Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Một trong những vấn đề cổ xưa nhất thách thức nhân loại
là câu hỏi về đời sống sau khi chết. Chúng ta đã từ đâu đến và sau khi chết sẽ
đi về đâu? Cùng với đó chúng ta tự hỏi mục đích của đời sống tốt là gì. Trước
hết, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng sống tốt thì khó hơn sống xấu và nếu
không có những lý do thật sự tốt chúng ta dĩ nhiên sẽ thích làm điều dễ. Theo
suy nghĩ của tôi, đây là lý do tại sao các tôn giáo có mặt và đi cùng với chúng
là những khái niệm về thiên đường và địa ngục. Hành xử tốt được hứa hẹn có được
phúc lạc vĩnh cữu ở trên thiên đường trong khi hành xử xấu ác bị cảnh báo với
một sự trừng phạt vĩnh cữu ở một nơi chốn khác. Với vũ khí song đôi hứa hẹn và
đe doạ như vậy, con người buộc phải hành xử theo một cách thức mà nó đem lại lợi
ích cho xã hội.
Tuy nhiên, ở một mức độ phát triển tâm thức cao hơn và
sự trưởng thành về tinh thần người ta được thôi thúc sống một cuộc đời cao quý
vì nó nâng cao phẩm giá của họ và việc hành xử đúng đắn mang lại những phần
thưởng của chính nó. Để làm điều này con người được hướng dẫn phát triển một sự
hiểu biết đầy đủ về bản chất hiện hữu của họ và nhận thấy rằng khả năng cao nhất
của họ không phải vì sợ hãi sự trừng phạt mà bởi hạnh phúc chân thật dài lâu có
được từ việc theo đuổi một lối sống cao quý. Mục đích của lời dạy này là khuyến
khích người ta sống một đời sống lương thiện cho chính họ và điều này một cách
tự nhiên bảo vệ và đảm bảo lợi ích của những người xung quanh.
Phương pháp thứ hai này là điều Đức Phật dạy. Theo Đức
Phật, việc chỉ hành xử theo những luật lệ tôn giáo để vào thiên đường là không
đủ. Người ta phải tu tập tinh tấn để phạt triển tâm thức định tĩnh, bởi vì tất
cả hành động có gốc rễ ở nơi tâm. Chính bằng sự kiểm soát tâm mà ta có thể kiểm
soát những hành động của mình. Khi tâm và thân được cân bằng hòa hợp, sự hiểu
biết chân thật đưa đến hạnh phúc tối thượng có thể đạt được.
Theo Đức Phật thiên giới (thiên đường)
và địa ngục không phải là những nơi chốn mà con người được ký thác sau khi chết,
mà là những thái độ của tâm thức điều ta có thể kinh nghiệm ngay bây giờ. Nói
một cách đơn giản, nếu có hạnh phúc thì bạn đang ở cõi thiên đường, những nếu
đau khổ thì bạn đang ở trong địa ngục. Tất nhiên là nó không chỉ đơn giản như
vậy. Vậy chúng ta hãy tự hỏi thiên đường và địa ngục có nghĩa là gì.
Chúng ta hãy giải thích bản chất của địa ngục và thiên
đường bằng việc sử dụng tri thức thông thường mà không tùy thuộc vào niềm tin,
các truyền thống hay kinh sách. Chúng ta không nên tùy thuộc vào các truyền
thống, tín ngưỡng hay kinh sách để hiểu chân lý. Tất nhiên, có một số hướng dẫn
ở trong các cuốn sách tôn giáo. Nó tùy vào cách chúng ta giải thích khái niệm
này. Một vài người tin rằng có những thiên đường và địa ngục vĩnh hằng. Vì vậy
theo họ, những người nào không theo tôn giáo của họ thì không có cơ may hưởng
được sự vui sướng trên thiên đường hay thoát khỏi địa ngục. Trên cơ sở này,
dường như rằng họ nắm giữ một sự độc quyền duy nhất về thiên đường. Nhưng quan
niệm của Phật giáo đối với vấn đề này là hoàn toàn khác. “Dù chúng ta có nhãn
hiệu tôn giáo hay không, không có sự khó khăn nào đối với chúng ta để trải
nghiệm niềm vui thiên đường nếu chúng ta sống một cuộc sống cao quý và hợp lý”.
Theo Đức Phật, thiên đường không dành riêng cho những thành viên của một tôn
giáo cụ thể nào; nó mở rộng ra cho bất kỳ ai có thể sống một đời sống cao quý.
Một số người đến làm chúng ta sợ hãi khi nói rằng chúng
ta sẽ mất cơ may sinh về thiên đường nếu chúng ta không theo tôn giáo của họ.
Cách khác, họ cố đe dọa chúng ta bằng việc nói rằng chúng ta sẽ bị đọa vào địa
ngục nếu chúng ta không chấp nhận tôn giáo của họ. Đây là họ cố truyền bá tôn
giáo của họ bằng việc tạo ra nỗi sợ hãi trong vô minh. Những Phật tử của hơn
2.500 năm qua không hề chọn thủ đoạn này để truyền bá Phật giáo. Đức Phật cũng
không giới thiệu thiên đường để tạo nên sự cám dỗ; Ngài cũng không tạo nên sự sợ
hãi về địa ngục để khoách trương Phật giáo. Ngài cũng không khước từ rằng mục
đích của các Phật tử là sanh lên thiên giới hưởng phúc lạc. Nhiều nhà tôn giáo
hứa hẹn với người khác rằng họ sẽ đạt được mọi thứ sau khi chết nhưng những nhà
tôn giáo này không có nhiều điều để cung cấp cho đời sống hiện tại. Họ nói chung
khuyến khích tín đồ của mình cam chịu nỗi khổ ở đây, bởi vì không điều gì có thể
thực hiện được, nhưng họ đưa ra nhiều lời hứa về hạnh phúc vĩnh hằng ở thiên
đường. Họ sẵn sàng đưa ra những lời hứa như vậy bởi vì họ biết rất rõ rằng không
có người nào sẽ trở lại từ thế giới bên kia để tường thuật với họ rằng không thể
có được những điều mà những nhà tôn giáo đã hứa hẹn.
