SUY 
		NGHĨ VỀ TIẾP BIẾN VĂN HÓA PHẬT GIÁO THỜI LÝ - TRẦN
		
		Võ Văn Thành
		 
		
		Tiếp biến văn hóa là một vấn đề thú vị 
		trong các nền văn hóa thể hiện sự tương tác với một hoặc nhiều nền văn 
		hóa khác dẫn đến biến đổi mô thức văn hóa của chính mình (văn 
		hóa đích) cũng như là nền
		văn hóa nguồn1 
		trong quá trình tương tác, tiếp xúc lâu dài. 
		
		Bài viết này, chúng tôi tìm hiểu tiếp biến 
		văn hóa giữa Phật giáo (phần nào đó đại diện cho văn hóa Ấn Độ) và Việt 
		Nam. Đề cập đến những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan làm cho 
		Phật giáo phát triển mạnh và thậm chí được xem là “nơi bảo vệ ý thức dân 
		tộc, chống sự đồng hóa về văn hóa” như Phan Ngọc đã phát biểu trong công 
		trình Bản sắc văn hóa 
		Việt Nam. Tìm hiểu về Phật giáo Thiền phát triển mạnh trong thời 
		kỳ Bắc thuộc, thậm chí đến các thế kỷ X - XIV được xem như dòng tư tưởng 
		chủ lưu (dưới thời Lý - Trần).
		
			
				- 
				
				
				Một vài quan điểm về tiếp biến văn hóa
				 
			
		
		
		Có nhiều quan điểm học thuật về
		tiếp biến văn hóa, 
		chúng tôi lựa chọn một số quan điểm của các nhà nghiên cứu văn hóa tiêu 
		biểu (mà chúng tôi tiếp cận được) đề cập đến vấn đề này để làm cơ sở 
		trình bày tiếp biến văn hóa Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc và thời kỳ 
		độc lập, tự chủ Lý - Trần. 
		
		Năm 1935, ba nhà khoa học Mỹ là R. Linton, 
		R. Redfield, và M.J. Herskovit đã tham gia vào quá trình nghiên cứu và 
		một năm sau (1936) họ đưa ra định nghĩa tiếp biến văn hóa: “Tiếp biến 
		văn hóa được hiểu là các hiện tượng khi các nhóm cá nhân thuộc các nền 
		văn hóa khác nhau tiếp xúc liên tục với nhau với kết quả là sự thay đổi 
		mô thức văn hóa ban đầu của một hoặc cả hai nhóm” [Nguyễn Văn Hiệu 2017: 
		Bài giảng Nghiên cứu 
		văn hóa Việt Nam từ góc nhìn xuyên văn hóa, lớp Nghiên cứu sinh 
		Văn hóa học, K10/2017]2.
		
		Nhà nghiên cứu văn hóa nhân loại A.L. 
		Kroeber (1876 - 1960) cho rằng “Tiếp biến văn hóa bao gồm những biến đổi 
		sản sinh ra trong một nền văn hóa do ảnh hưởng của một nền văn hóa khác, 
		kết quả dẫn đến là sự tương đồng của hai nền văn hóa đó gia tăng. Ảnh 
		hưởng có thể là tương hỗ hoặc là lấn át một chiều. Sự đồng hóa đem lại 
		có thể tiến hành cho đến khi một nền văn hóa bị triệt tiêu bởi sự hấp 
		thụ nền văn hóa kia, hoặc những nhân tố khác có thể can thiệp để làm cân 
		bằng sự đồng hóa và giữ cho hai nền văn hóa đó tồn tại riêng biệt. 
		Thường thì quá trình tiếp biến đó có xu hướng thực hiện dần dần từng 
		bước mà không đột ngột, trong khoảng thời gian dài của lịch sử”3.
		
		The Columbia 
		Encyclopedia: “Tiếp biến văn hóa là 
		sự biến đổi do kết quả của sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa khác nhau 
		qua thời gian. Tiếp xúc có thể đem lại những hệ quả rõ rệt, như việc một 
		nền văn hóa này vay mượn một số nét từ một nền văn hóa khác, hoặc là sự 
		dung hợp tương đối của các nền văn hóa riêng rẽ”4.
		
