Như
chúng tôi đã
chứng minh
lịch sử Trung
Hoa thời cổ đại là
lịch sử của
đại tộc Việt vì
lịch sử
Trung Quốc
chỉ bắt đầu từ triều
Thương là
triều đại đầu
tiên của Tàu Hán sau
khi
tiêu diệt
nhà Hạ của
tộc Việt năm 1766
TDL như sách sử
Trung Quốc đã
ghi chép. Cuộc hội
thảo “Nguồn gốc của
nền
văn hóa Trung
Hoa” của các nhà
Trung Hoa học trên
toàn
thế giới kể
cả
Trung Quốc tổ
chức tại
đại học
Berkeley California
năm 1978 đã xác định
tộc người Di Việt là
tộc người đầu tiên
cư trú ở
trung nguyên
lãnh thổ TQ bây giờ.
Cổ sử Trung
Hoa chép rằng từ
thời cổ đại cho tới
Nhà Hạ vẫn
lấy ngày mồng một
tháng giêng là ngày
Tết của người Việt
cổ.
Nhà Hạ ăn tết
nhằm cung dần, dựa
theo nông lịch tức
tiết đầu xuân lúc
khởi đầu có sấm.
Trong
lễ hội dân
gian, người Việt cổ
xem trọng nhất là
Tết. Tết là phong
tục truyền
thống của người Việt
từ xa xưa
cho đến ngày
nay. Dân gian vẫn
thường
phân biệt là
Tết ta và Tết Tây
chứ không ai nói là
tết Tàu vì chỉ dân
tộc
Việt Nam mới
có chữ “TẾT” mà thôi,
Tàu Hán không có chữ
tết nên Tết là của
Việt Nam chứ
không phải của Tàu.
Thật vậy,
trong Kinh Lễ viết
Tế-Sạ # Tết mà
Khổng Tử,
người thầy muôn đời
của người
Trung Quốc đã
giải thích
với học trò:”Ta
không biết Tết là gì,
nghe
đâu đó là tên
của một ngày
lễ hội lớn
của bọn nguời Man,
họ nhảy múa như điên,
uống ruợu và
ăn chơi vào
những ngày đó, họ
gọi tên cho ngày đó
là “Tế-Sạ”. Điều này
chứng tỏ rằng
người
Trung Quốc
không có tết và Kinh
Lễ là của người Việt
cổ nên tên gọi tết
cổ của người Thái là
chi Âu Việt trong
Bách Việt cũng gọi
Tết là Thê-Sa. Trong
khi đó, chính sách
sử của
Trung Quốc
ghi rõ phong tục
tết Nguyên Đán
của người Việt trong
“Tùy Thư (Địa
Lý Chí) như
sau: “Năm nào đến ba
ngày
Tết Nguyên đán,
người ta cũng dọn cỗ
bàn linh đình
cúng tổ tiên…
“.
Các
công trình
nghiên cứu đã
tìm thấy hoa
văn trên mặt trống
đồng Ngọc Lũ là một
sơ đồ
Âm Lịch, với
những tháng đủ,
tháng thiếu, có đêm
trăng tròn, trăng
khuyết, hay không có
trăng, lại có cả năm
nhuận và chu kỳ 18
năm để tính tháng dư,
cũng như có những
chỉ vạch về 4 mùa
trong năm. Sử Trung
Hoa có ghi, vào đời
vua Nghiêu (
2356-2255 TCN) đã
biết
vị trí
nhị thập bát tú,
nhật nguyệt
ngũ tinh, đã
định năm là 365 ngày,
đã biết đặt tháng
nhuận nầy.
Sách
“Hoàng Đế
Ngũ Gia Lịch
(Tam thập tam quyển)”
chép: “Người Trung
Hoa tức
Hoa Hạ là
người Việt Cổ in
lịch trên sách và
lịch 365 ngày. Thiên
Can, Địa Chi tính
năm tháng ngày theo
chu kỳ
thập lục hoa
giáp. Người Giao Chỉ
khắc lịch vào mặt
trống đồng và tính
chu kỳ 18 năm và
những bội số của 18
ấy. Tỉ như 180 là
gồm 3 lần
lục thập hoa
giáp (180=3×60) .
Kết quả vẫn như nhau
vậy .