Trong suốt thời Đức Phật, một số người muốn hưởng được
những phúc lạc thiên giới sau khi chết, đã đến gặp Phật và nói với Ngài rằng là
người tại gia họ thấy khó để sống một đời sống tôn giáo thuần túy. Là những
người thế tục, họ muốn những thú vui trần tục và khẩn cầu Ngài giảng giải cách
để có được hạnh phúc mà không xoay lưng lại với thế giới vật chất. Thế rồi Đức
Phật đã hỏi: “Tại sao bạn phải chờ đợi để trải nghiệm phúc lạc thiên giới sau
khi chết? Bạn có thể trải nghiệm phúc lạc thiên giới trong khi đang sống ở thế
giới này”. Nếu bạn biết cách điều khiển đời sống theo một cách thức đúng đắn,
bạn có thể trải nghiệm phúc lạc thiên giới ở đây cũng như sau khi chết.
Có những bản kinh tương tự khác ở đó Đức Phật đã thuyết
giảng về đời sống thiên giới này. Về khái niệm địa ngục, Ngài cũng đề cập trong
một bản kinh rằng chúng ta không nên nghĩ rằng địa ngục là ở một nơi nào đó dưới
quả đất này, ở dưới đáy đại dương hay dưới đáy của Maha Meru (một núi đá huyền
bí được cho là lớn nhất ở cõi đời này). Trong ngữ cảnh Phật giáo, thiên đường và
địa ngục không phải nằm ở một khu vực cụ thể cũng không phải một nơi chốn do một
ai đó tạo ra sẵn. Khi người ta nói về thiên đường và địa ngục, họ nói rằng thiên
đường là ở trên và địa ngục là bên dưới. Nhưng nếu chúng ta đào quả đất này
xuyên thủng sang bên kia, tôi nghĩ sẽ không thể tìm thấy địa ngục.
Theo Đức Phật, mọi người có thể trải nghiệm phúc lạc
thiên giới nếu tâm của vị ấy luôn an trú vào bốn nơi thiêng liêng ở trong chính
đời sống này, đó là Bốn Phạm trú (Brahma Viharas) từ, bi, hỷ và xả. Để có hạnh
phúc người ta phải phát triển Chánh kiến để có thể thấy rằng chúng ta chỉ tồn
tại ở trong mối liên hệ với tất cả những loài sống khác. Điều này có nghĩa rằng
để hạnh phúc người ta phải đảm bảo hạnh phúc và lợi ích của kẻ khác.
Khi chúng ta thực hành tâm từ (metta), chúng ta làm
tràn khắp toàn thể vũ trụ, bắt đầu với chính chúng ta, với tình thương vô ngã
thuần tịnh không phân biệt. Chúng ta cũng phát khởi tâm bi (karuna) đối với
những người kém may mắn sau đó chúng ta làm việc một cách tích cực và không
ngưng nghỉ để làm giảm đi nỗi đau khổ của họ. Sau đó chúng ta hoan hỷ (mudita)
với hạnh phúc mà người khác có được bởi việc làm như vậy sẽ giúp chúng ta xóa bỏ
những cảm thọ ganh tị và ác tâm độc hại. Nhưng điều cao nhất trong số những
trạng thái lợi ích tích cực này là tâm xả (upekkha), nơi tâm không còn bị ảnh
hưởng bởi bất kỳ những cảm thọ tích cực hay tiêu cực mà vô cùng tĩnh lặng, sáng
suốt và bặt dứt phiền não. Những ai sống được ở trong bốn trạng thái này có thể
được nói là đang sống trong cõi thiên giới ở trên mặt đất. Tất nhiên những người
sống trong những trạng thái ngược lại là tham, sân, si.v.v… thì đang sống trong
địa ngục ở trên trái đất này.
Thường người ta sáng tạo ra những cõi thiên đường tưởng
tượng tùy theo những nhu cầu thế gian của họ. Xa xưa, những người sống ở những
sa mạc cũng có niềm tin của họ vào thiên đường và địa ngục. Họ mô tả thiên đường
như là một nơi ở đó họ có thể thưởng ngoạn những thác nước đẹp. Đối với họ,
thiên đường cung cấp cho họ những thứ (nước, sự mát mẻ, cây xanh) mà họ thiếu ở
trong đời sống này. Đối với những người Anh-điêng da đỏ, thiên đường là một bãi
săn bắn thích thú mà ở đó họ có thể săn bắn bất kỳ con thú nào theo nhu cầu của
họ. Điều này là lẽ thường bởi vì họ có sự khó khăn trong việc săn đủ số thú cho
nhu cầu tồn sinh hằng ngay của họ. Khi những người Tây Tạng trải qua mùa đông ở
Hy Mã Lạp sơn, khổ sở mà họ đối diện được mô tả như là địa ngục. Đối với họ, sự
ấm áp hay lửa là thiên giới. Bây giờ tôi nghĩ bạn có thể hiểu cách người ta đã
sáng tạo nên những hình ảnh thiên đường và địa ngục theo những nhu cầu trần tục
của họ như thế nào. Bản năng của chúng ta là mong muốn điều tốt lành và thoát
khỏi điều xấu ác. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng Đức Phật không phủ
nhận sự hiện hữu của một thiên giới và địa ngục. Nhưng không giống như một số
người tin rằng thiên giới và địa ngục là những vị trí cụ thể, Phật giáo cho rằng
thiên giới và địa ngục không ở nơi một khu vực cụ thể, mà ở nơi “những mức độ
hiện hữu” khác nhau. Phật giáo phân loại tất cả mọi sự hiện hữu ở trong thế giới
này và thế giới khác vào trong 31 trạng thái, mà chúng được gộp vào những nhóm
khác nhau.
