Sự Thật không hiển lộ từ Trí Nhớ cũng không phát sinh từ Kiến Thức mà từ sự Hiểu Biết
su that
(La vérité ne relève pas de la mémoire ni de la
connaissance
mais de la
compréhension)
Walpola Rahula
Hoang Phong chuyển
ngữ
Lời giới thiệu trên trang mạng "Mảnh
Đất Giác Ngộ" ("Terre d' Eveil")
Walpola Rahula là một vị Đại sư Tích Lan rất nổi tiếng, trong
một dịp ghé Pháp đã có nhã ý trả lời một cuộc phỏng vấn do một ngôi chùa ở
Bourget (ngoại ô
phía bắc Paris) tổ chức vào ngày 27 tháng 7 năm 1994. Cuộc phỏng vấn
xem như bình thường này dường như tiềm ẩn một sự nghịch lý nào đó vì đã phản
ảnh một hương vị [thiền học] toát ra từ phong thái của các vị thầy Nhật Bản -
là những người chủ trương một sự hiểu biết trực nhận - thế nhưng Walpola Rahula
thì lại là một vị thầy tu tập theo Phật Giáo Theravada. Phải chăng điều này cho
thấy là trí tuệ của Ngài Walpola Rahula đã vượt lên trên tất cả các học phái [của
Phật Giáo nói chung]? Người thực hiện cuộc phỏng vấn này là Thierry Truillet.
(Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của bài
phỏng vấn này trên nhiều trang mạng Phật Giáo như:
http://www.vipassana.fr/Textes/WalpolaRahulaLaVeriteNeRelevePasDeLaMemoire.htm
http://www.buddhaline.net/La-verite-ne-releve-pas-de-la
http://www.buddhachannel.tv/portail/spip.php?article1953&lang=fr)
...
Ngài Walpola Rahula
Sự Thật không hiển lộ từ Trí Nhớ
cũng không phát sinh từ Kiến Thức
mà từ sự Hìểu Biết
Walpola Rahula
Ngài cảm thấy thế nào về sự phát
triển của Phật Giáo ở phương Tây?
Tôi nghĩ rằng xưa nay số người theo Phật Giáo chưa bao
giờ đông đảo, kể cả ở các quốc gia mang truyền thống Phật Giáo như Ấn Độ và
Tích Lan. Ngay cả ở Ấn Độ vào thời kỳ của Đức Phật, nhiều người trong số các đệ
tử của Ngài cũng không [đủ sức] hiểu được giáo huấn của Ngài. Ngày nay cũng
chẳng khác gì hơn. Không sao có thể đạt được sự hiểu biết sự thật bằng một phép
luyện tập nào cả. Việc luyện tập [đơn thuần] không đủ sức mang lại việc đó.
Theo kinh sách Phật Giáo thì một người nào đó dù từ trước chưa bao giờ có dịp
diện kiến với Đức Phật, tức có nghĩa là chưa bao giờ [may mắn được] luyện tập,
[thế nhưng chỉ cần] nghe Ngài thuyết giảng cũng có thể hiểu biết (thấu triệt/nắm
bắt) được sự thật (xin lưu ý là Walpora Rahula cố ý không nêu lên các thuật
ngữ đặc thù và chuyên biệt trong Phật Giáo như "quán thấy", "cảm
nhận bằng trực giác", "giác ngộ"..., có thể là vì lý do các
thuật ngữ này đã bị lạm dụng và trở thành quá công thức và quy ước hay chăng. Do
đó Ngài chỉ sử dụng các chữ thật đơn giản như " hiểu biết sự thật"...
để chỉ sự Quán Thấy hay sự Giác Ngộ...).
Vậy thì Ngài nghĩ thế nào về các
phương pháp đã được đem ra giảng dạy nhằm mang lại sự thực hiện ấy, chẳng hạn
như các phép thiền định vipassana (sự quán thấy sâu xa) và samatha (sự chú tâm)?
Chăng phải đấy cũng chính là các kỹ thuật luyện tập, kết hợp giữa các tư thế của
thân xác và các phép luyện tập tâm thần...
Tất
cả các thứ ấy chỉ ích lợi cho những kẻ không biết làm gì khác hơn!
Vậy theo Ngài thì phải bước theo con
đường nào bây giờ?