Đặc biệt,
người Việt cổ có một
sắp xếp ngày tháng
năm của quyển lịch
cho
tiện dụng
hàng vạn năm thì đã
thật là một sáng chế
rất
văn minh và
khoa học rất
hợp lý và
nhất là khi
chúng ta được
biết trong cùng
thời kỳ chưa
thấy một dân tộc nào
có một quyển lịch
hay như người Việt
cổ đã sáng chế (Âm
lịch hay
Dương lịch ).
Thật
vậy, sau khi tộc
Thương (Hán tộc)
đánh đuổi
Nhà Hạ (Việt
tộc) khỏi Hoa Bắc
thì Hán tộc chọn
ngày 1 tháng 12
âm lịch là
Tết Nguyên Đán,
đến triều Chu chọn
ngày 1 tháng 11
âm lịch,
triều Tần chọn ngày
1 tháng 10
âm lịch cho
cả
Trung Quốc.
Mãi đến thời
Hán Vũ Đế
chịu
ảnh hưởng của
văn hoá Bách Việt
phương Nam nên chọn
lại ngày 1 tháng
giêng là
Tết Nguyên Đán.
Ngày nay,
Trung Quốc
lại chọn ngày 1
tháng 1 Dương lịch
tức Tết Dương lịch
của
Tây phương
làm ngày Tết.
Thế
nhưng dân gian Hoa
Nam và Hoa Đông là
người
Trung Quốc
gốc Việt cổ vẫn “Ăn
Tết” vào ngày mồng 1
tháng giêng.
Truyền thống
ăn
Tết Nguyên Đán
ảnh hưởng lên
toàn thể dân
Trung Quốc
gốc Hán nên
thế giới
hiểu lầm cho
rằng ngày
Tết Nguyên Đán
là của người
Trung Quốc.
Ngày nay,
sự thật
lịch sử đã
được
phục hồi và
chúng ta,
những người
Việt Nam tự
hào
hãnh diện về
nền
văn minh Việt
cổ. Trong khi
Nhật Bản,
Trung Quốc đã
chọn ngày Tết Dương
Lịch, nhưng dân tộc
Việt Nam
trước sau như một
vẫn bảo
lưu truyền
thống “Nông lịch”
của người Việt cổ
lấy ngày mồng một
tháng giêng Âm lịch
là ngày
Tết Nguyên Đán
còn gọi là Tết Ta để
phân biệt với
Tết Dương lịch 1
tháng 1 Dương lịch
là Tết Tây.
TẾT NGUYÊN ĐÁN
LÀ GÌ?
Truyền thuyết
xa xưa kể lại rằng
Đế Chuyên Húc, ông
vua Việt cổ thời cổ
đại gọi tháng giêng
là NGUYÊN, gọi mồng
một là ĐÁN rồi ghép
lại là Nguyên Đán
tức mồng một tháng
giêng. Tầm nguyên
ngữ nghĩa của hai
chữ Nguyên Đán sẽ
cho ta thấy rõ hơn
ý nghĩa và
tầm quan trọng của
Tết Nguyên Đán.
Nguyên là mới bắt
đầu, Đán là một chữ
tượng hình, ở bên
trên là chữ nhật chỉ
mặt trời, bên
dưới là chữ nhất
thay cho mặt bằng
phẳng khiến
chúng ta
liên tưởng
mặt trời từ
từ lên cao,
tượng trưng
cho một ngày mới bắt
đầu. Nguyên Đán là
ngày đầu năm đầu
tháng giêng Âm lịch.
Do đó,
Tết Nguyên Đán
là ngày đầu tiên của
tiết đầu của một năm
mới.
Tiền nhân
chúng ta gửi
gấm
truyền thuyết
khởi nguyên dân tộc,
bức
thông điệp
hàng ngàn năm
lịch sử trong
những câu truyện
cổ tích.
Không phải
ngẫu nhiên mà
truyện
cổ tích về
đời vua Hùng thứ 8
sau khi nhờ Phù Đổng
Thiên Vương
“Cậu bé nhà Trời”
phá tan giặc Ân đã
chọn người con thứ 9
là Lang Liêu để
truyền ngôi.
Đặc biệt,
truyền thuyết
dưới dạng truyện
cổ tích
Việt Nam về
lễ Tết
lưu truyền
trong dân gian từ
bao đời nay
gắn liền với
ý niệm cha
Trời, mẹ Đất.