Đầu tiên trong những nhóm này là: địa ngục, ngạ quỷ và
súc sinh, là những chúng sanh ở trong một trạng thái khổ đau theo những cách
thức khác nhau. Sau đó có đời sống loài người, sáu loại thiên giới mà ở đó chúng
sinh hưởng được những lạc thú giác quan hơn những chúng sanh khác. Nhưng chư
thiên (hay những chúng sanh của ánh sáng) ở trong các cõi trời tập trung nhiều
vào lạc thú hơn là vào phát triển tâm linh. Trong số các cảnh giới này, sanh vào
cõi người là đáng mong muốn nhất. Bởi vì may mắn có được một tâm thức phát triển
cao và cơ hội quán sát cả khổ đau và lạc thú cũng như cái chết, sự thối rửa và
bệnh tật, con người có thể hiểu sâu hơn về sự thật của lời dạy Đức Phật.
Tất cả những tôn giáo khác đều nói về thiên đường và họ
nói rằng thiên đường là vĩnh hằng hay bất diệt. Nhưng Phật giáo không đồng ý với
niềm tin rằng có một cõi thiên đường vĩnh hằng dành cho con người để trải nghiệm
lạc thú của họ mãi mãi bởi vì mọi thứ là vô thường. Trái lại theo Phật giáo, có
sáu loại thiên giới (Devaloka). Lối sống của họ và lạc lạc thú mà họ hưởng là
cao hơn nhiều so với cảnh giới con người. Tuy nhiên, mặc dù họ hưởng được những
lạc thú giác quan cho đến mức tối đa, họ không thoát khỏi tham, sân, ganh tị và
lo âu bản thân.
Phật giáo nói rằng người sanh vào một trong các cõi
trời là nhờ vào thiện nghiệp của họ được tích luỹ trong những kiếp làm người
trước đây của họ. Tái sanh xảy ra trong những hình thức hiện hữu khác nhau là
tùy vào nghiệp lực của chính họ mà không do sự ảnh hưởng của bất kỳ đấng siêu
nhiên nào. Nhưng không ai có thể ở mãi trong những cảnh giới này bởi vì năng lực
thiện nghiệp của họ thì có hạn và khi nó cạn kiệt họ phải xoay chuyển theo
nghiệp tích luỹ trước đó. Do đó Phật giáo nói rằng thiên giới và địa ngục không
phải là những nơi chốn vĩnh hằng mà chúng sanh có thể thọ hưởng hay gánh chịu
mãi mãi.
Nhiều học giả, triết gia, khoa học gia, những người duy
lý và những nhà đại tư tưởng cũng không đồng ý với niềm tin về một sự hiện hữu
vĩnh hằng. Triết gia Tây phương nỗi tiếng – Julian Huxley, đã giễu cợt niềm tin
này bằng việc nói rằng: “Làm cách nào chúng ta có thể tin rằng có một cõi địa
ngục vĩnh hằng do một Thiên Chúa tạo ra để trừng phạt sinh linh mãi mãi vì một
lỗi lầm mà người ta phạm phải? Họ có thể biện minh điều này bằng cách nào? Hãy
trao cơ hội khác cho con người khốn khổ này để cố gắng lại. Làm sao một vị Chúa
có thể kết tội một người mãi mãi theo cách thức này?”.
Có nhiều cách thức mà ở đó những người ngây thơ bị biến
thành nô lệ đối với niềm tin tôn giáo của họ bằng sự đe dọa trừng phạt ở trong
địa ngục. Chúng ta hãy xem xét một số những cách thức này.
Có một số người tin rằng vào những nơi thờ phụng của
tôn giáo khác hay tỏ lòng tôn kính đối với người sáng lập nên tôn giáo đó là một
tội lỗi và do bởi điều đó họ sẽ bị đọa vào địa ngục. Sao những người đó có thể
tạo nên tội lỗi khi họ không hề làm bất cứ điều gì để làm hại kẻ khác và không
bao giờ làm ô nhiễm tâm thức với sự ganh tỵ, sân hận hay bất kỳ những suy nghĩ
xấu ác khác. Như vậy bằng cách nào những người lãnh đạo của họ có thể biện minh
luận cứ rằng họ đã phạm phải tội lỗi nên đọa vào địa ngục? Nếu họ nói rằng Thiên
Chúa của họ giận giữ nếu tín đồ của ngài đến và kính trọng vị Chúa khác hay một
nhà sáng lập tôn giáo khác, làm sao họ có thể khẳng định rằng vị Thiên Chúa này
là nhân từ và khoan dung? Không lẽ nói rằng vị Thiên Chúa này có lòng ganh tị
giống như một người phàm phu?
Họ cũng dạy rằng những người sống một đời sống đáng
kính bằng việc gìn giữ tất cả những phẩm hạnh và những phẩm chất đạo đức và phục
vụ người khác bằng mọi cách thức có thể sẽ không có cơ may sanh về thiên đường
nếu họ không tin vào Thiên Chúa của họ. Có hợp lý không khi nói rằng bất luận
người ta hành xử thế nào chăng nữa, họ chắc chắn được lên thiên đường nếu họ chỉ
tin vào Thiên Chúa và cầu nguyện ngài. Những người bị chinh phục bởi những lời
dạy phi lý như vậy, theo đó tình cảm tôn giáo của họ sẽ bị lung lay. Họ thay đổi
tôn giáo của mình mà họ đã đang thực hành nhiều thế hệ và chuyển sang tôn giáo
khác với niềm tin rằng họ có thể được “cứu rỗi” một cách kỳ diệu. Họ không chịu
động não xem những lời xác quyết này có thực tiễn và hợp lý hay không. Đây là lý
do tại sao người bệnh và người già thường bị cải đạo vào lúc sắp chết. Không
biết về bản chất thật của hiện hữu, họ sợ hãi cái chết, nên dễ dàng thuyết phục
rằng họ có thể lên thiên đường nếu họ chấp nhận một tôn giáo cụ thể, rằng tội
lỗi của họ vì một lý do nào đó sẽ “mất” đi.
