Bài giảng chiều thứ tư
Hỏi:
Người ta nói với tôi rằng, nếu như tôi theo pháp tu thiền sổ tức (pháp tu đếm hơi thở), thì tôi dễ buồn
ngủ, pháp tu đặc biệt này có thể không thích hợp với tôi, cho nên tôi phải tìm kiếm pháp khác, xin ngài vui lòng nhận xét, điều có đúng như thế không?
Đáp: Khi người ta bắt đầu tập thiền, thì
điều thường xảy ra là người ta hay buồn ngủ,
thậm chí là ngủ quên. Đối với một số người có trạng thái này,
tôi khuyên họ nên trì chú.
Khi thiền định, tâm
thức có
thể bị
hôn trầm chi
phối, thân tâm chưa đạt được trạng thái khinh an, thường hay bị buồn ngủ và thậm chí là ngủ
quên. Sở dĩ bị như
vậy,
là vì
hành giả lơi lỏng trong
việc rèn luyện tâm thức; để khắc phục tình trạng này,
ta nên làm cho tâm thức căng ra, nhờ
thế mà ta
được tiếp thêm năng lực. Nếu như phương pháp này không hiệu quả, thì
ta nên quán tưởng một cái gì đó lấp lánh ánh sáng hoặc chú tâm vào những chi
tiết của đối tượng mà ta đang
thiền tư. Sở dĩ
ta bị
hôn trầm
là vì ta đi
vào lĩnh vực nội tại quá
nhiều. Nếu phương pháp vừa nêu cũng không hiệu nghiệm, thì ta nên xả thiền
và nhìn vào khoảng không gian xa, ta có thể quan sát toàn cảnh hoặc đi rửa mặt
hay đi ra ngoài hít thở không khí trong lành.
Nếu như khi bạn tập thiền theo phương pháp sổ tức, mà
bạn buồn ngủ một cách khác
thường, thế nhưng
khi bạn tập thiền theo
phương pháp
khác mà không có triệu chứng đó, thì có lẽ vấn
đề là do cơ thể của
bạn. Trong trường hợp này,
tốt hơn
hết, là bạn nên
thay đổi đối tượng thiền quán. Ta có
thể định tâm hay thiền trụ trên một vài yếu tố hay một vài
loại ánh
sáng nơi
một xa luân
(canal central
–
kênh trung tâm,
huyệt vị)
đặc thù nào
đó. Khi tu phép sổ tức, thì cách hữu
dụng là (vừa đềm hơi thở) vừa
quán ánh sáng
tỏa chiếu trên phần đầu của mình. Tóm lại, người ta cho
rằng, khi
tâm thức lắng xuống và lỏng lẻo, thì tốt nhất là ta nâng đối tượng thiền quán lên, và
khi tâm
thức hưng phấn, thì ta đưa đối tượng đi xuống. Liệu pháp này
cần được xem trọng khi ta ở trong trạng thái thiền tư.
Hỏi: Ngài có
lời khuyên
nào cho
những bậc
cha mẹ vào thời điểm này, con gái mới bảy tuổi của họ bị ung thư
não và đang phải điều trị tại Luân Đôn?
Đáp:
Hãy tin rằng, những bậc cha mẹ đều hoàn toàn
muốn nhờ đến y học can thiệp để chữa
khỏi bệnh cho con mình. Trong một vài trường hợp, ta nên ứng dụng
các kỹ thuật
thiền định, như
trì chú, và quán tưởng (hồi hướng cho con
mình),
thế nhưng, dù các pháp
này
có
hiệu
quả hay không, thì
chúng
còn tùy vào những yếu tố quan trọng khác nữa. Nếu những ai có đức tin vào Đấng sáng tạo, thì họ nên
nghĩ đến những
gian nan như thế là do
Chúa an bày và nhờ
vậy mà họ
được thảnh thơi.
Yếu tố quan trọng hơn hết
là em bé
đang bệnh kia,
cần được giữ
cho tâm thức an bình. Bên cạnh
những điểm ấy, ta
còn nhờ đến những
tiến trình thể nghiệm, đó mới thật sự là điểm gian khó. Có lẽ
ta đã nghe rằng, khi mà nghiệp
quả đã
thành thục, thì nó không dễ gì bị đảo ngược.
Hỏi: Thưa Ngài,
ta đã cho
rằng, hành
trình xa
thẳm của con đường tâm linh,
niềm tin là
cứu cánh.
Vậy, tác nhân
thật sự của niềm tin là gì?