Ý niệm về Đất
Trời được
thể hiện qua
hình tượng
Bánh Chưng bánh dày
ngay từ thời vua
Hùng thứ tám (Sách
sử xưa viết là vua
Hùng thứ sáu vì
không kể Kinh Dương
Vương và Lạc
Long Quân,
chỉ tính từ vua Hùng
thứ nhất.
Thực ra phải
nói là vua Hùng thứ
tám mới đúng theo
quốc phổ ghi trong
Bách Việt Ngọc Phả
Truyền Thư và
phù hợp với
niên đại
lịch sử).
Đối với
người Việt, cái Tết
có một
ý nghĩa
đặc biệt
trong đời
sống. Thật vậy,
ngoài cái giờ phút
thiêng liêng
chuyển đổi
của đất trời qua
“Giao thừa” sang năm
mới,
mọi người
trong
gia đình mỗi
người đều mang một
tâm trạng riêng, nhớ
tới những người thân
đã khuất còn
hiển hiện
quanh đây, trong
không khí
ấm cúng của
gia đình đêm
ba mươi tết. Trên
bàn thờ với
đĩa
ngũ quả gồm 5
loại trái cây là
trái sung, trái mãng
cầu, trái dừa, đu
đủ, xoài nói lên
ước vọng tâm
tư dân dã miền Nam.
Cầu (mãng cầu) trời
khấn phật cho vừa
(dừa) đủ (đu đủ) xài
(Xoài). Người Việt
miền Bắc thì trong
đĩa
ngũ quả phải
có một chùm quả Sung
ước mong sự
sung túc cho
gia đình.
Bàn thờ
tiên tổ khói
hương
nghi ngút,
đan quyện
linh hồn
những người đã khuất
với kẻ còn sống dưới
mái ấm
gia đình đang
tưởng nhớ tới họ.
Tết nhất cũng là dịp
gia đình
đoàn tụ xum
vầy, cháu con dù đi
làm ăn xa đến đâu
nếu có
phương tiện
vẫn
trở về mái ấm
gia đình, để
hàn huyên tâm sự
chia xẻ những
khó khăn trong cuộc
sống.
Tại sao
dân gian thường nói
là “Mồng một tết
cha, mồng hai tết
mẹ, mồng ba tết
thầy”?
“Ý nghĩa
cao đẹp nhất của
ngày Tết
truyền thống
Việt là “Tạ Ơn”,
đạo lý làm
người của dân tộc
Việt Nam.
Thật vậy, Giờ phút
“Giao Thừa”
chuyển đổi từ
năm cũ sang năm mới,
dân gian
Việt Nam nhà
nào cũng bày một mâm
hoa quả trước
sân nhà để cúng Trời
Đất,
cảm tạ Trời
Đất đã ban sự sống
cho
con người,
cảm tạ ông bà
Tiên Tổ đã
sinh thành ra
mình để có được ngày
hôm nay nên dân gian
ở
Bắc Việt ngày
Tết
thường hành
hương về Đền Hùng để
tạ ơn trời
đất,
tạ ơn Quốc Tổ
Hùng Vương lập nước
Việt Nam.
Truyền thống
dân gian Việt là
“Mồng một tết cha,
mồng hai tết mẹ,
mồng ba tết thầy” đã
nói lên đạo hiếu của
bổn phận làm con và
truyền thống
“Tôn sư trọng đạo”
của người Việt. Ngày
mồng một tết, sau
khi chúc tuổi thọ
cha mẹ biểu
trưng
lòng biết ơn
cha mẹ đã
sinh thành
nuôi dưỡng
dạy dỗ nên người,
dân gian còn phải
đến chúc tết các bậc
trưởng thượng
trong
dòng họ rồi
chúc tết
bà con cô
bác, hàng xóm láng
giềng.
Dân gian
nói rằng “mùng 1 Tết
cha, mùng 2 Tết mẹ,
mùng 3 Tết thầy”
chính là
truyền thống
“Lễ Tết”, uống nước
nhớ nguồn,
công đức
sinh thành và
Tôn sư Trọng
đạo của dân gian tự
xa xưa.