Họ có lẽ nghĩ rằng đời sống của họ nằm ở nơi lòng nhân
từ của một vị Thiên Chúa và họ không có cách gì để quyết định nên đời sống tương
lai bằng nỗ lực và hiểu biết của chính họ. Phật giáo dạy chúng ta cách quyết
định đời sống tương lai của chúng ta theo cách sống, những tư tưởng, lời nói và
hành động tốt và xấu của chúng ta, mà không tùy thuộc vào bất kỳ những tác nhân
nào bên ngoài, và cũng chịu trách nhiệm về đời sống của chúng ta với sự tin
chắc. Một người theo chủ nghĩa duy lý gốc Mỹ, đã sống cách đây khá lâu, từng nói
rằng theo sự quán sát của ông, ông thích địa ngục hơn là thiên đường, bởi vì
quan niệm được duy trì bởi một số nhà tôn giáo rằng tất cả những người trí thức,
học giả, khoa học gia, những nhà tâm lý học, những nhà tư tưởng tự do, bao gồm
cả Đức Phật, đều ở trong địa ngục vì họ không tin vào Thiên Chúa. Ông nói rằng
trong trường hợp đó, nếu ông tình cờ lên thiên đường, ông sẽ cảm thấy lạc lõng ở
một nơi chốn mà ở đó không có những người trí thức, và cõi thiên đường sẽ là một
nơi chốn rất tăm tối. Đến mức ông lo lắng cõi thiên đường là một nơi chỉ dành
cho những người muốn hưởng những dục lạc trần tục mà không sử dụng đến trí não.
Phật giáo chắc chắn không xem một đời sống kiếp sau ở thiên giới như là mục đích
quan trọng nhất của đời người hay như một nơi chốn mà ở đó con người có thể có
sự nghỉ ngơi vĩnh cữu.
Vượt qua khỏi đời sống trần gian này, có một sự phân
loại các chúng sanh được gọi là chư thiên (deva), những chúng sanh trải nhiệm sự
bình an, thảnh thơi và trải qua một chu kỳ sống hết sức lâu dài ở trong những
cõi trời. Họ được biết như là các Phạm thiên (Brahma) ở trong cõi thứ 16 của các
Phạm thiên giới. Họ đã giảm bớt tham ái đối với những lạc thú giác quan đến một
mức độ đáng kể và trải nghiệm nhiều hơn sự bình yên mà họ đã phát triển trong
suốt những kiếp trước của họ đặc biệt thông qua thiền định. Mặc dù sự hiện hữu
này không vĩnh cữu, họ được xem là vĩnh cữu do vì thọ mạng lâu dài. Đây là tại
sao một số nhà tôn giáo vẫn tin rằng đạt được trạng thái Phạm thiên là vĩnh cữu.
Đức Phật chỉ ra rằng nó không phải như vậy.
Thêm bốn cảnh giới khác của đời sống Phạm thiên được đề
cập trong Phật giáo. Những chúng sanh này tồn tại bằng ý thức mà không có thân
thể vật lý có thể nhìn thấy. Tráng thái sống khác ở trong cõi Phạm thiên là sự
hiện hữu của thân thể vật lý nhưng không có bất kỳ sự nhận thức nào ở trong tâm
của họ. Họ không trải nghiệm những gánh nặng vật lý và tâm thức trong một thời
kỳ dài, hơn hẳn sự an bình mà các Phạm thiên khác trải nghiệm, và chu kỳ đới
sống của họ cũng dài hơn chu kỳ mà những chúng sanh khác đạt được hàng triệu
năm. Cho dù như vậy, những trạng thái hiện hữu này là vô thường theo Đức Phật.
Tất cả những trạng thái này là 31 cảnh giới hiện hữu được giải thích ở trong
kinh sách Phật giáo. Quan niệm này là gần với vũ trụ luận Ấn Độ. Tuy nhiên, theo
cái nhìn Phật giáo, chúng ta hiểu chúng như là những trạng thái của tâm thức con
người. Chúng khác nhau tùy theo sự phát triển hay sa đọa của tâm thức con người.
Chúng không biểu hiện ở nơi những hình thức thô hay vật chất. Thêm nữa, rõ ràng
có sự hiện hữu của những loài chúng sanh khác nhau trong những hình thức khác
nhau theo môi trường, những yếu tố và những nhân tố khác. Họ hiện hữu trong
những chu kỳ thế giới khác nhau tùy thuộc vào sức mạnh tâm thức của họ và sự
trải nghiệm lạc hay khổ theo những năng lực nghiệp tốt hay xấu của họ đạt được
trong những kiếp trước.
Câu chuyện sau có thể giải thích cách thức các Phật tử
hiểu về thiên đường và địa ngục. Một vị Tăng một lần nọ giảng về thiên đường và
địa ngục. Một vài thính chúng không tin vào thiên đường và địa ngục đã thách
thức vị Tăng, nói rằng ông đang làm lạc lối những người ngây thơ bằng việc nói
về những cõi không hiện hữu. Một người đàn ông rất hung dữ lớn giọng yêu cầu vị
Tăng chứng minh hai cõi này hiện hữu.
Nhìn bộ dạng sân hận của người này, vị Tăng sĩ nói:
“Bạn không biết rằng hiện bạn đang ở trong địa ngục sao?”. Người đàn ông ngay
khi ấy hiểu ra được khái niệm địa ngục theo sự diễn đạt của vị Tăng.
Sau đó với gương mặt tươi cười, ông ta lại hỏi: “Được
rồi. Bây giờ hãy cho tôi biết thiên đường ở đâu”. Vị Tăng điềm tĩnh trả lời:
“Bây giờ ông đang ở trong thiên đường đấy”.
Ví dụ đơn giản nhưng có ý nghĩa này trao cho chúng ta
một vài ý tưởng về cách sử dụng hiểu biết thông thường để hiểu rằng chúng ta tạo
nên thiên đường và địa ngục theo thái độ tâm thức của chúng ta.