		Theo các tác giả công trình
		Tiếp biến và hội nhập 
		văn hóa ở Việt Nam (2016), hình thức tiếp biến văn hóa thường gặp 
		nhất là sự hỗn dung 
		văn hóa, lai tạo văn hóa (cultural syncretism, hybridization) ở 
		cung bậc trung gian, giữa hình thức đề kháng văn hóa và đồng hóa văn 
		hóa. Ở đây, không có độ chênh lịch sử, hiệu thế văn hóa quá lớn, do vậy 
		không xảy ra hiện tượng thâu hóa hoặc phản đối cực đoan trong quá trình 
		tiếp biến văn hóa. Đối tượng hỗn dung tồn tại như một lò luyện hợp văn 
		hóa (melting pot), lúc đầu pha trộn nhiều yếu tố văn hóa khác biệt nhau 
		như tiến hành một thao tác hỗn hợp. Sau dần, đối tượng hỗn dung đã bản 
		địa hóa những nhân tố ngoại sinh, tiến tới một kiểu phản ứng hóa học, 
		tạo ra một hợp chất mới, mang nhiều sắc thái và nguồn gốc, nhưng vẫn là 
		thành phẩm của riêng mình. Điều kiện để quá trình hỗn dung văn hóa được 
		thành công, là đối tượng phải có một bản sắc, bản lĩnh văn hóa mạnh 
		nhưng vẫn đậm chất khoan dung [Nguyễn Văn Kim 2016: 56].
		
		Một số quan điểm về tiếp 
		biến văn hóa nêu trên giúp chúng ta hiểu thêm về sự chọn lựa văn 
		hóa của người Việt thời kỳ độc lập, tự chủ Lý - Trần. Nếu không có tiếp 
		biến văn hóa với Trung Hoa và Ấn Độ, ắt hẳn văn hóa Việt Nam thời Lý - 
		Trần đã có diện mạo khác và có lẽ văn hóa Việt Nam ngày nay cũng khác 
		đi.
		
			
				- 
				
				
				Tiếp biến tư tưởng Phật giáo vào văn hóa Việt Nam
				 
			
		
		
		Trong thời kỳ đạo Phật mới du nhập vào 
		Việt Nam, tức là vào thời kỳ đầu Tây lịch, đạo lý vô thường của Phật 
		giáo có tác dụng tích cực là gây được trong các từng lớp nhân dân đông 
		đảo niềm tin thời kỳ đô hộ không thể nào kéo dài mãi, người Việt sẽ có 
		ngày được giải phóng và sống độc lập, tự do. Có thể là các Thiền sư Việt 
		Nam thời bấy giờ, trong các buổi thuyết pháp và giảng dạy đã biết nhen 
		nhúm trong dân chúng niềm tin và tư tưởng lạc quan đó. Hơn nữa, đạo Phật 
		với tư cách là một hệ tư tưởng không phải là tư tưởng từ Trung Hoa sang, 
		mà là từ Ấn Độ truyền vào ngang qua thương nhân và Tăng sĩ Ấn Độ bằng 
		con đường hòa bình nên được nhân dân Việt Nam chấp nhận và hoan nghênh. 
		Đó cũng là “phương 
		thuốc tốt đối trị bệnh tư tưởng đại Hán, du nhập vào nước ta cùng với 
		quân đội xâm lược và Khổng giáo” [Minh Chi 2003: 10]. Ngay khi du 
		nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã tỏ ra là một hệ tư tưởng thích hợp với 
		người Việt thời bấy giờ. Dù bất cứ du nhập vào nước nào, nhất là sau khi 
		trải qua một thời kỳ lâu dài, đều bản địa hóa, nghĩa là mang ít nhiều 
		sắc thái của nền văn hóa của nhân dân nước ấy, chịu ảnh hưởng ít hay 
		nhiều của hoàn cảnh địa lý - lịch sử nước ấy. Người Việt đã bản địa hóa 
		Phật giáo theo cách của người Việt, nếu theo cách diễn đạt của Phan Ngọc 
		thì đạo Phật cũng bị “khúc xạ” qua tâm thức của nhân dân Việt Nam, nhưng 
		đó là một sự chấp nhận cởi mở của người Việt đối với đạo Phật. Mỗi dân 
		tộc đều làm công việc bản địa hóa theo phong cách riêng của mình để rồi 
		văn hóa của chính họ lại mang một diện mạo mới. Không thể có một mô hình 
		chung cho tất cả các nước được. Nhưng dù bản địa hóa thế nào đi chăng 
		nữa thì Phật giáo dù là ở Việt Nam hay Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia 
		v.v… đều có những nét chung nhất để Phật giáo vẫn là Phật giáo. 
		