Chẳng
có con đường nào cả. Một khi nêu lên một con đường hay một kỹ thuật nào đó, thì
mọi sự sẽ chấm dứt ở đấy (sự thăng tiến sẽ dừng lại và "con đường" chỉ là một
sự bế tắc). Phép thiền định vipassana [tự nó] không hàm chứa một kỹ
thuật nào cả. [Đó chỉ là cách mà] bạn phải luôn ý thức về tất cả các hành động (trên thân xác và
trong tâm thức) mình thế thôi. Không phải là chỉ trong một hay hai
giờ (trong lúc
ngồi thiền), mà suốt đời mình, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào.
(Thông thường chúng ta luôn sống "bên
ngoài" con người của mình. do đó chỉ khi nào tự mình nhận thức được sự
xao lãng thật kinh hoàng ấy trong cuộc sống của chính mình thì khi ấy mình mới
có thể hiểu được vipassana và sức mạnh của nó. Một cách cụ thể là lứa tuổi còn trẻ
thì say mê các trò chơi điện tử, nghe nhạc triền miên, nhắn tin liên tục trên
máy điện thoại di động; các bà các cô thì tâm sự hết chuyện này sang chuyện khác,
hoặc xem phim Hàn Quốc, Hồng Kông tràng giang đại hải; các bậc nam nhi thì xem
chuyện nhảm nhí, tò mò hay chính trị trên mạng; các bậc lão thành và điềm đạm
hơn thì trong lòng luôn tức bực về đủ mọi thứ, từ gia đình, con cháu, đến hận
thù chính trị, hoặc hoạch định những chuyện tương lai hay những ước mơ chính
trị... Những người trong trường hợp ấy dù có luyện tập vipassana thì cũng chỉ mất
thêm thì giờ mà thôi)
Câu hỏi của tôi cũng có ý gợi lên
một thắc mắc là giữa sự hiểu biết của người Đông Phương và người Tây Phương phải
chăng cũng có một sự khác biệt nào đó?
Không
có một sự khác biệt nào cả. Đối với giáo huấn của Đức Phật, [thì] kinh sutra (của Phật Giáo
Theravada và Đại Thừa), kinh tantra (của Tan-tra Thừa/Kim Cương Thừa)...,
hoặc [các kinh] không phải là tantra cũng thế. Tất cả đều nhất loạt xuất hiện
sau Đức Phật (sau
khi Đức Phật tịch diệt thì giáo huấn của Ngài cũng chỉ được truyền khẩu và
khoảng năm trăm năm sau mới được ghi chép lại bằng chữ viết). Kim
Cương Thừa, Đại Thừa,Tiểu Thừa, Theravada, v.v., đều xuất hiện sau [thời đại]
của Đức Phật. Tất cả đều được triển khai sau này bởi các vị thầy Phật Giáo,
tương tự như những gì mà các vị cố đạo đã triển khai cho Ki-tô Giáo. Không sao
tránh khỏi sai lầm đối với những lời giáo huấn nguyên thủy.
Câu trả lời của Ngài phải chăng cũng
có nghĩa là bất cứ ai một khi đã bước vào con đường tu tập Phật Giáo thì đều rơi
vào sai lầm...
Sai
lầm là vì bám víu vào hình thức. Nếu bạn cứ khư khư nắm chặt sự thật trong lòng
bàn tay mình (quyết
tâm tu theo một tông phái, hay học phái nào đó chẳng hạn), thì mọi
sự đều chấm dứt [ở đấy] (tất cả đều dừng lại không còn thăng tiến được nữa).
Tôi nghĩ rằng điều ấy có thể nói lên được bản chất của sự thật. [Bởi vì] sự
thật không phải là một thứ gì đó mà người ta có thể tìm thấy được nó (sự thật nằm bên trong
tâm thức, có sẵn trong tâm thức, và chỉ có thể hiển hiện trong tâm thức, có nghĩa
là không thể tìm thấy nó ở bên ngoài tâm thức). Sự thật không thể
diễn tả được bằng ngôn từ (từ xưa đến nay chưa hề có một vị Thầy đích thật nào nói lên
là mình đã đạt được "giác ngộ" cả, kể cả Long Thụ, Thế Thân, Vô
Trước, Bồ-đề Đạt-ma, Tịch Thiên, Đạo Nguyên... và cả Đức Đạt-lai Lạt-ma hôm
nay).