Theo quan niệm
của ông cha ta, tết
“cha” có nghĩa “họ
hàng bên nội”. Do
đó, “mùng 1 Tết cha”
con cháu phải
mang theo
lễ vật để
biếu Tết các bậc
trưởng thượng
bên Nội nên
dân gian thường nói
đi tết hàm nghĩa là
biếu quà Tết. Tất cả
dòng họ đến
nhà
Từ Đường của
Trưởng Thượng
trong
dòng họ để
cúng bái
Tổ tiên và
chúc Tết ông bà,
cha mẹ để tỏ
lòng thành
kính. Trong giờ phút
trang nghiêm
này, ông nội thường
mặc quốc phục
áo dài khăn
đóng, cha thì mặc
âu phục (áo
vét)
chỉnh tề, ông
bà
cha mẹ ngồi
trong nhà. Con cháu
ăn mặc
đẹp đẽ tươm
tất để tỏ
lòng thành
kính, đứng khoanh
tay chúc Tết Ông bà
rồi
cha mẹ. Ông
bà
cha mẹ cũng
chúc con cháu
ngoan ngoãn,
học giỏi và “mừng
tuổi” trong Nam gọi
là “Lì xì” cho con
cháu mong con cháu
có “lộc” ngày đầu
năm và cả năm tài
lộc
sung túc.
Sau
những
nghi thức vừa
trang trọng vừa đầm
ấm trên, cả
gia đình sẽ
cùng nhau “ăn Tết”.
Mâm cỗ ngày Tết
thường rất
thịnh soạn,
bao giờ cũng có đầy
đủ các món
ăn ngon nhất
trong năm, đại
gia đình các
cụ thì nhâm nhi chai
rượu tết rồi khề khà
ngâm vịnh: “
Nén hương khói toả
thờ
Tiên Tổ, Chén
rượu ngâm nga chúc
Chúa Xuân …!”, con
cháu thì vừa ăn vừa
trò chuyện
vui vẻ. Ngày
tết đại
gia đình đoàn
viên dù làm ăn ở đâu
xa cũng tìm mọi cách
trở về nhà
vui ba ngày tết nên
dân gian mới có
thành ngữ
“Vui như Tết”…
Truyền thống
Lễ Tết Tết ngày đầu
xuân bao giờ cũng để
lại
ấn tượng sâu
đậm trong tâm khảm
nên
chúng ta ai
ai cũng nhớ về
tuổi thơ nồng
ấm khó quên mỗi dịp
Xuân về… Sau khi
cúng
gia tiên, ăn
Tết ở nhà bậc
trưởng thượng
(đầu họ) xong,
họ hàng sẽ rủ
nhau đi chúc Tết
anh em họ
hàng
thân thiết
bên nội, đến
từng nhà chú bác để
trò chuyện
vui vẻ và
chúc nhau có đầy
đủ sức khỏe,
năm mới
an lành,
hạnh phúc, an
khang
thịnh vượng.
Sang đến
ngày mùng 2 Tết,
theo
thông lệ, vợ
chồng con cái sẽ đi
chúc Tết bên nhà
ngoại.
Truyền thống
“Tết mẹ” cũng trang
trọng và
thành kính
tràn đầy “mẫu tử
tình thâm”. Con cháu
chúc Tết ông bà và
lại được nhận tiền
“Mừng tuổi” trong
bao “lì xì” màu đỏ
chói
tượng trưng
cho
may mắn, hên
suốt năm.
Ngày
mùng 3 Tết,
truyền thống
xa xưa của dân tộc
“Tôn Sư Trọng Đạo”,
ăn quả nhớ người
trồng cây nhớ thầy
cô đã dạy dỗ mình
nên người,
học hành
thành đạt
dược như ngày nay.
Ngày nay, giới trẻ
thường rủ nhau đến
chúc Tết thầy cô
giáo. Đây vừa là dịp
thăm hỏi, tỏ
lòng biết ơn
thầy cô vừa là thời
điểm để bạn bè có cơ
hội gặp gỡ, chúc
nhau gặp nhiều điều
may trong những ngày
Tết đến, xuân về.
Tham khảo các
sách viết về phong
tục của dân tộc Việt
như sách “Nam âm Sự
loại”, sách Hán Nôm,
do Vũ
Công Thành
soạn và đề tựa vào
năm 1925 chỉ ghi
Mồng một Tết cha,
mồng ba Tết thầy,
chứ không có đoạn
mồng hai Tết mẹ.
