Tỏa sáng
toa sang
TỎA SÁNG
Ni sư Fushimi
Dưới
đây là tâm sự về cuộc đời, về chí nguyện và về thú tiêu khiển của một vị Trưởng
lão ni theo hệ phái Tịnh độ Nhật Bản.
***
Ni sư trụ trì Fushimi sanh ngày 1, tháng 12,
1939 tại Tokyo, Nhật Bản. Bà là cháu cố của vị lãnh chúa cuối cùng của Nhật,
Yoshinobu Tokugawa. Năm lên 9, mẹ kế mang bà đến tu viện Tokujo Myoin sau khi
cha bà tử nạn trong chiến tranh thế giới thứ II. Năm 14, bà làm lễ phát nguyện.
Năm 1962, bà hoàn tất chương trình Phật học tại Đại học Bukkyo, là đại học chuyên
về pháp môn Tịnh độ. Giờ bà là Ni trưởng của tu viện Tokujo Moyin.
Ni sư Fushimi bắt đầu thích thú với nhiếp
ảnh trong chuyến viếng thăm Ấn Độ lần đầu tiên vào năm 1966. Vào những năm
1980, bà chụp ảnh theo chủ đề về hoàng hôn tại nhiều nước như Ấn Độ, Miến Điện,
Trung quốc, Campuchia, Indonesia và Nepal. Ngoài việc là bậc thầy về Nghệ thuật
cắm hoa và Trà đạo ở các trường thuộc Keiho, Ni sư Fushimi còn là một nhà thơ
và nhà thư pháp nổi tiếng. Dưới đây là bài phỏng vần Ni sư bằng tiếng Nhật và
chuyển ngữ sang tiếng Anh của Elizabeth O’Brien,
***
Đối với tôi, nhiếp ảnh là một thú tiêu
khiển. Tôi không theo đuổi nhiếp ảnh như là một cách khai phóng thêm cho sự
thực hành tâm linh của tôi. Tôi lớn lên trong niềm tin vào Tịnh độ, nên tôi đến
với nhiếp ảnh một cách tự nhiên như tôi đã đến với tôn giáo của mình. Tôi hoàn
toàn quên mình trong lúc chụp ảnh. Tôi dường như đạt đến trạng thái trống vắng
của cái ngã, là trạng thái mà chúng tôi phải duy trì nếu muốn trở thành Phật. Bất
cứ khi nào nhìn thấy mặt trời lặn, dầu tôi có chụp ảnh hay không, tôi luôn
tưởng tượng ra Đức Phật đang ở cõi Tây phương. Tuy nhiên, tôi không có thời
gian để chụp nhiều ảnh ở quê hương Nhật Bản. Công việc chụp ảnh không phải là
công việc tôi chấp tác hằng ngày; đó chỉ là việc tôi thích làm khi đi du lịch.
Tôi chụp chủ yếu là phong
cảnh, luôn là ảnh màu. Chủ đề tôi ưa thích là cảnh hoàng hôn. Tôi nhớ rất rõ
lần đầu tiên tôi chụp ảnh mặt trời lặn là vào năm 1984, tại miền Nam Ấn Độ. Một
buổi chiều, tình cờ từ lan can khách sạn, tôi nhìn thấy một cảnh mặt trời lặn
rực rỡ mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Cảnh mặt trời lặn về phương Tây đó xâm
chiếm tôi, tôi vội chạy lấy máy ảnh để chụp. Từ đó, dầu đi bất cứ nơi nào, tôi
luôn bị cuốn hút bởi cảnh hoàng hôn. Hình ảnh đó mang một ý nghĩa quan trọng trong
niềm tin Tịnh độ của tôi. Chúng tôi tin rằng phía mặt trời lặn là Cực lạc ở
phương Tây, là nơi Đức Phật A Di Đà có mặt, chờ đón những chúng sanh đã quá
vãng. Chúng tôi nguyện cầu được tái sinh vào mảnh đất giác ngộ này, vào cõi Niết-bàn
Tịnh độ. Khi chụp ảnh, tôi không quan tâm đến việc lưu giữ ảnh mà chỉ quan tâm
đến việc giữ lại giây phút thoáng qua khi mặt trời lặn và Đức Phật ở Tây phương
chờ đón những ai được tái sinh vào cõi Cực lạc.