Thế nhưng cũng phải vượt qua nhiều giai đoạn thì mới có thể giúp cho tri
thức đạt được sự thực hiện ấy...
Các kiếp sống nào? Các giai đoạn nào? (sự hiểu biết/giác
ngộ/sự thật vượt ra ngoài/lên trên các kích thước của không gian và thời gian).
Đức Phật có nói: chẳng có con đường nào cả. Một người Bà-la-môn có một người
con gái thật xinh đẹp đề nghị với Đức Phật hãy cưới người con gái ấy. Đức Phật
khước từ và tuyên bố rằng Ngài không thích chạm ngay cả vào bàn chân của người
con gái ấy. Người Bà-la-môn bèn hỏi là do đâu mà Ngài đã đạt được cấp bậc hiểu
biết ấy. Đức Phật trả lời: không phải nhờ vào sự luyện tập, cũng không phải nhờ
vào một phương pháp nào hay một vật nào cả, mà bằng cách không có những thứ ấy (đó là tánh không
của mọi hiện tượng, sự tu tập cũng chỉ là một hiện tượng, phát sinh từ sự kết hợp
của muôn nghìn hiện tượng khác). Điều ấy có nghĩa là bạn tu tập, thế
nhưng bạn không nô lệ cho sự tu tập (nô lệ cho sự tu tập cũng có nghĩa là bám víu vào một hiện tượng
cấu hợp, biến động và vô thường).
Ngài nghĩ thế nào về cái tôi (cái ngã) và các thứ xúc cảm bấn loạn [khác]?
Nếu một người nào đó không được hướng dẫn đúng đắn thì làm thế nào có thể đạt
được sự thật ấy?
Đối
với Phật Giáo, không phải kiến thức hay trí nhớ là điều quan trọng, mà là sự
hiểu biết, và cũng không phải là thứ hiểu biết dựa vào trí nhớ ("trí nhớ" là kết quả phát sinh từ sự vận hành liên
tục của tri thức. Dưới một góc nhìn khác thì "trí nhớ" cũng có thể
xem là "kiến thức" bởi vì nó là kết quả mang lại từ sự hội nhập và tiêu
hóa của tri thức về những gì mà nó tiếp nhận được từ bên ngoài. Sự khác biệt
duy nhất là trí nhớ mang tính cách xưa cũ/quá khứ/nghiệp và kiến thức thì tương
đối mới hơn, phát sinh từ trí nhớ liên kết với hiện tại và hướng vào tương lai.
Tóm lại trí nhớ và kiến thức cũng chỉ là các kết quả mang lại từ sự vận hành chung
của tri thức, và cả hai mang cùng một bản chất như nhau. Trí nhớ cũng như kiến
thức sẽ tạo ra các thể dạng xúc xảm và tư duy đủ loại. Sự "hiểu biết"
trái lại là một thể dạng cảm nhận sâu kín, tàng ẩn phía sau trí nhớ và cả kiến
thức, sự "hiểu biết" đó mang tính cách "độc lập" vượt lên
trên sự vận hành thô thiển của tri thức thông thường). Kiến thức về Đạo
Pháp (Dharma) là trí nhớ, và chẳng là gì cả (không có giá trị gì). Đấy chỉ là một hình thức
quá trình (quá
trình ở đây có nghĩa là sự vận hành của tri thức). Hiểu biết sự thật
không phải là [một hình thức/thể dạng] trí nhớ (memory). Người ta không thể nào
"quên" sự thật, và bên trong sự thật không có gì để mà "nhớ"
lại cả (sự thật
không phải là một hình thức ký ức (souvenir), mà mang tính cách toàn diện, đầy
đủ, không có trước, không có sau, không trên cũng không dưới, nói cách khác là
không liên hệ gì đến bản chất hay các đặc tính không gian và thời gian để mà có
thể quên hay nhớ lại, hoặc là để tìm kiếm nó. Một khi đạt được sự thật thì tri
thức/tâm thức tha hồ tung hoành, không đông, không tây, không quá khứ cũng chẳng
tương lai). Sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã khẳng định về
điều này: ấy là sự quán thấy (vision) [thế thôi], chẳng có gì khác cả. Nếu bạn
trông thấy một cánh hoa, thì [cũng có nghĩa là] bạn trông thấy nó, chỉ [đơn giản]
có thế. Điều ấy chẳng có gì tai hại cả. Thế nhưng tất cả mọi thứ sẽ xảy ra sau
đó, khi bạn [tiếp tục] suy nghĩ về chuyện ấy (sự bám víu sẽ làm phát sinh ra "trí nhớ"
và "kiến thức", đưa đến các hình thức xúc cảm đủ loại, và "cái tôi"
tất sẽ hiện ra phía sau các xúc cảm ấy để mà nhớ và làm phát sinh ra kiến thức,
đưa đến kết quả là hành động. Ngài Walpola Rahula trả lời về "cái ngã"
và các "xúc cảm bấn loạn" nêu lên trong câu hỏi trên đây một cách thật
ngắn gọn nhưng vô cùng khéo léo và rõ ràng). Tôi vẫn thường hay sử
dụng các kỹ thuật của Kim Cương Thừa (Vajrayana) giúp tri thức hiện tại thực hiện
thể dạng không-nắm-bắt các kinh nghiệm cảm nhận. Có một số vị thầy giảng dạy về
các kỹ thuật này giúp chúng ta hiểu rằng bên trong sự thật ấy không có gì thêm vào
đấy cả.
