Chùa Hàn Sơn
chua han son
Nguyễn
Đăng
Chùa Hàn Sơn (寒山寺) tọa lạc tại thị trấn
Phong Kiều (楓橋鎮), cách thành phố Tô
Châu (苏州市) 5km, thuộc tỉnh Giang
Tô, Trung Quốc. Chùa Hàn sơn vốn được gọi là Diệu Lợi Phổ Minh Tháp Viện (妙利普明塔院)và về sau mới đổi
thành tên gọi Hàn Sơn như ngày nay. Sự thay đổi tên gọi này liên quan đến hai vị
Tăng sĩ đời Đường là Hàn Sơn (寒山)
và Thập Đắc (拾得). Câu chuyện về hai vị
Tăng liên hệ với việc thay đổi tên gọi ngôi chùa này được kể như sau:
Vào triều hoàng đế Trinh Quán (貞觀627 - 648) đời Đường,
có hai thanh niên tên là Hàn Sơn và
Thập Đắc,
và họ là bằng hữu của nhau khi còn thiếu thời. Khi lớn lên, Hàn Sơn được cha mẹ
sắp xếp kết hôn với một cô gái trong vùng, tuy nhiên cô gái đó đã đem lòng yêu
Thập Đắc. Khi biết được sự tình này Hàn Sơn vô cùng đau khổ, nhưng rồi nỗi đau khổ
đãnhanh chóng qua đi. Sau đó Hàn Sơn viết một lá thư để lại cho Thập Đắc, nói rằng
ông muốn Thập Đắc kết hôn với cô gái kia và hãy sống hạnh phúc với nhau trọn đời.
Hàn Sơn sau đó đến Tô Châu xuất giađầu Phật. Sau nửa tháng không thấy bạn đâu,
Thập Đắc cảm thấy lo lắng nên đến nhà Hàn Sơn tìm bạn. Ở đó ông thấy lá thư của
Hàn Sơn để lại với nội dung khuyên ông nên kết hôn với cô gái kia. Thập Đắc vô
cùng buồn bã và rồi lên đường tìm đến Tô Châu để gặp Hàn Sơn. Ở đó hai người bạn
đã gặp lại nhau và Thập Đắc sau đó cũng xuất gia sống ở chùa Hàn Sơn cho đến hết
đời. Và kể từ đó tên cũ của ngôi chùa được đổi thành Hàn Sơn theo tên gọi của vị
trụ trì.
Hàn Sơn được xem là một trong mười
ngôi chùa nổi tiếng nhất của Trung Quốc. Chính sự nổi tiếng và vẻ đẹp của nó đã
thu hút nhiều du khách cũng như giới văn nhân đến đây chiêm bái và thưởng lãm,
trong đó có Trương Kế (张继)
– một thi nhân đời Đường, và ông đã để lại một bài thơ bất hủ cho đến ngày nay.
Phong kiều dạ bạc (枫桥夜泊) của ông là bài thơ
khá quen thuộc với nhiều người. Chính bài thơ này đã giúp cho tên tuổi của
Trương Kế nổi tiếng hơn, và cũng chính bài thơ này đã khiến cho nhiều người biết
đến chùa Hàn Sơn hơn.
Nguyệt
Lạc ô đề sương mãn thiên
Giang
phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô
Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền.
(Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn
San. - Tản Đà dịch).
Chùa Hàn sơn được xây dựng giữanăm 502-519
dưới thời nhà Lương (梁)
và được trùng tu nhiều lần trong những triều đại về sau. Giữa đời nhà Nguyên và
nhà Thanh, ngôi chùa bị phá hủy năm lần nhưng sau đó nó được sửa chữa trở lại.
Lần trùng tu gần nhất là vào năm 1906 và nó mang phong cách kiến trúc của triều
Thanh (1644-1911). Tổng thể kiến trúc bao gồm Đại hùng bảo điện, tòa kinh các,
tháp chuông, hoằng pháp đường v.v… Vào năm 1995, một ngôi tháp năm tầng được
xây dựng và được đặt tên là Phổ Minh (普明寶塔),
và nó trở thành một biểu tượng của quần thể này.
Trong Đại hùng bửu điện chùa Hàn
Sơn có một đĩnh đồng lớn, phía trước đĩnh đồng có khắc bốn chữ “Nhất bổn chánh
kinh” (一本正經) và phía sau là bốn chữ
“Bách luyện thành cương” (百煉成鋼).
Có một huyền thoại liên quan đến tám chữ viết này. Chuyện kể rằng những Tăng sĩ
Phật giáo và Đạo sĩ tranh luận với nhau là kinh của tôn giáo nào lửa không thể
thiêu cháy. Thế rồi những Tăng sĩ Phật giáo đã đặt kinh Kim cương vào trong lửa được đốt trong đĩnh đồng này nhưng quyển
kinh không hề bị cháy. Do đó người ta đã khắc tám chữ này lên đĩnh đồng để ghi
nhớ sự kiện này.
Giống như hầu hết mọi ngôi chùa
khác ở Trung Quốc, ở chùa Hàn Sơn có một Đại hùng bửu điện và một Tàng kinh các
(藏经楼). Nhưng có sự khác
nhau là ở Hàn Sơn không thờ tượng Bồ-tát Quan Âm mà thay vào đó là tượng của
Hàn Sơn và Thập Đắc. Phía Nam của Tàng kinh các có một tháp chuông, và ở đó
treo một quả chuông hình lục giác. Tuy nhiên, quả chuông nổi tiếng như được đề
cập trong bài thơ Phong kiều dạ bạccủa
Trương Kế đã không còn. Quả chuông hiện tại ở chùa được đúc vào năm 1904 phỏng
theo hình dạng quả chuông trước đó.
Trong Hoằng pháp đường (弘法堂) tôn trí những bức tượng
đồng của những nhân vật nổi tiếng Phật giáo như tượng ngài Huyền Trang, Giám
Chân (鑒真, một Tăng sĩ đời Đường,
từng đến thuyết pháp ở Nhật Bản) và Không Hải (một Tăng sĩ Nhật bản, đến Trung
Quốc học Phật vào thế kỷ IX. Ông từng viếng chùa Hàn Sơn khi sống ở Trung Quốc).
Ngoài ra còn có nhiều di tích khác được lưu trữ ở chùa
Hàn Sơn như phiến đá khắc bài thơ “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế, những bản
chữ viết của một vài tri thức Trung Quốc xưa v.v…
Hàn Sơn hiện vẫn là một ngôi chùa nổi
tiếng ở Trung Quốc với những sinh hoạt Phật giáo được tổ chức hàng năm tại đây.
Ngoài việc chiêm bái chùa Hàn Sơn khi đến Tô Châu, ta cũng có thể thưởng thức
những cảnh đẹp xung quanh Hàn Sơn như Phong Kiều, nơi thuyền của Trương Kế từng
neo đậu, và ở đó ta có thể cảm nhận được đời sống thường nhật của dân chúng ở
thị trấn Phong Kiều. Ta cũng có thể ngắm Đại Vận hà (大運河),
một con sông/kênh đào dài nhất thế giới (1.794km ) chảy từ Bắc Kinh đến Giang
Tô.