		
		Phan Ngọc trong công trình
		Bản sắc văn hóa Việt 
		Nam có những nhận xét về mối liên hệ giữa Phật giáo với sự hình 
		thành và thống nhất của các quốc gia Đông Nam Á trước đây: “Ở Đông Nam Á 
		tôn giáo đảm nhiệm vai trò này (ý thức hệ - VVT) và ở Đông Nam Á lục 
		địa, đó là Phật giáo. Tình hình Việt Nam cũng thế. Do đó, dưới thời Bắc 
		thuộc, chính Phật giáo là nền tảng của thống nhất dân tộc, và những ông 
		vua mở đầu cho sự thống nhất dân tộc ở Thái Lan, Myanmar, Lào, 
		Camphuchia cũng đồng thời là người đầu tiên lấy một hình thức nào đó của 
		Phật giáo làm thành quốc giáo. Trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại tộc 
		thống trị, chính sự chấp nhận Phật giáo là sự phản ứng lại chế độ cai 
		trị của ngoại tộc để chuẩn bị cho sự lật đổ chế độ thống trị” [Phan Ngọc 
		2002: 39]. 
		
		Luy Lâu trở thành trung tâm Phật giáo còn 
		trước cả Trung Quốc là vì người Việt tiếp thu đạo Phật là đạo của hòa 
		bình. Thiền uyển tập 
		anh có dẫn lời của Thiền sư Trí Không (Quốc sư Thông Biện) khi 
		đàm đạo với Thái hậu Linh Nhân đã dẫn lại lời của Đàm Thiên trả lời Tùy 
		Văn Đế rằng: “Xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật giáo vào 
		Trung Quốc chưa phổ cập đến Giang Đông mà xứ ấy đã xây ở Liên Lâu hơn 20 
		bảo tháp, độ được hơn 500 vị Tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ 
		ấy theo đạo Phật trước ta. Bấy giờ các vị sư Ma-ha-kỳ-vực, Khương Tăng 
		Hội, Chi-cương-lương, Mâu Bác đến ở đó truyền đạo” [Viện Triết học 1991: 
		32]. Đó chỉ là sự thuận tiện về mặt không gian địa lý đơn thuần. Còn lý 
		do chủ yếu là Đạo Phật đầu tiên đã truyền bá vào Việt Nam thông qua con 
		đường hòa bình tức là các nhà buôn và các nhà sư đến từ Ấn Độ, cho nên 
		nó không gặp phải trở lực nào của nền văn hóa bản địa. Ngược lại, nó còn 
		kết hợp với nền văn hóa bản địa lúc bấy giờ đang bị tư tưởng đại Hán 
		chèn ép, đồng hóa. Phật giáo trở thành tư tưởng đối trọng chống lại tư 
		tưởng Nho giáo phương Bắc. Lực đối trọng này về sau ngày càng phát huy 
		tác dụng, rồi ngay khi đất nước vừa dành được độc lập, đạo Phật có vị 
		trí quan trọng trong các triều đại như Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần. Những 
		nhà sư đức độ được các ông vua thời Lý phong là quốc sư như Khuông Việt 
		đại sư Ngô Chân Lưu. 
		
