời là do hạnh nguyện, lòng từ bi muốn cứu độ chúng sinh chứ
không phải do nghiệp lực lôi kéo. Tuy nhiên, tư tưởng này không phải không có
mặt trong các kinh sơ kỳ. Kinh Tăng nhất A-hàm ghi rằng:“Bồ-tát từ cõi
trời Đâu-suất giáng thần vào trong thai mẹ. Bấy giờ đại địa chấn động. Đây là
nguyên nhân thứ hai làm cho đại địa chấn động. Lại nữa, Bồ-tát khi giáng thần ra
khỏi thai mẹ, bấy giờ trái đất cũng chấn động. Đây là nguyên nhân thứ ba làm cho
đại địa chấn động.”
Danh từ “Bồ-tát” trong các câu chuyện Tiền thân (Jātaka) của Phật giáo
Nguyên thủy là chỉ cho vị Bồ-tát tiền thân của Phật Thích-ca Mâu-ni. Trong nguồn
văn học này, không thấy nhắc đến các vị Bồ-tát khác. Còn Phật giáo Đại thừa miêu
tả có vô số Phật và Bồ-tát ở trên cõi trời Tusita.
Học giả Har
Dayal cho rằng, “Giới Phật giáo sáng tạo ra tầng lớp thánh thần
(Bồ-tát) chủ yếu qua việc nhân cách hóa một số thuộc tính và đức hạnh khác nhau
về nhân cách của Đức Phật Gotama. Họ lấy một vài cái tên có ý nghĩa (hình dung
từ) để áp dụng cho Đức Phật Sakyamuni, và biến chúng thành danh hiệu Bồ-tát. Như
vậy, Bồ-tát vay mượn sự hiện hữu và thuộc tính của họ từ sự kiện lịch sử trung
tâm về đời sống và hạnh nguyện của Đức Phật Gotama”.
Do đó, Phật giáo Đại thừa có các vị Bồ-tát như Bồ-tát Văn Thù (Manjusri)
nhân cách hóa của trí tuệ (prajnā), Bồ-tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara)
nhân cách hóa của từ bi (karunā), Bồ-tát Phổ Hiền (Samantabhadra)
nhân cách hóa của hạnh nguyện…
Theo quan điểm Đại thừa, một vị Bồ-tát muốn giáo hóa chúng sinh không nhất thiết
phải mang hình tướng xuất gia, mà Bồ-tát bao gồm đủ mọi thành phần trong xã hội
để thuận tiện trong việc thực hành Bồ-tát đạo. Đây cũng là ý nghĩa của phẩm Phổ
môn trong kinh Pháp hoa. Nếu chúng sinh đáng dùng thân Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… thì Bồ-tát hiện thân Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… để độ. Nói chung, nếu chúng sinh đáng dùng thân nào để độ
thì Bồ-tát thị hiện thân tương ứng để độ. Chúng ta sẽ thấy nghĩa này rõ hơn
trong
kinh Hoa nghiêm. Thế nên, điều kiện quan
trọng để Bồ-tát đi vào đời cứu độ chúng sinh là “trí tuệ Ba-la-mật” và “phương
tiện Ba-la-mật”, như kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật đa nói: “Này
Xá-lợi-phất, các vị Bồ-tát cần phải an trú Bát-nhã Ba-la-mật, lấy tâm vô trụ làm
phương tiện. Từ đó, năng trụ sở trụ không còn”. Ở đây Đức Phật dạy các vị
Bồ-tát phải an trú trong trí tuệ Ba-la-mật. Bồ-tát phải có trí tuệ Bát-nhã mới
đạt đến quả vị Phật. Trong Phật giáo Đại thừa, trí tuệ Bát-nhã rất được đề cao,
được xem là mẹ ba đời của chư Phật. Bồ-tát có trí tuệ mới biết cách vận dụng
phương tiện thiện xảo trong việc độ sinh. Phương tiện rốt ráo chính là vô trụ,
một tinh thần không chấp thủ, tùy duyên bất biến, làm nhưng không thấy mình làm,
tu nhưng không thấy mình tu mới thực sự là tu. Thông điệp này được phát triển
mạnh trong kinh Kim cang:
“Bồ-tát theo đúng pháp nên lấy tâm không chỗ trụ mà làm việc bố thí. Nghĩa là
chẳng nên trụ nơi hình sắc mà bố thí, chẳng nên trụ nơi âm thanh, hương thơm,
mùi vị, cảm xúc, pháp tướng mà bố thí. Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên bố thí như vậy đó,
không trụ nơi tướng”.
Đoạn kinh này chính là kim chỉ nam dành cho hàng Bồ-tát thực hành lục độ
Ba-la-mật với tinh thần vô trụ, vô chấp, không dính mắc một pháp nào để làm viên
mãn các Ba-la-mật, tiến đến quả vị Chánh đẳng giác. Đó cũng chính là lý tưởng
Bồ-tát trong Phật giáo Đại thừa.