Thế thì đấy cũng lại là một con
đường. Vậy Ngài khuyên những người muốn đạt được sự thật ấy thì phải làm thế
nào?
Chẳng
có lời khuyên nào cả, nếu không thì đấy cũng chỉ là con đường (câu trả lời thật
siêu phàm: "không có con đường nào cả" cũng chính là "một con
đường"!).
Các vị thầy giảng dạy Đạo Pháp sắp
họp nhau ở Karma Ling (một tu viện Phật Giáo Tây Tạng ở một vùng núi non thuộc đông nam nước
Pháp, gần biên giới Thụy Sĩ) nhằm hình dung một số các đường hướng [tu tập] có thể cho cả Phật Giáo Tây
Phương sau này. Nhiều người [Tây Phương] bước theo con đường Đạo Pháp tỏ ra rất
quan tâm đến vấn đề này...
Tình
trạng này cũng chẳng mới lạ gì. Trong quá khứ các vị đại bồ-tát, các vị Thanh
Văn (Sravaka/các
bậc nhờ nghe giảng Pháp mà giác ngộ) và các vị Bích Chi Phật (Pratyeka/còn gọi
là Duyên Giác Phật, Độc Giác Phật..., là các vị tự tu tập một mình và đạt được
giác ngộ), v.v. cũng đã từng thảo luận và tranh biện với nhau [nhằm tìm
hiểu] xem sự thật là gì. Nếu tôi nhớ không lầm thì có tất cả ba mươi hai cách
định nghĩa [về sự thật]. Mỗi vị đưa ra cách định nghĩa riêng của mình. Sau cùng,
thay cho lời kết luận vị đại bồ-tát (Đức Phật) đã giữ một sự yên lặng thật mênh mông,
bởi vì mỗi khi có một ngôn từ được thốt ra, thì [tức khắc] một thể dạng nhị
nguyên (duality) sẽ hiển hiện (một khi chủ thể hiện ra - dù là phía sau một ngôn từ, tư
duy hay hành động trên thân xác - thì tức khắc trong cùng thời điểm ấy cũng sẽ hiện
ra một đối tượng liên hệ trực tiếp và mật thiết với chủ thể ấy và sẽ làm phát
sinh ra một hiện tượng khác, tương kết và buộc chặt chủ thể ấy vào sự chuyển
động chung của thế giới hiện tượng). Câu chuyện vừa kể chẳng phải là
tuyệt vời hay sao!
Sự phát triển của Phật Giáo ở Á Châu
thật hết sức chậm. Ở thế giới Tây Phương hiện nay, quá trình ấy thật vô cùng
nhanh chóng. Do đó sự thắc mắc của những vị thầy giảng dạy Đạo Pháp sẽ là: những
gì cần phải làm và không nên làm? Những thứ sai lầm nào cần phải tránh? Theo như
lời Ngài vừa nói thì mọi chuyện đều có thể xảy ra được...