Trong pháp hành của tôi
không có thiền. Chúng tôi chỉ chuyên tâm niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Đó là cách thể hiện sự nhất như - Phật A Di
Đà và tôi - và cũng là một cách để diễn tả lòng biết ơn đối với tâm từ bi trùm
phủ mà Đức Phật đã ban tặng cho những chúng sanh còn sinh tử như chúng ta. Chúng tôi luôn tụng niệm, khi nằm, ngồi, đi
đứng, và ngay cả khi đang giao tiếp với người, chúng tôi niệm thầm trong tâm.
Tôi nghĩ rằng người ta
thường chọn con đường đạo thích hợp cho mình bởi duyên nghiệp. Có người được
làm quen với con đường đạo dễ theo như pháp môn Tịnh độ. Có người chọn con
đường đạo khó khăn hơn như là thiền định. Theo hệ phái Tịnh độ, chúng tôi tin
rằng tất cả mọi chúng sanh đều thiếu sót, do đó không thể tự mình đạt đến giác
ngộ. Cho nên chúng tôi cố gắng từ bỏ cái ngã, và nương tựa vào Đức Phật để được
giải thoát. Uy lực chính là Tha-lực (Other-power), không phải Tự lực. Dầu ở vị
trí nào trong xã hội, tất cả chúng ta đều trải nghiệm những khổ đau và dục lạc
thế gian. Tuy nhiên, theo hệ phái Tịnh độ của tôi, không có sự tự quán chiếu về
các lỗi của mình. Chúng tôi tin rằng mình có thể đẩy lùi các khía cạnh tiêu cực
này bằng cách niệm Phật không ngừng nghỉ với tâm chân thật. Có thể nói rằng,
nhìn chung, chúng tôi không thực hành pháp tự quán chiếu.
Cuộc sống ở tu viện không
thay đổi nhiều trong suốt khoảng một trăm năm qua.
Khi xã hội hiện đại hóa
hơn, cuộc sống trở nên hào nhoáng hơn, con người càng muốn trải nghiệm một cuộc
sống đơn giản hơn, nên họ muốn thử sống ở tu viện. Ngay lập tức họ phải đối mặt
với điều luật đầu tiên, dọn vệ sinh. Đối
với nhiều người, đó có nghĩa là sayonara
(từ biệt).
Không chỉ ở trong các tu
viện, mà cả ở các cơ quan Phật giáo nói chung, có các quy định cơ bản: (1) dọn
vệ sinh, (2) hành lễ, và (3) tu học. Sự thật thì ở tu viện tôi đang lưu trú, các
quy luật giống như là: (1) làm vệ sinh, (2) làm vệ sinh, và (3) làm vệ sinh. Chúng
tôi thực sự dốc toàn lực vào việc dọn dẹp vệ sinh. Tuy nhiên, khi tôi nói “dọn
vệ sinh”, tôi không chỉ muốn nói đến việc dọn dẹp vườn tược, vệ sinh phòng ốc
tu viện. Nó cũng có nghĩa là quét sạch tất cả mọi tham ái và phiền não khỏi tâm
trí. Dầu bạn đang ở cấp độ tu nào, giữ vai trò gì trong tu viện, bạn cũng phải
làm vệ sinh. Thực ra, các vị tu lâu năm còn phải giữ vai trò đầu tàu nếu họ muốn
kẻ dưới noi theo gương họ.
Nhiều người đến với chúng
tôi với tà kiến rằng chúng tôi chỉ ngồi ngắm vườn tược suốt ngày. Họ không muốn
nhổ cỏ. Họ đến đây, nghĩ rằng họ sẽ có phòng riêng, với truyền hình, ít nhất là
thế! Họ không muốn chung đụng với chúng. Họ không muốn tuân theo tôn ti trong
tu viện.