Các Ba-la-mật
Một vị Bồ-tát
muốn thành tựu quả vị Phật phải nỗ lực kiên trì thực hành mười Ba-la-mật. Thuật
ngữ Ba-la-mật (P: pāramitā, C:
波羅密),
còn được gọi là Ba-la-mật-đa, Ba-la-mật-nhĩ-đa, dịch là cứu cánh, đáo bỉ ngạn,
độ vô cực, gọi tắt là Độ, là để chỉ đại hạnh Bồ-tát. Đại hạnh đó có thể tự tu
hành và giáo hóa người khác một cách rốt ráo nên gọi là sự cứu cánh; có thể từ
bờ sinh tử sang bờ Niết-bàn nên gọi là đáo bỉ ngạn.
Trong văn học Pāli và Sanskrit đều nói có 10 Ba-la-mật:
Mười
Ba-la-mật trong kinh tạng Pāli được rút ra từ các kinh như Bổn sinh
(Jātaka本生經),
Thí dụ (Apadāna,
譬喻經),
Phật sử (Buddhavaṁsa,
佛史),
và Sở hành tạng (Cariyā-piṭaka,
所行藏),
bao gồm: Bố thí Ba-la-mật (Dāna-pārami,
布施波羅),
Giới Ba-la-mật (Sīla-pārami,
持戒波羅密),
Nhẫn nhục Ba-la-mật ( Kṣānti-pārami, 忍辱波羅密),
Tinh tấn Ba-la-mật (Vīrya-pārami, 精進波羅密),
Xuất ly Ba-la-mật
(Nekkhamṁa-pārami, 出離波羅密),
Trí tuệ
Ba-la-mật (Paddā-pārami, 智慧波羅密),
Chân thật Ba-la-mật
(Sacca-pārami, 真實波羅密),
Nguyện
Ba-la-mật
(Adiṭṭhāna-pārami, 願波羅密),
Từ tâm Ba-la-mật
(Metta-pārami,悲心波羅密),
Xả
Ba-la-mật (Upekkhā-pārami, 捨波羅密).
Mười
Ba-la-mật trong văn học Sanskrit
được chia thành hai loại: Sáu Ba-la-mật chính: Bố thí Ba-la-mật (Dāna-pārami,
布施波羅密),
Trì giới Ba-la-mật (Sīla-pārami,
持戒波羅密),
Nhẫn nhục Ba-la-mật (Kṣānti-pārami,
忍辱波羅密),
Tinh tấn Ba-la-mật (Vīrya-pārami,
精進波羅密),
Thiền định Ba-la-mật (Dhyāna-pārami,
禪定波羅密),
Trí tuệ Ba-la-mật (Prajñā-pārami,
智慧波羅密).
Sáu Ba-la-mật này được nói đến trong các kinh như Thần thông Du hý
(Lalitavistara,
神通遊戲經),
Phật bản hạnh tập kinh dị bản (Mahāvastu,
佛本幸集經異本),
Bát thiên tụng Bát-nhã Ba-la-mật (Aṣṭasāhaśrikā Prajñā-pāramitā,
八千頌般若波羅密經),
Từ bi liên hoa (Karuṇāpuṇḍarīka,
慈悲蓮華經),
Đại thừa đại trang nghiêm (Mahāyāna-sūtrālaṅkāra,
大乘大莊嚴經),
Pháp số danh tập kinh dị bản (Dharma-saṅgraha,
法
數
名
集經異本),
Bồ-tát địa kinh (Bodhisattva-bhūmika Sūtra,
菩薩地經)…
Và bốn Ba-la-mật phụ: Phương tiện ba-la-mật (Upāya-pārami,
方便波羅密),
Nguyện ba-la-mật (Praṇidhāna-pārami,
願波羅密),
Lực ba-la-mật (Bala-pārami,
力波羅密),
Trí ba-la-mật (Jñāna-pārami,
智波羅密)
được rút ra từ các kinh như Danh nghĩa đại tập (Mahāvyutpatti,
名義大集經,
Đại
thừa đại trang nghiêm
(Mahāyāna-sūtrālaṅkāra,
大乘大莊嚴經),
Pháp số danh tập kinh dị bản (Dharma-saṅgraha,
法
數
名
集經異本),
Bồ-tát địa kinh (Bodhisattva-bhūmika Sūtra,
菩薩地經)…
Trong khi bốn
Ba-la-mật phụ trong văn học Pāli là: Nguyện ba-la-mật (Nekkhamma) thay
cho Thiền định ba-la-mật (Dhyāna), Chân thật ba-la-mật (Sacca)
thay Phương tiện ba-la-mật (Upāya/ Upāyakauśalya), Từ tâm ba-la-mật
(Metta) thay cho Lực ba-la-mật (Bala), Xả ba-la-mật (Upekkhā) thay
cho Trí ba-la-mật (Jñāna) trong văn học tiếng Phạn.
Hầu như các kinh Đại thừa đều nhấn mạnh sáu Ba-la-mật chính mà ít nhắc đến bốn
Ba-la-mật phụ. Do đó, chỉ còn lại sáu Ba-la-mật.