Ở phương
Tây, Phật Giáo chưa [hoàn toàn] được thiết lập [một cách vững chắc]. Điều mà tôi
muốn nói thuộc lãnh vực tổ chức, không liên hệ gì đến sự thật. Ở nơi này (tức là thế giới Tây
Phương) các tiến bộ vật chất và kỹ thuật được phát triển rất cao,
thế nhưng sự hiểu biết về tâm thức (nội tâm con người) thì chỉ là con số không. Triết
gia nổi tiếng của quý vị là Descartes có nói: "Tôi suy nghĩ tức là tôi hiện hữu" (Je pense, donc je suis/ I think therefore I am). Câu nói đó không lô-gic (hợp lý) chút nào. Đối với Phật Giáo thì không hề
có cái tôi cũng chẳng có một tư duy nào cả, chỉ có hành động mà thôi (thuật ngữ "hành
động" trong Phật Giáo mang ý nghĩa rất rộng, đó là sự vận hành của tâm
thức xuyên qua sự tương tác giữa trí nhớ/nghiệp và ngoại cảnh. Sự tương tác đó làm
phát sinh ra xúc cảm, tư duy, ngôn từ và các động tác trên thân xác. Độc giả có
thể xem thêm các lời giải thích về câu phát biểu trên đây của triết gia và khoa
học gia Descartes trong phần ghi chú của người dịch dưới đây), nhưng
[tuyệt nhiên] không hề có ai ở phía sau [các hành động ấy] cả. Nước chảy, nhưng
chẳng có ai [điều khiển] khiến cho dòng nước ấy chảy cả (dòng nước tùy thuộc vào độ nghiêng của lòng
suối và các chướng ngại ở đáy con suối mà chảy, chẳng có ai điều khiển nó cả. Tương
tự như thế, trí nhớ/nghiệp tự nó luân lưu trong tâm thức không có "cái tôi"
nào xui dục, thôi thúc hay nhắc nhở trí nhớ/nghiệp cả. Trí nhớ tự nó nhớ lấy nó,
nghiệp tự nó trở thành quả, mỗi khi các thứ ấy tiếp xúc và tương tác với ngoại
cảnh, xuyên qua ngũ giác của một cá thể. Trí nhớ tự nó tương tác với ngoại cảnh
tạo ra "kiến thức" và đưa đến "hành động", nghiệp tự nó tương
tác với các cơ duyên thuộc ngoại cảnh để mang lại hậu quả/kết quả và cũng đưa đến
"hành động". Tóm lại là sự vận hành của trí nhớ và của nghiệp chỉ là
hai cách nói hay hai góc nhìn khác nhau của một quá trình vận hành duy nhất của
tri thức nhằm đưa đến "hành động", và "hành động" thì như đã
được nói đến trên đây là xúc cảm, tư duy, tác ý, ngôn từ và các động tác trên cơ
thể).
***
Ghi chú của trang mạng "Mảnh đất Giác Ngộ"
về tiểu sử của Ngài Walpola Rahula
Ngài
Walpola Rahula là một nhà sư Tích Lan, mất ngày 18 tháng 9 năm 1997 ở Colombo
lúc 91 tuổi (có
lẽ 90 tuổi thì đúng hơn, bởi vì ông sinh ngày 9 tháng 5 năm 1907). Sự
uyên bác của Ngài vượt xa hơn lãnh vực của Phật Giáo Theravada, còn gọi là "Phật Giáo của người xưa" (Thera có nghĩa là
"người đi trước", " người xưa", "người lớn tuổi",
vada là "giáo lý"), là một tông phái Phật Giáo mà Ngài tu
tập. [Thế nhưng] Ngài cũng đã từng nghiên cứu các kinh sách bằng tiếng Hán và
cả tiếng Tây Tạng của Đại Thừa Phật Giáo.
Là
một trong số những người tiên phong mang giáo huấn của Đức Phật vào thế giới
Tây Phương, Walpola Rahula đã từng sống 25 năm trên đất Pháp và giảng dạy ở đại
học Sorbonne vào thập niên 1950. Ngài là một trong số những người đã góp phần
vào việc quảng bá Đạo Pháp trong thế giới Tây Phương. Quyển sách "Giáo Huấn của Đức Phật" (L'Enseignement du Bouddha) của Ngài đã
được dịch ra 14 thứ tiếng và là một trong số các quyển sách đầu tiên về Phật
Giáo [ở Pháp trong thời cận đại] và mặc dù đã được xuất bản từ năm 1961, thế
nhưng đến nay vẫn còn là một quyển sách thật căn bản.