Đáp:
Nói chung, niềm tin có ba phạm trù. Thứ nhất,
tin bằng sự
cảm phục trong sáng hay
chánh tín (la foi
fondée sur l’admiration – tin bằng sự khâm
phục), tin để được những phẩm chất an lạc hay gọi là lạc tín (foi-émulation)
và
niềm
tin trên cơ sở tội
báo (la foi fondée sur la
conviction) – tức
tin nhân quả. Và trên hết là mở ra con đường tự chứng. Khi lý chứng được bạn
tư duy thâm
thúy,
thì chắc chắn
rằng, niềm tin của bạn càng lúc càng tăng trưởng, nhờ thế mà niềm tin càng trở
nên kiên cố - Tâm chứng.
Cũng
như những thể nghiệm tâm linh khác, niềm tin
phân thành hai phạm trù cốt lõi: loại thứ nhất là loại
đốn tín
– niềm tin xảy ra nhanh chóng và bất ngờ và loại thứ nhì là tiệm tín, tức là niềm tin được cố gắng
tích lũy trong một
thời gian dài. Đây là loại niềm tin kiên
cố hơn hết,
tuy nhiên những chứng nghiệm vô nhân (đốn nghiệm), vốn luôn lợi lạc. Do vậy, cách tốt nhất là khi
trạng thái đốn nghiệm xuất hiện,
thì lúc đó bạn
nên nắm lấy nó bằng một nỗ lực thích đáng.
Hỏi: Theo tôi, để hiểu thấu những mức độ
tu tập khác biệt là rất khó,
vậy,
pháp môn
đơn giản nào để tôi có thể tu
tập nhuần nhuyễn?
Trả lời: Nói chung,
“pháp môn” chủ yếu mà tôi thường nhắc đến: nếu có thể, bạn nên giúp đỡ người
khác, còn không, thì bạn đừng làm hại họ. Trong Phật giáo, pháp tu chủ yếu của
Thanh Văn Thừa, chính là hạnh nhẫn nhục – khuynh hướng chiến
thắng lòng
sân hận hay chiến thắng những nguyên nhân làm người khác khổ đau, còn tinh tủy của
giáo pháp
Đại Thừa là hạnh từ bi
– giải thoát chúng sinh
(l’aide apportée à autrui – mang lại lợi lạc cho người khác). Liên hệ đến những giai đoạn tu
hành, thì giai đoạn thứ nhất là ngăn nghiệp ác bằng
cách tu
thập thiện (dix non-vertus –
ngăn chận mười điều phi đạo đức hay tu mười
hạnh lành) và rồi ta
phát nguyện tu hành trên
cơ sở
thập thiện này; sau
đó người ta
có thể tinh tấn tu
tập bi
tâm và
phát nguyện làm cho thiện hạnh này bao la hơn nữa.
Hỏi:
Liệu ta có thể chan hòa tình yêu mà ta đã chứng
nghiệm (trải qua)
bằng
sự trai tâm (équanimité – sự thanh thản) cho riêng một cá nhân nào đó hay không,
chẳng hạn
như sự chan hòa tình yêu trong hôn nhân?
Hoặc ta chỉ
có thể
phát triển việc thanh thản
khi nào ta tách ly
khỏi
những
ngã
sở (engagement personnel – bám
chấp cá
nhân)
của
mình?
Đáp: Trên giai
đoạn tu
hành ban
đầu, tình
yêu mà
ta nếm trải có
rất nhiều mức độ: tình
yêu mạnh nhất là tình yêu
dành cho
những người hiện giờ mà
ta thân thuộc và kém hơn
cho những ai
ở xa
ta. Thế nhưng, qua công phu tu
tập và
dần dần tiến bộ, thì
lòng yêu thương của hành giả được rải đều cho
tất cả chúng sinh (tình
yêu từ
công phu tu
tập của
hành giả dành cho tất cả chúng sinh là bình đẳng).
Một tình yêu trai tâm (thanh tịnh) như vậy,
chỉ có
thể hình
thành
trong tương lai mà thôi. Như tôi đã đề cập, trong giai đoạn ban đầu tu
tập tình
yêu, đại bi, lòng tin
và những phẩm chất khác, thì chúng đều có trộn lẫn ít nhiều các chất liệu phiền
não nữa.
Hỏi: Khi một tư tưởng tốt (tích cực) đi
cùng một hành vi
xấu, liệu đó có phải là nghiệp quả
thắng hơn không?