Trong một vài gia đình, vợ và chồng, cha mẹ và con cái
có những tranh cãi mỗi ngày, khóc lóc, than vãn và chửi rủa lẫn nhau, cho dù họ
sống trong cùng một ngôi nhà. Họ đôi khi không có đủ thực phẩm để ăn, áo quần
thích hợp để mặc, hay thậm chí đủ nơi để ngủ. Những nơi như vậy có thể được xem
như là địa ngục trên trái đất này. Trong một số trường hợp khác, mặc dù người ta
có đầy đủ những điều này để sống một cách thoải mái, thái độ tâm thức nghèo nàn
của họ hoàn toàn quấy nhiễu sự bình an và hạnh phúc. Do đó, những người như vậy
đã làm cho đời sống của họ khổ đau hơn do sự sân hận, tâm thức hẹp hòi, tị hiềm
và ích kỷ của họ. Đây cũng là một loại địa ngục khác mà những người đó tạo ra ở
ngay trong đời sống này.
Ngược lại có một số gia đình ở đó người ta cảm nghiệm
được sự an bình, hạnh phúc, hòa hợp và toại nguyện do vì có sự hiểu biết, nhẫn
nhục và thương yêu mặc dù họ nghèo. Và một vài người khác có đầy đủ tài sản vật
chất, có sức khoẻ tốt, lại thêm có sự hiểu biết và thương yêu lẫn nhau. Những
người như vậy đang tạo nên phúc lạc thiên giới ngay ở nơi chính thế gian này.
Thiên đường và địa ngục được miêu tả trong kinh sách
của nhiều tôn giáo phù hợp với bản chất tâm lý của con người. Họ biết rằng nếu
không có phần thưởng và trừng phạt ở một đời sống khác con người không bao giờ
sống một đời sống đúng đắn. Thường thường, sự miêu tả về thiên đường và địa ngục
theo cách này là phương pháp hữu hiệu khiến con người bớt ích kỷ, làm việc phục
vụ người khác và không làm hại người khác vì lợi ích của họ. Trong quá khứ thiên
đường được miêu tả như là một nơi chốn ở đó có đầy những lạc thú giác quan, thứ
mà những người giàu và người có quyền thế hưởng được ở trần gian, nay trở thành
phần thưởng dành cho người sống tốt ở cõi đời này sau khi chết. Còn sự tra tấn
như là hình phạt ở trong địa ngục thì không có gì khác hơn là sự trừng phạt mà
những người cai trị đưa ra đối với những tội nhân đã xâm phạm sự bình yên và
trật tự.
Theo Phật giáo, khổ đau ở địa ngục và vui sướng ở thiên
giới không phải là vĩnh hằng. Đồng thời, thiên giới và địa ngục không được xác
định là một nơi chốn cụ thể mà hiện hữu nơi chúng sanh trải nghiệm những trạng
thái lạc và bất lạc của sự hiện hữu ở mọi nơi trong vũ trụ, trong bất kỳ hình
thức vật lý nào và tùy theo trạng thái tâm thức an vui hay khổ đau.
Ở mức độ khác, niềm tin mà một vài người nắm giữ rằng
tất cả những cảm thọ vui thích hay khó chịu của chúng ta thì chỉ được trải
nghiệm bên trong đời sống này là không thể chấp nhận được đối với Phật giáo.
Chúng ta trải nghiệm đau khổ và vui sướng như là những ảnh hưởng của ác nghiệp
và thiện nghiệp của chính chúng ta, chừng nào sự hiện hữu hay tái sanh còn xảy
ra. Chỉ bằng sự cầu nguyện hay thờ phụng một ai đó, chúng ta không thể thoát
khỏi sự ảnh hưởng của những việc làm xấu ác của chúng ta mà chúng ta đã tạo tác.
Đây là quan điểm của Phật giáo. Nếu có ai đó có thể tha thứ hết thảy lỗi lầm của
chúng ta thì đó chắc phải là chính chúng ta chứ không phải một kẻ bên ngoài.
Theo Đức Phật, hành nghiệp tốt và xấu do chúng ta tạo ra và chúng ta chịu trách
nhiệm cho sự thanh tịnh hay bất tịnh của tâm thức chúng ta. Do đó không thể rằng
người khác làm thanh tịnh hay làm ô nhiễm tâm thức của chúng ta.
Có cơ may nào cho chúng ta để vượt qua hay thoát khỏi
những ảnh hưởng xấu hay không? Có, điều đó có thể nhưng không thật dễ dàng. Phật
giáo không chấp nhận niềm tin mà nhiều người khác đã nắm giữ đối với việc tha
thứ lỗi lầm, về việc thờ phụng và cầu nguyện Thiên Chúa để cầu xin tha thứ, về
việc thực hiện những loại nghi lễ tôn giáo khác nhau, về việc tế lễ muông thú để
làm hài lòng Thần linh và hành hạ thân xác để thoát khỏi sự trừng phạt. Những
thực hành như vậy là không hợp lý từ quan điểm Phật giáo. Có phương pháp thực
tiễn và hợp lý nào được thực hành ở trong ngữ cảnh Phật giáo không khi chúng ta
nhận thấy rằng những hành vi của chúng ta là sai trái và có hại? Mỗi khi chúng
ta nhận thấy chúng ta đã làm điều sai trái thì điều đầu tiên chúng ta phải làm
là thực hiện một quyết định mạnh mẽ để không phạm phải những hành vi xấu ác như
vậy nữa. Nhưng chỉ như vậy thôi thì không đủ.