Walpola Rahula (1907-1997)
Vài lời ghi chú của người dịch
Câu
hỏi thứ nhất trong buổi phỏng vấn có ý nêu lên tình trạng phát triển nhanh chóng
của Phật Giáo trong thế giới Tây Phương, thế nhưng cách đặt câu hỏi lại rất khéo,
không trực tiếp nêu lên sự kiện này mà chỉ muốn biết về "cảm nghĩ" của
Ngài Walpola Rahula về sự phát triển ấy. Câu trả lời cũng thật khéo bằng cách cho
biết là không nên chờ đợi một sự phát triển "rầm rộ" của Phật Giáo. Ngài
cho biết là ngay cả vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế nhiều đệ tử của Ngài cũng
không hiểu được thấu đáo và sâu sắc giáo huấn của Ngài là gì. Thật vậy vào thời
bấy giờ Phật Giáo cũng chỉ phát triển trong thung lũng sông Hằng, và truyền thống
tín ngưỡng của toàn thể bán lục địa Ấn độ là đạo Bà-la-môn.
Phật
Giáo là một "tín ngưỡng" rất khó, ngay cả ngày nay người ta cũng không
biết là phải nên nhìn Phật Giáo như một tôn giáo, một triết học, một khoa học
hay đơn giản như là một lối sống, và cũng có thể là tất cả các thứ ấy. Các tông
phái, học phái, chi phái chỉ là các phương tiện giúp người tu tập "đến gần"
với Giáo Huấn của Đức Phật mà thôi. Trong thế giới Tây Phương rất nhiều học giả
và triết gia nhìn Phật Giáo qua các công trình nghiên cứu của họ, tức là dưới góc
cạnh "kiến thức", trong khi đó thì nhiều người khác "bình dị"
hơn thì lại nhìn Phật Giáo qua góc cạnh ứng dụng, nhằm tìm một phương tiện làm vơi
đi các thể dạng bấn loạn và khổ đau trong nội tâm mình. Thế nhưng cả hai chiều
hướng đó không thể giúp quán nhận được "sự thật".
Nếu
nhìn vào thế giới Đông Phương thì dù là trong một nước có truyền thống Phật Giáo
lâu đời đi nữa, cũng không có nghĩa là tất cả những người "theo Phật Giáo"
đều hiểu được Phật Giáo là gì! Lòng mộ đạo, việc tu tập, sự hăng say đôi khi cũng
chỉ có thể xem là "trí nhớ" hay thuộc lãnh vực "trí nhớ"
(xin mạn phép nhắc lại là "trí nhớ" ở đây mang ý nghĩa thật rộng, tức
là sự vận hành của tri thức và cũng là một thành phần của tri thức), giúp người
tu tập bước vào "con đường" thế thôi. Bởi vì một khi đã bước được vào
con đường mà cứ dậm chân tại chỗ với chuông mõ, hương đèn và sự thành tín đơn
thuần, thì chỉ là một sự bế tắc đúng như nhận xét của Ngài Walpola Rahula. Mặt
khác nếu "kiến thức" giúp các học giả và những người say mê lý thuyết
"trông thấy" con đường, thế nhưng nếu cứ loanh quanh tìm kiếm hoa thơn
cỏ lạ ở hai bên đường, thì cũng lại là một hình thức bế tắc khác. Trong khi đó "sự
thật" chỉ có thể hiện ra ở thật xa nơi cuối "con đường" mà thôi.
Nhà sư Walpola Rahula gọi hai xu hướng đó là "trí nhớ" và "kiến
thức". Một khi đã rơì vào bất cứ một hình thức tu tập nào chẳng hạn như nhờ
vào "trí nhớ" (kỹ thuật) hay "kiến thức" (lý thuyết) thì đấy
cũng sẽ là một sự "chấm dứt", không còn ra thoát hay thăng tiến được
nữa.