Đáp: Hệ quả phụ thuộc vào hai loại
nghiệp trên thời điểm thực hiện hành vi và cũng trên
mức độ của động cơ trước khi tiến hành tạo nghiệp – Hệ quả của nghiệp quy mô như
thế nào tùy vào lĩnh vực của động cơ. Trên thực
tế, có những trường hợp mà trong
đó động cơ có năng
lực quá lớn
mạnh, còn có những trường hợp khác, mà tình huống xúc tác
mạnh hơn
so với diễn tiến thật sự
của nghiệp: ta đang nói đến đối tượng và thời gian.
Hỏi:
Người ta thấy là rất nhiều Phật tử đang lo âu khi
nghe những tăng
sĩ phạm giới (le maîtres
Bouddhists qui transgressent régulièrement certains préceptes), chẳng
hạn, họ cho rằng, người ta được phép
uống rượu, quan hệ tình
dục với những
thành viên trong các cộng đồng tâm linh của
mình v.v..Có thật sự là những
tình
huống
này
xuôi ta
phạm
giới
chăng?
Đáp: Để thuần thục dòng tâm tương tục
của mình, những bản kinh dạy về
Bồ-Tát thừa mô
tả cho ta nhận thức được các pháp tu gọi là
Lục Độ Ba-La- Mật hay gọi là sáu trạng thái hoàn thiện: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định và trí tuệ
- Để độ sanh, ta có bốn pháp tu –
cúng dường tài vật làm phương tiện khuyến tu cho một ai đó, nói lời từ ái để
hướng dẫn họ đạt tới một đời sống tốt đẹp và thật sự thoát khỏi luân hồi như thế
nào,; khiến cho người tu
học đắc hạnh lành và
thoát khỏi những tập khí gây khổ quả, phản tác
dụng, (faire en sorte qu’ils adoptent
dans leur propre
pratique ce qui est vraiment bénéfique et écartent de
leur comportement ce qui
est finalement néfaste) và cuối cùng là truyền cho người khác trạng
thái tự chứng của mình. Tuy nhiên
bốn hạnh
này cũng là
phương tiện để hành
giả đạt tới thiện quả. Do vậy,
khi người ta là một bậc
đạo sư, thì
ít ra,
người ta
phải trải qua những quá trình tu học như vậy. Xét trên ý nghĩa chung,
ta có thể thấy rằng, vô công dụng hạnh là một phẩm chất không thể thiếu của một người. Nói rõ hơn, nếu như ta nhận ra trong tu
pháp “giáo
tha” của một ai đó mà nội hàm mâu thuẫn, thì do người đó kém phẩm chất
trên bước đường tu hành.
Theo
truyền thống, điểm cốt lõi cho người tu học là
cần hiểu biết về những phẩm chất
(công đức - qualification) của một bậc đạo sư (guru) trì giới mà đức
Phật đã tuyên thuyết trong luật tạng cũng như trong Mật thừa
(tantra) và đó là điều nhằm xác quyết
là vị ấy
có hay không những đức tính này. Cũng
vậy, nếu một ai nguyện trở thành đấng Lama hoằng pháp độ
sanh (un
Lama enseignant à autrui),
thì người đó phải học những đức tính như đã nêu và trau dồi viên
mãn chúng (traveiller à leur accomplissement).
Trong
Mật thừa, người ta cho rằng, một khi mà những
hành giả đạt tới sự thực chứng tối
thượng, thì họ
có thể ứng hiện
(recourir) những phẩm hạnh phi thường
(modes de comportement sortant de l’ordinaire). Ngưỡng
xác định tu thành tuệ giác của Mật thừa (Mật
tuệ) qua các ứng
hiện siêu việt là
ngưỡng
cho biết rằng vị
ấy đã “chứng tánh” (réalisation de la
capacité
–
thực chứng năng lực siêu việt). Ý
nghĩa của
chứng tánh là gì? Nhà đại hiền giả Druk
Kagyupa
và
nhà thông thái Padma Gar Bo lý giải rằng, sự chứng tánh này hàm ngôn cho bậc
Du-già đạt tới quyền năng từ thần
lực Du-già
để
có
thể
nhiếp phục kẻ bất tín (la perte de
confiance – kẻ
đánh mất lòng tin đối với Mật
thừa) bằng cách ứng
hiện (manifestion) những
hành tướng
(activité) như vậy. Chẳng hạn, như trường hợp đạo sư
Tilopa đã
hóa hiện thần thông để nhiếp phục
Nāropā, một môn đồ
của mình – kẻ đã bị
đánh mất đức tin –
bằng những hành tướng diệu kỳ.
Những hành tướng đặc thù như thế,
chỉ có thể thành
tựu bằng sự
“chứng tánh” mà thôi. Đối với một Lama vô thực
chứng, thì chắc chắn rằng, những
hành vi phi thường của vị ấy là những giả tướng từ một vị thầy nào
đó, nói một
cách đơn giản,
gần sau lưng ông ấy
vẫn cứ
là một vách tường ngăn ngại mà thôi.