Sau đó chúng ta nên nỗ lực làm càng nhiều việc thiện
càng tốt bằng việc phát triển sự tử tế, lương thiện, bố thí và hiểu biết đúng
đắn. Việc trau dồi những phẩm chất tốt và những việc làm thiện như vậy là tích
luỹ nghiệp thiện. Sự thanh tịnh tâm thức tăng lên và nghiệp thiện tạo nên năng
lực mạnh mẽ hơn để làm vững mạnh tâm thức và đem lại sự tự tin vào đời sống
tương lai của chúng ta. Khi nghiệp thiện vững mạnh và tích cực ở trong tâm thì
những nghiệp xấu mà chúng ta đã phạm phải trước đó sẽ giảm dần, trở nên yếu đi
và không hoạt động. Nếu cái chết xảy ra với trạng thái tâm thức này chiếm ưu
trội thì việc tái sanh xảy ra trong một điều kiện thuận lợi. Sự giải thích này
giúp chúng ta hiểu cách chúng ta có thể xóa bỏ những ảnh hưởng của tội lỗi của
bản thân. Tuy nhiên, điều này không phải là sự chấm dứt nghiệp ác của chúng ta,
bởi vì không thể trừ diệt chúng hoàn toàn dễ dàng như vậy.
Trong tiến trình tiếp tục tích luỹ thêm những nghiệp
thiện, bằng việc phục vụ người khác và giảm bớt những bất tịnh tâm thức, chúng
ta có thể vượt qua những ảnh hưởng của nghiệp xấu bởi vì nghiệp tốt có thể ngăn
chặn những ảnh hưởng của nghiệp xấu. Bằng cách này, chúng ta có thể tiếp tục cải
tiến tiến trình đời sống và gia cố sự phát triển tâm linh của chúng ta cho đến
khi chúng ta đạt được thánh quả và mục đích cuối cùng. Khi tham ái, điều quyết
định sự tái sanh, bị dập tắt, những năng lực nghiệp xấu cũng tự động bị loại
trừ. Chỉ khi đó chúng ta mới thoát khỏi những ảnh hưởng của nghiệp xấu. Nhiều
người tin rằng thiên đường và địa ngục là do Thiên Chúa tạo ra và rằng nơi chốn
đó được tạo sẵn. Khi một người thuyết giảng nói về việc sáng tạo nên thiên đường
và quả đất, một người trong thính chúng hỏi: “Tôi có thể biết những gì mà ngài
[Thiên Chúa] thực sự đang làm trước khi ngài tạo nên thiên đường và trái đất
không?” Thế rồi người diễn thuyết trả lời: “Bạn có biết trong suốt thời kỳ đó
ngài [Thiên Chúa] đang tạo ra địa ngục cho những người hỏi những loại câu hỏi
như vậy không”.
Thiên đường và địa ngục rất quan trọng đối với nhiều
người. Nhưng đây là một khái niệm được những tôn giáo cổ xưa đưa ra. Khi người
ta không thể hiểu cách để thực hiện những bổn phận của họ như là những con
người, trau dồi một số đức hạnh, bảo vệ nhân phẩm con người và hiểu cách để hành
xử như những người có văn hóa, những người lãnh đạo của họ đưa ra niềm tin này
để khiến họ hành xử theo một con đường tốt. Họ nói rằng nếu người ta theo những
nguyên tắc tôn giáo như vậy, thực hiện những bổn phận của họ đối với cha mẹ, vợ,
chồng, hàng xóm… thì sau khi qua đời họ có thể có một đời sống vui sướng vĩnh
hằng ở Thiên đường. Đó là cách duy nhất để thuyết phục người ta làm điều tốt -
thật sự giống như việc huấn luyện con trẻ làm điều tốt bởi vì chúng không thể
hiểu hay nhận chân đúng sự cần thiết để làm điều tốt. Với những đứa trẻ, hứa cho
chúng một thứ gì đó mà chúng mong muốn là cần thiết, chẳng hạn như cho sô-cô-la,
kẹo hay đồ chơi. Chỉ khi ấy mới khiến chúng để tâm đến. Đức Phật không chọn quan
điểm đó để giới thiệu con đường sống theo tôn giáo của Ngài. Ngài xem chúng ta
là những người trưởng thành. Ngài không sử dụng ngôn ngữ ngon ngọt để cám dỗ
chúng ta. Ngài biết rằng chúng ta có khả năng để hiểu sự việc mặc dù nhiều người
trong chúng ta không bận tâm để làm như vậy. Phương pháp của Ngài là không hứa
bất cứ điều gì mà dạy con người hiểu những gì là đúng và những gì là sai và bản
chất của nhân quả. Theo Ngài, nếu chúng ta làm điều tốt chỉ nhằm mục đích sanh
về thiên giới, là chúng ta ích kỷ, bởi vì với động cơ đó chúng ta sẽ không phát
triển được những phẩm hạnh như lòng từ bi, sự chân thành và hiểu biết, và sẽ
không bao giờ giảm đi sự ích kỷ và hành xử vị tha. Hạnh phúc chân thật chỉ có
thể xảy ra khi một người hoàn toàn loại trừ đi khái niệm về cái ngã hay cái
“Tôi” của mình.
Trong một bản kinh Đức Phật nói rằng những người có
được hạnh phúc trần tục là may mắn trong đời sống gia đình nhưng họ phải khôn
ngoan sử dụng tài sản của mình để không phát triển tâm ích kỷ. Họ phải đủ lòng
tốt để chia sẻ hạnh phúc với người khác. Đức Phật không kết tội lợi ích và hạnh
phúc thế tục. Nhưng nếu chúng ta biết cách để sử dụng chúng, trải nghiệm niềm
vui theo một cách đúng đắn, chúng ta có thể đạt được phước đức thiên giới trong
khi chúng ta ở đây mà không chỉ sau khi chết. Nhưng những gánh nặng vật lý ở
trong cõi thiên giới là ít hơn ở cõi người. Cách khác, khả năng trí tuệ của con
người là khả dụng cho việc phát triển tâm linh. Chư thiên không nghĩ đến việc
thực hành phước thiện. Con người may mắn hơn ở khía cạnh đó. Chúng ta có cơ may
làm giàu hiểu biết của chúng ta.