Điểm
đáng lưu tâm thứ hai trong bài phỏng vấn là hương vị Thiền Học tàng ẩn phía sau
nội dung của những câu trả lời của nhà sư Walpola Rahula, mặc dù chính Ngài lại
là một vị đại tăng tu hành theo Phật Giáo Theravada, một tông phái Phật Giáo chủ
trương một sự tu tập kiên trì, nhẫn nhục giúp mình đạt được thể dạng A-la-Hán mà
thôi, tức là một thể dạng giải thoát khỏi vòng luân hồi. Hơn nữa Walpola Rahula
còn cho biết là Ngài thường sử dụng các kỹ thuật của Phật Giáo Tây Tạng để thực
hiện thể dạng không-nắm-bắt các kinh nghiệm cảm nhận xảy ra trên thân xác cũng
như trong tâm thức mình. Các sự kiện trên đây cho thấy ở một cấc bậc tu tập nào
đó, cứu cánh của tất cả các phép tu tập dù là thuộc một tông phái Phật Giáo nào,
cũng đều gặp nhau ở một điểm duy nhất là sự quán thấy sự thật, tức là sự Giác
Ngộ. Tất cả mọi hình thức tu tập, các tông phái và học phái đều là phương tiện.
Nếu dừng lại ở phương tiện thì tất sẽ là sự bế tắc, mọi sự cũng sẽ chấm dứt ở đấy,
đúng như lời phát biểu trên đây của Walpola Rahula.
Điểm
đáng lưu tâm thứ ba là câu phát biểu nổi tiếng trong thế giới Tây Phương của nhà
toán học, vật lý học và triết gia người Pháp là René Descartes (1596-1650): "Tôi suy nghĩ tức là tôi hiện hữu".
Tư tưởng của ông đã tạo ra các tác động không nhỏ góp phần làm chuyển hướng cơ
cấu tư tưởng và có thể là cả nền văn minh và khoa học của lục địa Âu Châu, xuyên
qua nhiều triết gia, khoa học gia và các tư tưởng gia, đã chịu ảnh hưởng từ các
tư tưởng ông sau này, có thể kể ra vài vị như: Pascal, Spinoza (thế kỷ XVII), Liebnitz
(thế kỷ XVII-XVIII), Kant (thế kỷ XVIII), Kierkegaard, Nietzsche, (thế kỷ XIX),
Husserl, Bergson (thế kỷ XIX-XX), Merleau-Ponty, Sartre (thế kỷ XX), v.v. Thế
nhưng nếu một người tu tập Phật Giáo đọc câu ấy của Descartes thì rất có thể sẽ
khó tránh khỏi mỉm cười vì tính cách thật hời hợt và nông cạn của câu phát biểu
này. Thật vậy trên phương diện "hiểu biết" thì Tây Phương và Đông Phương
hướng vào hai lãnh vực khác nhau: một đằng là vật chất với phương pháp tiếp cận
là sự lý luận, và một đằng là tâm linh với phương pháp tiếp cận là sự cảm nhận các
thể dạng tâm thần sâu kín của tâm thức. Tuy rằng lãnh vực thứ hai không đưa đến
các tiến bộ kỹ thuật và khoa học, thế nhưng có thể mang lại cho con người một sự
giải thoát đích thật. Người phương Đông phải ý thức được ưu thế ấy nhằm bảo toàn
và phát huy sự lợi ích của nó hầu mang lại cho mỗi người chúng ta một cuộc sống
nội tâm phong phú và an bình, một con tim biết mở rộng hướng vào tình thương và
sự sống của tất cả chúng sinh. Trí nhớ và kiến thức chỉ đưa đến sự tính toán, và
sự tính toán thì chỉ là một hình thức "lý luận" dựa vào vật chất, các
thứ lợi lộc và sự được thua mà thôi.
Rất
nhiều học giả cũng như các nhà sư danh tiếng Phật Giáo, từ Thiền Học, Phật Giáo
Theravada đến Kim Cương Thừa, đã từng bình luận về câu phát biểu trên đây của
René Descartes, vì đối với họ câu nói ấy thật hết sức hời hợt. Trong một quyển
sách của Buddhadasa (1906-1993) một nhà sư rất thông thái và nổi tiếng của Thái
Lan, nhà sư này cũng đã từng nêu lên và phê bình câu phát biểu này (The Handbook for Mankind/Quyển Sách cho Nhân
Loại, Hoang Phong chuyển ngữ, nhà xuất bản Phương Đông, 2012, chương VI,
tr.132-134) và người chuyển ngữ quyển sách cũng đã mượn dịp này để giải thích
thêm về câu phát biểu của Descartes. Tuy nhiên cũng xin mạn phép trở lại vấn đề
này thêm một lần nữa để giải thích quan điểm của Walpola Rahula trong bài phỏng
vấn trên đây, khi ông nói rằng "Đối
với Phật Giáo thì không có cái tôi, cũng chẳng có một tư duy nào cả, mà chỉ có
hành động mà thôi, và tuyệt nhiên không hề có ai ở phía sau các hành động ấy".
