Chùa Jokhang – Trung tâm tôn giáo của Tây Tạng

chua

Chùa Jokhang – Trung tâm tôn giáo của Tây Tạng

Nguyễn Đăng

Chùa Jokhang (tiếng Tây Tạng: ཇོ་ཁང།; tiếng Trung Quốc: 大昭寺/Đại Chiêu tự) là một trung tâm tôn giáo nổi tiếng của Tây Tạng và cũng là một thánh tích thiêng liêng đối với tất cả những Phật tử ở xứ này. Nó thu hút vô số những người hành hương Tây Tạng và du khách nước ngoài mỗi năm. Tọa lạc tại trung tâm Lhasa, ngôi chùa này do vua Songtsen Gampo và hai người vợ của mình xây dựng vào thế kỷ thứ VII (647). Vua Songtsen Gampo (617-649) là vị vua đầu tiên của một đất nước Tây Tạng thống nhất. Người vợ trước của ông là công chúa Bhrikuti, em gái của một vị vua Nepal; còn người vợ thứ hai của ông là công chúa Wenchen, con gái của một vị hoàng đế Trung Quốc.

Ngôi chùa này từng được gọi là “Tsuklakang” (Tsulag Khang) mà nó có nghĩa là “Ngôi nhà của khoa học tôn giáo”, hay “Ngôi nhà trí tuệ” trong suốt thời kỳ Bon của Tây Tạng, mà nó đề cập đến các môn địa lý, chiêm tinh và bói toán của Bon. Ngày nay ngôi chùa nói chung được gọi là Jokhang, mà nó có nghĩa là “Ngôi nhà của Phật”.

Chùa Jokhang được xây dựng để thờ bực tượng Phật được mang từ Trung Quốc đến. Bức tượng này được công chúa Wencheng mang đến cho vua Songtsen Gampo như là một báu vật làm của hồi môn. Có những huyền thoại khác nhau giải thích về việc hình thành ngôi chùa. Trong đó có một huyền thoại kể rằng, hoàng hầu Bhrikuti đã cho xây dựng ngôi chùa đề thờ bức tượng, trong khi hoàng hậu Wengchen chọn địa điểm dựa trên những nguyên tắc phong thủy của người Trung Quốc. Nhưng một huyền thoại khác kể rằng, nhà vua đã ném chiếc nhẫn của mình vào trong không trung với ý định rằng nếu chiếc nhẫn rơi xuống nơi đâu thì xây dựng ngôi chùa ở đó. Chiếc nhẫn rơi vào trong một hồ nước và ở đó một ngôi tháp xuất hiện lên từ mặt nước. Sau đó, hồ nước này được lấp đầy bằng cát và đất do hàng ngàn con cừu trắng chuyên chở đến. Ngôi chùa được xây dựng kéo dài ba năm, và ban đầu nó được gọi là Rasa, có nghĩa là mảnh đất của cừu. Sau khi bức tượng Phật được thờ ở đó, ngôi chùa đổi tên thành là Jokhang, mà nó có nghĩa là ngôi nhà của Phật. Và thành phố nơi ngôi chùa tọa lạc được đặt tên là Lhasa, mà nó có nghĩa là “Đất Phật”.

Chùa Jokhang đã trải qua hai lần bị phá hủy trong những hành động chống Phật giáo xảy ra vào cuối thế kỷ VII và giữa thế kỷ IX. Trong suốt thời kỳ đó, chùa Jokhang đóng cửa và bức tượng Phật được chôn giấu dưới đất để tránh bị phá hủy. Sau đó nó trải qua những lần tái thiết khác nhau vào thời Nguyên, Minh và Thanh, và trở thành một công trình tôn giáo kỳ vĩ. Ngôi chùa về sau dần được mở rộng, và đã đạt được kiến trúc quy mô dưới thời vị Dalai Lama thứ V vào thế kỷ XVII. Nhưng dù trải qua nhiều lần tái thiết, ngôi chùa vẫn giữ được kiến trúc ban đầu của nó từ thế kỷ VII. Trải qua trên 1.300 năm, chùa Jokhang vẫn bảo tồn được kiến trúc từ thời kỳ vua Songtsen Gambo. Mặc dù một số bộ phận của ngôi chùa đã được xây dựng lại, những yếu tố gốc vẫn còn: những xà, rầm bằng gỗ, khung cửa, cho đến cột và những hình chạm được cho là có niên đại thuộc thế kỷ VII và VIII TL. Và bức tượng Phật do công chúa Wencheng mang đến thờ ở trong ngôi chùa này là một báu vật thiêng liêng nhất của người Tây Tạng.