Theo những câu chuyện Phật giáo, khi chư thiên gặp một
vài vấn đề khó xử, họ cũng đi đến Đức Phật để tìm giải pháp. Là con người, chúng
ta “tiêu dùng” năng lực thiện nghiệp mà chúng ta đã tích luỹ ở trong kiếp sống
trước. Trong khi sử dụng chúng ta cũng có thể tích luỹ thêm phước đức càng nhiều
càng tốt cho đời sống tương lai bởi vì chúng ta biết rằng đời sống này không
phải là kiếp sống sau cùng của chúng ta. Sự tiếp tục tiến trình tái sanh xảy ra
theo phước đức của chúng ta, cho dù chúng ta có tin nó hay không, cho dù chúng
ta có thể hiểu nó hay không. Chư thiên không thể tạo nên nghiệp mới như con
người.
Chúng ta nói rằng muông thú là kém may mắn mặc dù chúng
có thức ăn và nhiều thứ khác. Chúng không may mắn bởi vì chúng không biết bất cứ
điều gì về số phận đời sống của chúng. Với chúng, không thể tích luỹ phước đức
hay có được sự phát triển tinh thần. Đó là tại sao con người có thể làm bất cứ
điều gì đối với chúng qua việc sử dụng trí thông minh con người của mình. Con
người bắt chúng, hành hạ và giết chúng theo ý muốn của họ. Những con thú không
biết rằng sẽ có sự tiếp tục trong đời sống. Chúng không hiểu rằng đời sống thú
vật chắc chắn không chấm dứt ở nơi sự kết thúc đời sống đó. Sự tồn tại lập lại
bởi vì trong tâm con thú đó, còn sót lại dư nghiệp của sân hận, ganh tị, tham ái
và vô minh đã được phát triển trong những kiếp quá khứ mà chúng chưa dứt sạch.
Đây là những lực xấu chính yếu tiềm tàng trong mỗi và
mọi chúng sanh. Bởi vì họ không thoát khỏi những tư tưởng như vậy nên tái sanh
xảy ra trở lại. Trong trường hợp của chúng ta, chúng ta đã kiểm soát một số suy
nghĩ xấu ác nhưng chúng vẫn tồn tại. Chúng ta có thể thuần phục thú vật bằng
đánh đập, huấn luyện và dọa nạt chúng. Bởi vì sợ hãi, chúng hành xử giống như
những con thú thuần hóa. Khi chúng ở gần chúng ta một thời gian, chúng tự động
trở nên thuần hóa. Trong cùng cách, mèo, chó, bò, dê và voi… trở nên dễ bảo bởi
vì chúng ở với chúng ta qua nhiều thế hệ. Nhưng chúng vẫn có bản chất thú vật
của chúng. Mặc dù chúng ta là những con người, vẫn có nhiều người trong chúng ta
không biết cách sử dụng đời sống con người có giá trị của chúng ta. Chúng ta xem
thường những cơ hội hay phương tiện mà chúng ta có để trau dồi lối sống của
mình. Chúng ta xem thường đời sống con người có giá trị của chúng ta do vì sự
ích kỷ và xảo trá của chúng ta. Vì lý do này, giáo pháp của Đức Phật là quan
trọng để lát con đường cho những người vô minh như vậy suy nghĩ đúng đắn và phát
triển những giá trị con người.
Theo Đức Phật, đời sống con người là quan trọng hơn
những đời sống trong 31 cõi hiện hữu khác. Chư thiên không cao hơn con người về
phẩm hạnh và việc phát triển đời sống tâm linh. Theo Phật giáo, sanh về thiên
giới không phải là điều đáng mong mỏi, mặc dù những tôn giáo khác đã miêu tả nó
bằng một cách thức như vậy để cám dỗ chúng ta. Ở thiên giới, chúng ta trải qua
hàng triệu năm thọ hưởng những ích lợi của thiện nghiệp quá khứ, mà không có cơ
hội để phát triển tâm thức chúng ta để đoạn trừ ba độc tham, sân và si.
Bây giờ chúng ta hãy thảo luận về địa ngục, bởi vì
nhiều tôn giáo tận dụng khái niệm địa ngục để phổ biến tôn giáo của họ. Đây là
một vũ khí mạnh mẽ cho họ để đe dọa con người. Đã có thời những nhà chức trách y
tế ở Anh đã khẩn khoản yêu cầu những phái đoàn truyền giáo đừng tạo nên sự sợ
hãi trong tâm dân chúng bằng việc đe dọa về lửa địa ngục để giới thiệu tôn giáo
của họ, bởi vì những nhà chức trách y tế nhận thấy rằng nhiều người chịu khổ đau
từ sự rối loạn tâm thần do nỗi sợ về lửa địa ngục. Tạo ra nỗi sợ hãi trong tâm
con người trở thành một phương pháp hữu hiệu để giới thiệu tôn giáo tốt nhất ở
những quốc gia Á châu ngày nay. Họ nói rằng Đức Phật không thể cứu rỗi bạn bởi
vì Ngài chỉ là một con người đã qua đời và ra đi từ lâu. Họ nói: “Tại sao bạn
cầu nguyện và thờ phụng một con người không còn ở đây? Thiên Chúa của chúng tôi
là người cứu rỗi duy nhất có thể cứu rỗi bạn bởi vì ngài đang sống trên thiên
đường”. Những phái đoàn truyền đạo của Phật giáo hơn 2.500 năm qua không bao giờ
sử dụng loại kỹ thuật này để truyền bá Phật giáo. Những người Phật tử không bao
giờ nói rằng những người nào không chấp nhận tôn giáo của họ sẽ phải đọa vào địa
ngục. Quan điểm của Đức Phật đối với những tôn giáo khác là rất từ bi và hợp lý.