Lần đầu tiên René Descartes nêu lên câu phát biểu nổi tiếng của ông bằng
tiếng La Tinh năm 1634: "Cogito, ergo sum". Sau đó ông lại tiếp
tục khai triển và giải thích thêm quan điểm này và đến năm 1641 thì bất ngờ ông
đã sửa câu này lại như sau: "Ego sum, ego existo" có nghĩa là "Tôi
đang như thế này [tức là] tôi hiện hữu". Có thể Decartes đã nhận thấy
chỗ sơ hở trong định đề do ông nêu lên trước đây, thế nhưng những gì đã sai thì
dù có cố tránh né thì căn bản vẫn là sai. Nếu chúng ta đặt ngược định đề
của Descartes thì chỗ sai sẽ hiện ra ngay: "Trước khi tôi biết suy
nghĩ, khi tôi không suy nghĩ và sau khi tôi không còn khả năng suy nghĩ được nữa,
thì tôi có hiện hữu hay không?". Một đứa hài nhi, một đứa bé còn bồng
trên tay, một người bị hôn mê/coma, hoặc hoàn toàn mất trí và trở nên ngớ ngẩn
không còn biết mình là ai thì có hiện hữu hay không? Một người điên loạn chỉ thấy
trong tâm trí mình toàn là ma quỷ, đâm chém, máu me và chỉ biết la hét thì có đủ
sức để nghĩ rằng: "Tôi như thế này [tức là] tôi hiện hữu hay không? Quả
thật định đề do Decartes nêu lên quá ư ngây thơ và ấu trỉ, thế nhưng tiếc thay
nó đã ảnh hưởng lớn lao đến nền tư tưởng, khoa học và văn hóa cận đại của Tây
Phương, cũng có thể là cả tín ngưỡng nữa. Các điều vừa nêu lên sẽ giúp chúng ta
hiểu được ý nghĩa của câu phát biểu sau đây của Walpola Rahula: "Nếu bạn
cứ khư khư nắm chặt sự thật trong lòng bàn tay mình thì mọi sự sẽ chấm dứt ở đấy".
Theo Phật Giáo thì sự chấm dứt ấy không phải chỉ đơn giản là một sự dừng lại
mà là một sự bế tắc, làm phát sinh ra vô số các hậu quả liên hệ.
Nhà
sư Buddhadhasa sau khi nêu lên câu phát biểu của Descartes đã giải thích như
sau: "Các triết gia thuộc thời kỳ
khoa học của chúng ta đã không tỏ ra tiến bộ chút nào cả về chủ đề này: bởi vì
đã từ hàng nghìn năm họ vẫn cứ nghĩ rằng tư duy là cơ sở để xác định một cái
tôi cá thể; theo họ "cái tôi" chính là người suy nghĩ. Như chúng ta
đã thấy, đối với Đức Phật thì giác cảm cũng như sự cảm nhận không phải là những
thứ đã tạo ra "cái tôi". Ngài cũng phủ nhận luôn cả tư duy - tức là các
dạng thể suy nghĩ của tâm thức - dưới hình thức một cái ngã, bởi vì sự sinh hoạt
(Walpola Rahula gọi sự "sinh hoạt" này là "hành
động") phát hiện dưới hình thức tư duy chỉ là một quá trình hoàn toàn mang tính cách tự
nhiên". Các lời giải thích
trên đây của nhà sư Buddhadhasa giúp chúng ta hiểu dễ dàng hơn câu phát biểu của
nhà sư Walpola Rahula: "Đối với Phật Giáo thì không có cái tôi, cũng
chẳng có tư duy nào cả, mà chỉ có hành động mà thôi".
Bures-Sur-Yvette,
02.05.15
Hoang
Phong chuyển ngữ