		Nói tóm lại, đạo Phật có những nét chung, 
		đồng cảm với người Việt bấy giờ. Nét chung đó chính là tính vị tha, vô 
		ngã, tính nhân bản của một hệ tư tưởng bất bạo động (non-violence). 
		Phật giáo thông cảm, củng cố và cổ võ cho tinh thần đấu tranh dành độc 
		lập, thoát khổ của nhân dân Việt Nam. Đạo lý về sự khổ của Phật giáo lúc 
		ấy phù hợp với hoàn cảnh bị áp bức của dân tộc Việt Nam. Phật giáo, tiêu 
		biểu là Thiền tông đã được truyền bá rộng rãi vào Việt Nam với một số 
		tông phái khác. Tuy rằng sau này người Việt thời Lý - Trần đã thấm nhuần 
		tư tưởng Phật giáo và lòng vị tha, vô ngã, nhưng cách chọn lựa trước sự 
		thử thách sống còn: độc lập hay nô lệ, làm chủ đất nước hay bị chà đạp 
		theo cách nói của người Việt đã tổng kết từ lâu đời “nước 
		mất thì nhà tan” thì sự chọn lựa bạo lực để đập tan âm mưu xâm 
		lược của kẻ thù là một sự chọn lựa sáng suốt. Kẻ thù đến, người Phật tử 
		không thể ngồi gõ mõ tụng kinh để cầu viện Phật hay Bồ-tát đến đuổi 
		chúng đi được. Nếu làm vậy chẳng khác nào vọng tưởng để rồi cuối cùng 
		phải chuốc lấy tai vạ bị đô hộ, để lại sự ô nhục ngàn đời trong sử sách. 
		Nói như câu nói thời danh của Hồ Chí Minh là “Nhân dân Việt Nam lăn vào 
		cái chết để tìm cái sống”. Cái tinh hoa của sự kết hợp giữa dân tộc và 
		Phật giáo là ở chỗ đó. Dươi thời Lý, Trần, Phật giáo ở đây chủ yếu là 
		Phật giáo Thiền, Phật giáo biện tâm theo cách nói của các vị vua Trần 
		Thái Tông, Trần Nhân Tông.
		
		Lời sau đây của nhà nghiên cứu Phan Ngọc 
		càng chứng tỏ vai trò của Phật giáo dưới thời Bắc thuộc với việc bảo tồn 
		ý thức hệ, chống đồng hóa của phương Bắc: “Phật 
		giáo Việt Nam là Phật giáo Tổ quốc luận. Dưới thời Bắc thuộc nó là nơi 
		bảo vệ ý thức dân tộc, chống sự đồng hóa về văn hóa” [Phan Ngọc 
		2002: 49]. Phật giáo vào Việt Nam, trở thành một bộ phận của dân tộc 
		Việt Nam, theo cách diễn đạt của học giả Minh Chi thì “Phật giáo hòa vào 
		dân tộc Việt Nam như nước với sữa đến nỗi không phân biệt được đâu là 
		nước và đâu là sữa nữa”5. 
		Cho nên, Phật giáo Việt Nam dưới góc độ nào đó cũng phục vụ cho dân tộc 
		Việt Nam. Phật giáo Việt Nam là “Phật 
		giáo Tổ quốc luận” [Phan Ngọc 2002: 49]. Thi sĩ cận đại Việt Nam 
		Hồ Dzếnh viết: “Trang sử Phật, Đồng thời trang sử Việt, Trải bao độ hưng 
		suy, Tuy có nguy mà chẳng mất”. Hay như câu thơ mộc mạc của sư Huyền 
		Không: “Mái chùa che chở hồn dân tộc, Nếp sống muôn đời của tổ tông”.
		
		Có thể nói rằng, Phật giáo thời Lý - Trần 
		đã vũ trang cho dân tộc Việt một lòng tự tin, tự cường vô hạn. “Tự thấy 
		mình có đầy đủ khả năng để thành Phật, không cần lên núi, lánh đời mà 
		tìm Phật, mà cần nhìn thẳng vào mình, nhìn thẳng vào nội tâm mình”6. 
		Ở góc độ nào đó, Khổng giáo cũng không giúp ích gì cho chính người Trung 
		Hoa trong các họa xâm lăng của người mà họ gọi là “man di mọi rợ” huống 
		hồ chi là người Việt, khi nó được truyền bá một cách có chủ ý, có lợi 
		cho họ. Ông cha ta ý thức rõ được điều này cho nên trong thời kỳ tranh 
		đấu giành độc lập, không hy vọng gì vào hệ tư tưởng Nho giáo Trung Hoa. 
		Hệ tư tưởng có thể đối trị lại nó (hệ tư tưởng Nho giáo) chính là Phật 
		giáo. Phật giáo không xem Trung Hoa là trung tâm của trời đất cho nên đã 
		an ủi được lòng tự ti, mặc cảm của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Hơn 
		nữa, đạo Phật còn vũ trang cho nhân dân ta một hệ tư tưởng mới khả dĩ 
		đối trị được tư tưởng đại Hán. Chính các cụ túc nho Việt Nam cũng phản 
		đối Nho giáo kịch liệt. Lời sau đây của cụ Phan Chu Trinh thể hiện rõ 
		quyết tâm đó “Bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc”, nghĩa là không 
		phế bỏ chữ Hán thì không đủ sức để cứu nước Nam. 
		