Tôi có cảm giác như xã
hội Nhật tân tiến này đang xa rời dần các tôn giáo truyến thống. Ở tu viện của
tôi chỉ có bốn Ni, kể cả tôi. Như thế có nghĩa là chúng tôi không tham gia
nhiều công tác hoằng pháp, chiêu sinh. Tôi không thạo việc đi ra ngoài và tiếp
xúc với đám đông quần chúng.
Nhưng tôi có dạy nghệ
thuật cắm hoa, pha trà và thư pháp cho dân địa phương. Học viên thuộc nhiều lứa
tuổi cùng đến tu viện để học. Ngay cả những người chưa từng biết đến Phật giáo,
họ cũng cảm nhận được sự hiện diện của Đức Phật suốt thời gian họ ở trong khuôn
viên tu viện. Tôi không muốn chiêu dụ ai. Tôi chỉ muốn làm tăng con số người
bước vào cửa tu viện, dầu chỉ là một bước nhỏ.
Rất khó nếu bắt đầu với
tâm của học viên, nên tôi bắt đầu từ bên ngoài, dạy họ cách chào, cách ngồi cho
đúng. Tôi không nói đến những điều khó khăn; tôi chỉ muốn họ thực hành đúng
cách. Nhờ đó, họ tiếp thu mọi thứ rất tự nhiên. Tôi cũng cố ý lồng một số yếu
tố tâm linh vào trong việc dạy học của mình. Thí dụ, đối với môn học cắm hoa,
chúng tôi tổ chức lễ phát bằng năm năm trong chánh điện của chùa, trước tượng
Phật. Khi học viên nhận bằng, học viên chấp tay lại và vái chào trước tượng
Phật. Tất cả các học viên đều rất phấn khởi, dầu họ thuộc tôn giáo nào. Đó là
bước khởi đầu. Nhiều học viên cũng thấy đó là bước khởi đầu, sau đó họ phát
khởi lòng tin.
Dầu ở trong môi trường
giáo dục nào, sự liên hệ giữa thầy-trò vẫn giống nhau. Đó là mối liên hệ giữa
mẹ-con. Sư phụ của tôi qua đời, khi tôi vừa được truyền giới. Tôi rất nhớ thương người và cần đến sự dìu
dắt của người xiết bao, may nhờ các vị Ni sư khác bảo bọc, tôi đã vượt qua để
tiếp tục trên con đường đạo. Giờ chính tôi cũng trở thành một người dìu dắt tâm
linh, tôi thấy rằng công tác giáo dục là hai chiều. Tôi đã học rất nhiều thứ từ
các học viên của mình. Trước đây tôi là người không kiên nhẫn, rất dễ bị lay
động bởi những gì người khác nói hay làm. Nhưng các em học viên đã mở rộng tầm
nhìn của tôi. Tôi nhận thấy rằng người khác có thể có những suy nghĩ mà mình
chẳng bao giờ nghĩ đến trước đây. Khi lắng nghe các em, tôi đã trường thành
thêm nhiều. Tôi nghĩ đó là cách Đức Phật đã dạy bảo tôi, qua các em học viên.
Nói về mình là việc cá
nhân tôi không thích, mà hệ phái cũng không khuyến khích. Tôi nghĩ là người ta
không thực sự có khả năng hiểu được chính xác họ là ai, và tôi không ngoại lệ,
vì thế khi cố gắng để định nghĩa “cái tôi” này là việc ngông cuồng. Tâm trí ta
đổi thay từng giây phút, giống như mây bay trên bầu trời chiều khi mặt trời
lặn. Chúng ta là ai mà nghĩ rằng mình có thể nắm bắt được bản chất thực sự của
tâm? Tâm Phật trong mỗi con người không thể bị gò bó bởi sự giới hạn của ngôn
ngữ.
Diệu Liên Lý Thu Linh – 2-2017
(Chuyển Ngữ từ Shedding the Lights, tạp chí Tricycle,
Xuân 2001)