Đời sống dễ biến đổi. Khi chúng ta bỏ mặc đời sống của
chúng ta, sự suy sụp rất dễ xảy ra. Sau đó nâng nó lên lại trở thành một vấn đề
lớn. Niềm tin vào tái sanh là một chủ đề khác mà một số giáo đoàn truyền giáo sử
dụng để nhạo báng Phật giáo. Họ nói rằng những người theo Phật giáo, sẽ không
chịu khổ đau nữa, bởi vì sự tái sanh của họ chỉ là việc nối dài sự giải thoát
sau cùng qua việc trở thành muông thú, ma quỷ và v.v… Còn những người theo tôn
giáo của họ, không trở thành thú vật hay ma qủy mà ngay lập tức có thể lên thiên
đường và không ở đây để chịu khổ sau khi chết. Nhiều người tin những gì họ
thuyết giảng mà không sử dụng tri thức phổ thông.
Tái sanh xảy ra không tùy thuộc vào những nhãn hiệu tôn
giáo khác nhau mà bởi cách suy nghĩ, cách nói năng và hành động với suy nghĩ tốt
và xấu ác của con người. Vì vậy suy nghĩ và hành động của chúng ta chịu trách
nhiệm cho việc hình thành nên đời sống kiếp sau. Cho dù người ta có tôn giáo hay
không, điều đó không phải là yếu tố quan trọng để quyết định nên sự tái sanh.
Mặc dù Đức Phật khuyên con người hãy giữ gìn nhân phẩm,
Ngài không bác bỏ những nguyên tắc tôn giáo như là những điều răn hay luật lệ.
Bằng ngôn ngữ đơn giản, Ngài nói rằng nếu bạn thực hiện những hành vi xấu ác,
bạn phải đối mặt với những kết quả mang lại khổ đau hoặc thuộc về vật lý hoặc
thuộc về tâm lý, ở kiếp sống này hay kiếp sống sau. Bạn cũng nên xem bản chất
của niềm vui hay nỗi khổ đau trong những cảnh giới hiện hữu khác nhau, và đây là
những cảnh giới được giới thiệu bằng việc đưa ra những danh xưng khác nhau chẳng
hạn như thiên giới, địa ngục, thế giới ma quỷ và thế giới súc sanh.
Ngày nay khoa học và công nghệ hiện đại đã mở rộng tri
thức của chúng ta để hiểu nhiều điều trong thế giới và vũ trụ này mà những người
nguyên thuỷ không thể hiểu được. Do sự thiếu hiểu biết, họ đã giải thích đời
sống và cái chết bằng những thuật ngữ rất đơn giản, điều họ sau đó đã chấp nhận
như là những chân lý hay giáo điều tôn giáo.
Chúng ta không biết rằng mỗi ngày chúng ta đang định
hình nên thiên đường và địa ngục theo lối sống của mình, cũng như những ảnh
hưởng tốt và xấu mà chúng ta trải nghiệm ở đây và kiếp sau. Điều này không có
nghĩa rằng Phật giáo phủ nhận hoàn toàn niềm tin về một đời sống “thiên đường”
hay một sự khổ đau địa ngục sau khi chết. Nhưng khái niệm Phật giáo về niềm tin
này là khác với những tôn giáo khác. Điều này muốn nói rằng khi chúng ta sống
bằng việc trau dồi những phẩm chất và đức tính tốt qua việc thực hành theo một
số nguyên tắc tôn giáo mà không vi phạm sự an bình và hạnh phúc của kẻ khác,
chúng ta cũng có thể trải nghiệm một đời sống dễ chịu, hạnh phúc, thịnh vượng và
yên bình hơn ở bất cứ nơi nào trong vũ trụ sau khi chết mà ở đó đời sống hiện
hữu. Đối với chúng ta, đó là thiên đường.
Ngược lại, nếu chúng ta sống đời của mình bằng việc
chứa chấp sự sân hận, ganh tị, oán giận, ác ý và những loại tư tưởng xấu ác khác
ở trong tâm, chúng ta phải đối diện với những kết quả trong hình thức của khổ
đau hoặc trong kiếp này hoặc kiếp sau. Cũng sẽ khó khăn cho chúng ta để có một
sự tái sinh tốt ở trong một môi trường tốt để tu bồi những phẩm hạnh đạo đức.
Khi đời sống trở nên nhiều đau khổ hơn, chúng ta xem trạng thái hiện hữu này như
là địa ngục.
Bằng việc biết rõ tình trạng thật ở trong đời sống trần
tục, người hiểu biết cố gắng quyết định cách sống của họ và sống hòa bình không
làm hại kẻ khác và cũng làm việc để giúp đỡ chúng sanh. Chúng ta thích có một sự
hiện hữu thuận lợi, tốt đẹp và vui sướng. Nhưng ước vọng của chúng ta là rất khó
thực hiện. Thế giới không được sắp xếp theo ý của chúng ta. Sự hình thành cuộc
đời này không xảy ra chỉ để thích ứng với chúng ta. Thế giới vận hành theo luật
và bản chất vũ trụ của chính nó. Những điều này là công bằng – cho dù chúng ta
giàu hay nghèo, có học hay thất học. Là những người có tôn giáo, chúng ta có thể
duy trì hạnh phúc và sự mãn nguyện thông qua sự hiểu biết này. Khi những khó
khăn, bệnh tật, lo lắng, xáo trộn và tai họa đến với chúng ta, chúng ta không
nên than vãn cũng không nên nguyền rủa hay đổ lỗi cho kẻ khác. Chúng ta nên xem
tình huống này một cách cẩn thận để hiểu ai hay điều gì chịu trách nhiệm cho tất
cả những vấn đề hay có điều gì bên ngoài chúng ta có thể bị khiển trách hay
không. Đôi khi chúng ta đã làm một số điều sai trái. Đừng nghĩ rằng chúng ta
luôn luôn đúng và người khác là sai. Mọi người trên cõi đời này đều phạm phải
sai lầm.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà ở đó chúng ta
luôn gặp phải sự va chạm, bất đồng, xung đột, tai họa, bất ổn và chiến tranh. Do
đó, sự thách thức là tìm kiếm hòa bình ở trong một thế giới nơi đó bất đồng và
va chạm là đang xảy ra hằng ngày.
Đăng Nguyên dịch
Nguồn: audio.buddhistdoor.com