Sách khảo cứu lễ
tiết về dịp
Tết Nguyên đán
của các cụ Phan Kế
Bính, Toan Ánh, Nhất
Thanh cũng không nói
chuyện Tết mẹ, hay
Tết
bên ngoại như
thế nào.
Phan Kế
Bính là nhà Nho đỗ
cử nhân Hán
học năm 1906, vừa là
nhà báo thuở
giao thời
giữa cựu học và tân
học trong Phong Tục
Việt Nam
ấn hành năm
1915 đã viết “ Sáng
mồng một thì làm cỗ
cúng gia tiên… Cúng
xong thì con cháu ra
mừng tuổi ông
bà
cha mẹ, lạy
hai lạy. Ông bà
cha mẹ mừng
cho con cháu mỗi đứa
một vài xu hoặc một
vài hào gọi là tiền
mừng tuổi.
Cúng
gia tiên thì
phải cúng ở nhà cha
bên nội, theo
phong tục xưa. Đó
đích thị là mồng một
Tết cha vậy”. Theo
quan điểm của
chúng tôi thì
đây là
quan điểm
Nho giáo
“Trong Nam khinh Nữ”
nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô
lỗi thời cùa
Nho giáo xa
xưa.
Ngày xưa nho
sinh thi cử đỗ đạt
thì ra làm quan cho
triều đình, nho sinh
nào thi rớt thì về
làng làm “ Thầy đồ”
dạy cho trẻ em trong
làng. Thời đó chỉ có
một số trường do
triều đình tổ chức ở
kinh thành, tại các
thôn làng địa phương
chưa có các trường
công lập như bây giờ
nên “Thầy Đồ” không
có lương bổng mà
sinh sống nhờ
gia đình các
con em học trò
chu cấp
tùy theo
hoàn cảnh
gia đình. Con
em muốn đến học thày
đồ thì
gia đình sắm
lễ vật “Nhập
môn” đem đến nhà
Thày dâng Lễ để xin
làm
môn đệ. Học
trò quỳ lạy thầy hai
lạy, Thày chọ ngày
“Tế Thánh” rồi mở
lớp học. Trong các
ngày lễ tết như
Tết Nguyên đán,
Tết
thanh minh,
Tết đoan dương,
Tết Trung thu,
mùa nào thức ấy,
hoặc cặp gà thúng
gạo, hoặc đường mứt
bánh trái, hoặc dăm
ba quan tiền đem đến
tết thầy.
Đạo lý thầy
trò
ngày xưa rất
trọng, học trò
kính trọng
Thầy như Cha. Nhà
thầy có việc hiếu hỉ,
thì trò trưởng tràng,
chăm lo như việc của
chính nhà mình. Khi
thầy
quy tiên, học
trò cũng để tang ba
năm, nhưng là “Tâm
Tang” nên không phải
mặc tang phục nhưng
tang chế đầy đủ.
Sở dĩ trước
các nhà nho viết là
“Mồng một tết cha,
mồng ba tết thầy” là
chịu
ảnh hưởng chế
độ gia trưởng của
Nho giáo và
cũng theo vần điệu
“Cha), mồng “Ba”…
cho dễ
nhập tâm.
Trái lại, dân
gian Việt nói “Mồng
một tết cha, mồng
hai tết mẹ, mồng ba
tết thầy” chính để
nói lên
quan niệm “Tứ
thân phụ mẫu”,
kính
bên nội,
trọng
bên ngoại như
nhau để
chống lại
quan điểm
trong nam khinh nữ,
quan điểm
“Quân, Sư, Phụ” đặt
nhà vua trên hết, để
thày trên cả
cha mẹ của
Nho giáo
cổ hủ lỗi
thời…Tóm lại, câu
nói dân gian “Mồng
một tết Cha, mồng
hai tết Mẹ, mồng ba
tết Thầy”
thể hiện
truyền thống
cao đẹp của một dân
tộc có gần năm ngàn
năm
văn hiến đã
nói lên
đạo lý “Uống
nước Nhớ nguồn”,
lòng
kính trọng và
biết ơn
công đức
sinh thành
dưỡng dục của
cha mẹ,
kính trọng và
biết ơn
công lao Dạy
dỗ của thầy cô trong
dịp Tết
cổ truyền của
dân tộc Việt từ xa
xưa mãi đến muôn
đời sau.