Hỏi:
Xin ngài vui lòng giải thích về bản chất liên kết
(duyên khởi - connextion) giữa một hành vi đã được thành
hình từ nhiều
đời trước với nghiệp
quả mà ta đang phải nếm trải do một
tai họa tự nhiên,
như
tai họa do sét đánh? Có phải cái thức, dòng tâm tương tục
hiện giờ
của chúng ta tạo ra tia chớp này hay không?
Đáp: Trong câu hỏi về
nghiệp này,
thì câu
trả lời hợp lý để ta có thể nhận ra rằng, nói
chung, nhân lành sẽ gặt quả lành, bởi vì đó là bản chất của nhân quả. Tuy nhiên,
khi ta muốn tìm hiểu vì sao mà
một nghiệp hoàn thành (thành tựu) trên một thời điểm cụ thể mà nó lại tạo ra
nghiệp quả như thế vào một thời điểm khác như vậy, thế thì người ta đang ở giữa nơi mà những
tác tố này lại quá tinh vi, cho nên để hiểu thấu (nhân quả) là một điều vô cùng
khó. Trong thí dụ
về con người bị sét đánh, ta có thể dùng đến bốn hình thái mà tôi vừa nêu:
một là, cốt ở khảo sát bản chất của đối tượng để thấy rằng, đối tượng ấy không
do nghiệp tạo ra mà do chính bản chất của đối tượng ấy, nó đã tạo ra như thế.
Chẳng hạn, nhiệt và
tính năng của sự cháy
đều thuộc về bản chất
của lửa; sự ướt và
tính năng
của ẩm, đều thuộc về bản chất của nước. Cũng
thế, tia chớp, hoặc mọi hiện
tượng khác,
được sinh ra
bằng hệ
thống chồng chéo của những yếu
tố cấu thành thế giới này, thế nhưng,
trong tình huống xấu của người bị thiên tai này (người ta đã chạm đến sự ngẫu
hợp của những hoàn cảnh, ở
đây, gọi
là bất định nghiệp), đấy là
do
luật của nghiệp (trường hợp này, nói theo kinh, chỉ có Phật mới hiểu thấu mà thôi). Quá nhiều nét đặc trưng tương tợ mà ta cần phải
khám phá.
Hỏi: Vì sao mà những Phật tử chân chánh
nguyện tu hạnh “bất sát” mà họ lại có thể hưởng thú vui ăn mặn (phạm tội giết
hại gia cầm, chim cá để ăn thịt) cho được?
Đáp: Bạn đang đặt ra một câu hỏi cực kỳ
quan trọng. Nói chung, trong Luật Tạng (l’éthique Bouddhiste/ Vinaya) không cấm ăn thịt. Trên một ý nghĩa nào đó, Tăng sĩ (có cả
Ni) là những người xuất
gia khất thực độ sinh, do vậy, khi
khất thực, họ không yêu cầu một sở thích nào cả, chẳng hạn, họ không
thể nói
“tôi thích
thế này,
tôi muốn loại thức ăn kia”,
(nghĩa là ai bố thí cái gì thì họ ăn cái đó). Hơn mười lăm năm về trước, tôi có
đặt vấn đề này với một vị sư người Sri Lanka, ông nói với tôi một cách nghiêm
túc rằng, tu Phật không nhất thiết đặt ra vấn đề chay hay mặn.
Trong Bồ tát thừa, điểm nhấn mạnh chung là nên
ăn chay; hầu như không ăn thịt được cho là thích hợp nhất
và rất
nhiều cộng đồng Phật giáo Nhật Bản đều thực
hành ăn
chay nghiêm túc
(ăn chay
trường –
un végétarisme strict). Theo tôi ăn chay là
đúng đắn. Và sau hết, trong
Mật thừa, có ba giáo
chỉ tantra
cấp thấp – Nghiệp tantra, Thành tựu tantra và Du-già tantra –
cả ba tantra
này đều cấm ăn thịt, thế
nhưng trong tantra tối thượng, thì không cấm ăn thịt (vì những hành giả
này đã đạt được sự tự tại trong sắc và tâm pháp rồi).