		Phật giáo Thiền thời Lý, Trần cho thấy sức 
		mạnh đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam của nó. Nhân dân đoàn kết xung quanh 
		ai? Hạt nhân đoàn kết đó là vua chúa và quan lại để có thể giáng trả 
		những đoàn chí tử vào quân thù. Ở Việt Nam, theo các cụ túc nho như Phan 
		Chu Trinh, Phan Bội Châu thì “chẳng khi nào Phật giáo gây ra sự hèn yếu 
		cả”.
		
		
		Phật giáo Thiền biện tâm - 
		một sự chọn lựa và vận 
		dụng sáng suốt của người Việt thời Lý - Trần
		
		Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của triều 
		Trần đồng thời cũng là vị Phật tử thuần thành, có kiến thức uyên bác về 
		nội điển (Phật học) và ngoại điển đi theo Phật giáo và xem Phật giáo là 
		không có chấp tướng. Trong 
		Khóa hư lục, 
		bài Phổ khuyết phát 
		Bồ-đề tâm, nhà vua nói rằng: “Không phân biệt là sống giữa đời 
		hay sống ẩn dật trong rừng, không phân biệt là tại gia hay xuất gia, 
		Tăng hay tục, chỉ cốt biện tâm. Vốn không phân biệt nam nữ, sao lại còn 
		chấp tướng…” [Nhiều tác giả 2003: 235].
		
		Những đại diện xuất sắc của thời Lý - Trần 
		đó là các ông vua Phật tử, Thiền sư như Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, 
		Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ và 
		nhiều Thiền sư khác. Phật giáo Thiền thời Lý - Trần là kết tinh của các 
		thành tố nội sinh của dân tộc Việt, đó là ý thức phản khán nạn xâm lăng 
		thường trực của người phương Bắc và triết lý Thiền tông. Các ngài đã có 
		những lựa chọn sáng suốt để đánh bại kẻ thù. 
		
		Học giả Minh Chi cho rằng cuộc kháng chiến 
		chống quân xâm lược Nguyên - Mông thành công rực rỡ của dân tộc Việt 
		theo ngoài những yếu tố góp phần cho thắng lợi chung trong cuộc kháng 
		chiến Nguyên - Mông đã được nói nhiều như
		yếu tố địa lý địa 
		hình, khí hậu đã làm giảm nhuệ khí quân xâm lược, tinh thần đoàn kết 
		toàn dân tộc v.v… còn có một nhân tố nữa góp phần vào thắng lợi 
		chung của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược đó là
		Phật giáo Thiền, 
		tức Thiền tông (Việt Nam) thời bấy giờ. Phật giáo như là hệ tư tưởng chủ 
		đạo và dân tộc Việt Nam như là người đã biết chủ động và sáng tạo, chọn 
		lọc trong hệ tư tưởng Phật giáo tất cả những gì là tinh hoa nhất, tích 
		cực nhất, phù hợp với tình hình Việt Nam. Nó là chất men hội tụ và xúc 
		tác, làm cho cả dân tộc Việt Nam triệu người như một, đứng dậy đánh tan 
		quân xâm lược. Phật giáo Lý - Trần là Phật giáo Thiền, Phật giáo
		biện tâm, rất 
		chú ý tới cuộc sống thực tại. Đạo Phật không quay lưng lại với cuộc sống 
		đời thường mà trái lại, nó quan tâm sâu sắc đến cuộc sống đời thường. 
		Phật giáo không chỉ quan tâm đến cuộc sống sau này, Niết-bàn mà chú 
		trọng đến từng giây phút ở hiện tại. Nó quan tâm đến tất cả các giai 
		đoạn sống - chết của con người. Quá khứ không thể can thiệp vào được 
		nữa, tương lai thì chưa đến, do đó cuộc sống hiện tại là quan trọng 
		nhất. Bốn câu cuối của bài phú nôm
		Cư trần lạc đạo 
		của nhà vua kiêm Thiền sư Trần Nhân Tông đã cho thấy tinh Phật giáo rất 
		phóng khoáng của Phật giáo đời Trần, một Phật giáo biện tâm: “Cư trần 
		lạc đạo thả tùy duyên, Cơ tắc san hề khốn tắc miên, Gia trung hữu bảo 
		hưu tầm mích, Đối cảnh vô tâm mặc vấn thiền?” (Ở đời vui sống hãy tùy 
		duyên, Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền, Trong nhà sẵn ngọc thôi tìm kiếm, 
		Lặng lòng đối cảnh hỏi chi Thiền!) [Minh Chi 2003: 167].
		
		Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng 
		suốt của các vị vua tin theo Phật giáo thuần thành như Trần Thái Tông, 
		Trần Thánh Tông và đặc biệt là Trần Nhân Tông đã đem lại một kỳ tích cho 
		nhân dân Đại Việt thời Trần. Đó là cống hiến của Phật giáo đời Trần góp 
		phần cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thắng lợi ba lần trước quân Mông 
		- Nguyên mà chúng ta không thể không nhắc tới.
		
		
		Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc và thời 
		đại độc lập, tự chủ Lý - Trần, nhân dân Việt Nam đã chọn và tiếp biến tư 
		tưởng Phật giáo chứ không phải Nho giáo để làm hệ tư tưởng chính thống. 
		Hệ tư tưởng Phật giáo trong bối cảnh đó thật sự cần thiết cho người Việt 
		thời Bắc thuộc và thời đại Lý - Trần, còn về sau này vì sao Nho giáo 
		được đề cao và trở thành quốc giáo lại là chuyện khác. “Hai triều đại 
		Lý, Trần đánh dấu đỉnh cao của sự hội nhập của Phật giáo vào nền văn hóa 
		Việt Nam nói riêng, vào đất nước và xã hội Việt Nam nói chung. Một sự 
		hội nhập không chỉ xảy ra trên bình diện văn hóa, mà trên nhiều bình 
		diện khác của đời sống xã hội” [Minh Chi 1988/2000: 244].
		
		Phan Ngọc gọi con người Việt Nam là con 
		người Tổ quốc 
		luận7, 
		nghĩa là dưới mắt họ, tổ quốc là lớn nhất. Mọi xung đột giai cấp, gia 
		đình, dòng họ đều phải dẹp bỏ khi tổ quốc bị lâm nguy. Phật giáo Việt 
		Nam cũng không thể làm khác được vì nó đã gắn bó vận mệnh của mình như 
		máu thịt với người Việt Nam. Cho nên khi tổ quốc bị lâm nguy thì mọi 
		người cùng đồng lòng ra sức đánh giặc cứu nước, và những bậc có trí tuệ 
		hơn người như các vị Thiền sư, Thầy, Tổ thì lại phải càng làm gương và 
		gánh lấy tránh nhiệm nhiều hơn. Và chúng ta cũng không lạ gì khi các 
		Thiền sư tên tuổi được phong làm “Quốc sư” tức là “thầy của vua”, của 
		nước có trách nhiệm hiến kế cho nhà vua và quần thần. Đó là một nét đẹp 
		trong Phật giáo Việt Nam thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần. 
		
		Về quan hệ và ảnh hưởng văn hóa theo 
		Nicolai Konrad, sức mạnh của các nền văn minh cổ này lớn đến nỗi tất cả 
		các dân tộc ở mức độ này hay mức độ khác đều rơi vào ảnh hưởng của chúng 
		là đương nhiên và “việc các dân tộc này xây dựng nền văn minh của mình 
		trên cơ sở sự tồn tại của văn minh cổ đại là hiện tượng chung của lịch 
		sử, các dân tộc trung thế kỷ ở cả phương Đông lẫn phương Tây” [dẫn lại 
		Nguyễn Văn Hiệu & Đinh Thị Dung 2017: 106]. Vấn đề nhân dân Việt Nam 
		tiếp thu những gì, loại bỏ những gì của đạo Phật từ Ấn Độ và Trung Hoa 
		du nhập vào là một chủ đề lớn, nó đòi hỏi một phương pháp nghiên cứu 
		liên ngành mà chúng tôi không có điều kiện để bàn ở đây. Có thể nói 
		rằng, Phật giáo trong giai đoạn này là rất phù hợp và cần thiết với dân 
		tộc Việt Nam. Vua Trần Nhân Tông tuy rằng đi tu nhưng lại rất quan tâm 
		đến tình hình chính trị, an ninh của đất nước. Lý do tại sao ông chọn 
		Yên Tử làm “căn cứ địa” cho Giáo hội Trúc Lâm, theo lời của sử gia Ngô 
		Thì Nhậm là vì “Từ trên đỉnh núi Yên Tử, Trần Nhân Tông có thể quan sát 
		được sự động tĩnh của các cánh quân xâm lăng từ phía Bắc xuống” [Nhiều 
		tác giả 2003: 136].
		