Từ sau sự chiếm đống của Trung Quốc vào năm 1951, chùa Jokhang đã trải qua những xáo trộn đáng kể. Trong suốt thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976), chùa Jokhang được sử dụng làm nơi chăn nuôi và cũng là nơi đồn trú của những người lính Trung Quốc, những người lấy việc đốt phá kinh sách làm công việc.

Ngày nay, chùa Jokhang được mở cửa cho những người hành hương và du lịch, nhưng luôn được chính quyền Trung Quốc kiểm soát chặt chẻ. Chỉ có khoảng 100 Tăng nhân cư ngụ tại chùa và địa danh này luôn được giám sát bởi hàng trăm cảnh sát. Vì lý do này, những Tăng nhân ở đây không được thoải mái khi họ trò chuyện với những du khách nước ngoài.

Chùa Jokhang hiện tại gồm bốn tầng, và nằm trên một khu đất rộng 2,5 héc-ta. Ngôi chùa là sự kết hợp những yếu tố địa phương với những ảnh hưởng từ Nepal, Trung Quốc và Ấn Độ. Bên ngoài chùa, ta thấy những mô-típ trang trí như nai và bánh xe, những biểu tượng của Phật giáo sơ kỳ Ấn Độ. Hai biểu tượng này tượng trưng cho việc thuyết bài pháp đầu tiên của Đức Phật tại Lộc Uyển, Varanasi. Trong khi đó một phần mái của ngôi chùa cho thấy sự ảnh hưởng của kiến trúc Trung Quốc. Bên trong chùa Jokhang ta thấy thờ phụng và trang trí nhiều tranh tượng các vị Bồ-tát và thần linh khác nhau, điều thường nhìn thấy trong các ngôi chùa Tây Tạng.

Như một số ngôi chùa Tây Tạng khác, hành lang chính của ngôi chùa này được lắp những chiếc chuông xoay hay còn được gọi là chuông cầu nguyện, mà những người đi qua đây thường xoay chuông và cầu nguyện. Lối đi này dẫn đến chánh điện, nơi thờ bức tượng Phật được xem là báu vật của ngôi chùa. Hai bên chánh điện là những bàn thờ của vua Songtsen Gampo và hai người vợ của ông, những người có công lớn trong việc truyền bá Phật giáo ở Tây Tạng. Tầng ba của ngôi chùa có thờ bức tượng Palden Lhamo, một vị nữ thần bảo hộ chùa Jokhang và thành phố Lhasa. Trên cùng của ngôi chùa, ở đó ta có thể chứng kiến toàn bộ kiến trúc độc đáo của chùa Jokhang. Và cũng ở đây, ta có thể nhìn thấy toàn cảnh cung điện Potala.

Chùa Jokhang là một địa điểm hành hương rất quan trọng của Phật tử Tây Tạng. Những người hành hương đến khắp mọi miền Tây Tạng thường đi bằng chân trần và thực hành những pháp tu khổ hạnh trên đường đến nơi này, chẳng hạn như việc vừa đi vừa bái lạy thành kính dọc đường đến chùa. Việc thực hành này cũng được thực hiện ở trước sân chùa vào mỗi ngày.

Thật thiếu sót nếu đến Tây Tạng mà không viếng thăm chùa Jokhang. Viếng thăm nơi này, ngoài việc thưởng lãm những công trình kiến trúc và mỹ thuật cổ xưa, ta cũng có dịp khám phá về một địa danh thiêng liêng và huyền bí, có thể tiếp cận được lĩnh vực tôn giáo của người Tây Tạng và trải nghiệm sự sùng đạo của người dân ở xứ sở này.


Chia sẻ: facebooktwittergoogle