Những gì vừa nêu là giáo chỉ
chung của Luật tạng
(Traité l’éthique), Kinh thừa
(véhicule des soutra) và Mật thừa (véhicule des Tantra). Tuy nhiên, điều đặc biệt hơn hết là
ta không
nên giết hại thú
vật để nuôi dưỡng bản thân mình. Chẳng
hạn, trong khu chợ, thịt bày bán sẵn rồi, chỉ việc mua về mà ăn, còn nơi thịt
không bày sẵn, ta lại nói, “tôi muốn ăn thịt”, quả là
không thích
hợp – (thịt cá dành cho
chợ búa, chẳng thể có trong chốn thiền lâm).
Tốt hơn hết là
nên ăn chay. Bản thân tôi bắt đầu ăn chay từ
năm 1965
và sau
hơn gần
hai năm, tôi bị nhiễm bệnh vàng da, được bác sĩ
khuyên là nên ngưng ăn
chay. Tuyệt vời thay hạnh ăn chay
trường! Tôi rất ấn tượng khi
nghe đài
BBC nói rằng, (ở Mỹ), số
người ăn chay
đang có
khuynh hướng phát triển. Đây là một tin tức đáng mừng.
Hỏi:
Ngài đã nói rằng, thỏa cơn giận dữ (để cơn giận
hiện hình) là phép tu tồi. Vậy, tôi kết
luận là ngài
muốn
nói rằng, không nên sân
với những ai hay đối
tượng nào chống lại mình. Tuy nhiên, một số hệ thống
phân tâm học biện hộ cho sự
nổi giận đối
với những đối tượng
trơ lỳ, như cái gối
hoặc tường vách
nhằm phóng thích năng lượng dồn nén bên trong của người
sân hận. Thưa ngài, kỹ thuật này lợi hại như thế nào?
Đáp:
Về cơ bản, nếu để sân hận “bùng phát” là hoàn
toàn tai hại. Tuy nhiên, nếu
bạn không chú ý thực hiện phòng
hộ,
chẳng hạn, trau dồi lòng bi, tình
yêu thương, thì sân hận
sẽ bùng phát. Do vậy, chủ
yếu là ta nên
làm cho nó co rút
lại. Một người bạn
tôi cho rằng, khi mà sân hận phát tác đầy đủ đến độ bạn
không thể chịu đựng được,
thì đó là lúc bạn
tự đánh đập mình.
Do
vậy, theo tôi, nén giận và buông xả là
tuyệt vời hơn cả.
Ở đây, người
hỏi vừa đề
cập đến việc “phóng
thích năng lượng” trên những vật vô tri theo quan điểm phân tâm học.
Theo tôi, “phóng
thích” trên cái gối
là tốt nhất, vì nó không quá cứng!
Dưới một vài tình huống đặc
biệt,
sân
hận có
thể
cho phép
thành hình, nhưng đừng
với
chúng
sinh.
Hỏi:
Một vài người trong chúng tôi đã nói không đúng
sự thật là vì
một công việc nào đó,
để đi đến
đây dự pháp hội
này và được
công đức từ
giáo chỉ của ngài. Liệu
thiện
nghiệp tu học đó có làm
giảm đi
(chống
lại được) nghiệp xấu là nói
(láo)
không
đúng sự
thật?
Đáp: Điều đó phụ thuộc vào bao
nhiêu công
đức mà ta đã tích tập được. Nếu như bạn thực hành cụ thể giáo pháp
và nhờ thế mà bạn thu hoạch được một cái gì đó cho cách sống của
mình, thế nên rất đáng bõ công. Có công đức hay không còn tùy vào những yếu
tố như vậy.
Trong viễn cảnh Phật
giáo, nói như Tịch Thiên
(Śāntideva), những suy xét quan trọng nhất
chính là suy xét về nghiệp quả của chúng ta (nghiệp quả của chúng ta là cái cần
nên khảo sát). Ta phải
xác định cái
gì cần
làm và cái gì không nên làm nhằm
xác định cái gì sẽ phải thành tựu một cách đầy hiệu
quả. Y trên
sự phân tích như thế, những nghiệp
nào được luật tạng nghiêm cấm, chẳng những ta nên tuân thủ, mà còn phải khuyến
tấn dưới một vài nhân duyên (circonstance): chúng cần phải được nghiêm trì, nếu
như chúng mang lại công đức (lợi lạc). Đúng như trong liệu pháp của y khoa, thậm
chí những liệu pháp khác nhau có thể được cùng một người dùng khi tính chất của
bệnh lý bị thay đổi, cũng vậy, trong tiến trình tịnh hóa tâm thức, những hoàn cảnh đổi thay
hoặc trên các chặng đường mà
người ta
có thể
cần đặt ra
cách ứng dụng những kỹ thuật khác nhau.
Tuy nhiên, hãy trở lại với chủ đề của chúng ta.
Pháp Hiền cư sỹ dịch