		TÀI LIỆU THAM KHẢO
		
			- 
			Hà Văn Tấn 1981: “Giao lưu văn hóa ở 
			người Việt cổ”, Tạp chí 
			Nghiên cứu Nghệ 
			thuật, 5/1981. 
			
 
			- 
			Itamar Even Zohar 2014: 
			Lý thuyết đa hệ 
			thống trong nghiên cứu văn hóa, văn chương 
			(Trần Hải Yến và Nguyễn Đào Nguyên 
			dịch), Nxb Thế Giới. 
			
 
			- 
			Minh Chi 1996: “Về sự hội nhập của 
			Phật giáo vào nền văn hóa Việt Nam”, đăng trong Tạp chí Giao Điểm số 
			01/1996. 
			
 
			- 
			Minh Chi 1998/2000: “Bàn về hội nhập 
			của Phật giáo vào nền văn hóa Việt Nam”, in trong 
			Kỷ yếu Hội thảo 
			quốc tế 
			Việt Nam học, 
			lần thứ I, Hà Nội, 15-17/7/1998, Nxb Thế giới, 2000, tr,239 - 245. 
			
 
			- 
			Minh Chi 2003: 
			Truyền thống Văn hóa & Phật giáo Việt Nam, 
			Nxb Tôn giáo. 
			
 
			- 
			Nguyễn Văn Hiệu & Đinh Thị Dung 2017:
			Văn hóa học 
			và một số vấn đề lịch sử, văn hóa, 
			Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM.  
			
 
			- 
			Nguyễn Văn Kim (cb) 2016: 
			Tiếp biến và hội 
			nhập văn hóa ở Việt Nam, Nxb 
			Đại học Quốc gia Hà Nội. 
			
 
			- 
			Nhiều tác giả 2003: 
			Thiền học đời Trần, Nxb Tôn 
			Giáo. 
			
 
			- 
			Phan Ngọc 2002: 
			Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb 
			Văn Học. 
			
 
			- 
			Thiền uyển tập anh 
			(Ngô Đức Thọ & Nguyễn Thúy Nga dịch & chú), Nxb Văn Học, 1993. 
			
 
			- 
			Viện Triết học 1991: 
			Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb 
			Khoa học Xã hội. 
 
		
		
		Thông tin tác 
		giả:
		
		(*) 
		ThS. Võ Văn Thành, Trung tâm nghiên cứu 
		Tôn giáo, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; SĐT: 0988866113, email:
		
		vonhanchi@gmail.com.
		 
		 
		1 Itamar Even Zohar 2014:
		Tlđd.
		2 Nguyên văn: “Acculturation 
		comprehends those phenomena
		which 
		result
		when 
		groups
		of 
		individuals having different cultures 
		come into continuous first-hand 
		contact, with
		subsequent changes in the 
		original 
		culture
		patterns of either
		or 
		both groups” [R. Linton, R. 
		Redfield, M.J. Herskovit (1936)].
		3 Dẫn 
		lại Nguyễn Văn Kim (cb) 2016: Tiếp biến 
		và hội nhập văn hóa ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 
		tr.45 - 46.
		4 Dẫn 
		lại Nguyễn Văn Kim (cb) 2016: Tlđd, 
		tr.46.
		5 Xem 
		thêm ý kiến của GS. Minh Chi trong “Về sự hội nhập của Phật giáo vào nền 
		văn hóa Việt Nam”, đăng trong Tạp chí Giao Điểm số 01/1996.
		
		6 Xem thêm Minh Chi:
		Phật giáo và phong 
		trào Khổng giáo cách tân cuối đời Đường và đời Tống tại Trung Quốc,
		đăng trên tuyển tập Giao Điểm (tập 2) “Phật giáo trong thế kỷ mới”, 
		Hoa Kỳ 1997, tr.15.
		7 Từ 
		của GS. Phan Ngọc dùng nhiều lần trong công trình
		Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb 
		Văn học, 2002.