Những cống hiến của ngôn ngữ học cho việc nghiên cứu tâm thức: Hiện tại

nhung cong hien

(Linguistic contributions for the study of mind: present)

                                                              Tiếng Anh: N.Chomsky

                                                              Việt dịch và chú dẫn: Pháp Thường

Giới thiệu

            Khi dựa trên tư tưởng Duy thức và Câu–xá luận để dẫn giải hệ thống học thuyết ngôn ngữ của N.Chomsky, hầu như đây là một công việc mang tính hoàn toàn cưỡng gán. Tuy nhiên, hệ thống ngữ học này là một hệ thống đưa ta trực hướng vào lý tính hay hàm năng của tâm thức mình để mà (những gánh nặng về văn phạm hay bảng chữ cái của nghiệp bị giải trừ dần – ngôn ngữ đạo đoạn) – thế thì việc làm như thế đôi khi có thể được một số ít nào đó tán đồng. Thầy Tuệ Sỹ dạy rằng, muốn đi vào ba hệ thống luận thư vĩ đại của Phật giáo: Tánh không, Câu–xá và Duy thức, thì người ta cần vượt qua Kant và Hegel, tức là ta phải vượt qua ngưỡng Lý tính hay Tâm luận của Kant và Lôgích học của Hegel mà như ta biết hai nền tư tưởng ấy vẫn còn tồn tại tận đến giờ và vẫn còn “gieo rắc”những ảnh hưởng của chúng trên nếp tư duy của chúng ta. Do vì, Lôgich của Phật giáo nằm trong Trung luận và cơ cấu tâm thức thì hiện hữu toàn diện trong Duy thức và Câu–xá. Và theo một cách nào đó, thì Duy thức là một môn học chuyên ròng về ngữ và nghĩa học, nói cách khác, Danh Sắc (vacānarūpa ca) hay Chủng tử học (bījavāk) là sở chỉ toàn diện của phạm trù 12 chi nhân duyên như ta được nhận ra trong luận thơ này, cho nên ở một vài bản kinh, đức Phật chỉ dạy tới Danh và Sắc và bấy nhiêu đó cũng đủ nói lên cấu trúc của vũ trụ, và bấy nhiêu đó cũng nói lên tính vô thường của sắc và tâm pháp để ta có thể tự mình chạm đến cánh cổng mở vào Niết–bàn vô thượng diệu. Sắc, cũng chính là Tâm vậy. May thay! Tư tưởng ngôn ngữ của N.Chomsky lại bao hàm và kích thích nhiều lãnh vực, trong đó, những đặc trưng duyên khởi của ngôn ngữ, hệ thống luận lý có tính trật tự do tâm sinh, phân tâm và vật lý v.v... hầu như là chủ đạo. Và đây vẫn là lý do, vì sao, bắt đầu từ sơ hạ An cư của năm 2008, thầy Tuệ Sỹ dạy Duy thức và Câu–xá, chung cho các học Tăng đặc biệt là thầy nhấn mạnh về ngôn ngữ như là một dấu ấn cho việc tu học của mùa an cư này. Hy vọng rằng, cái “dấu ấn” như vậy sẽ phát triển trong thời kỳ tương lai, của Phật giáo. Song, ngôn ngữ học của các thời kỳ vừa qua như chúng ta biết, chỉ là loại ngôn ngữ học hình thức và, nói theo Chomsky, “ngôn ngữ học hình thức, thì chẳng liên quan gì hết đến ngôn ngữ học cả”. Nói cách khác, đã từ lâu, ta chỉ học “nghĩa”tức chưa học “ngữ”, tức là cái học về “sắc” và “tái xây dựng – vikalpa” đã bị lãng quên, vì ta cho đó là “tâm phân biệt” theo truyền thống Trung Hoa. Hơn thế, dù hình thức hay nội dung, thì bộ môn này, đối với một số ít người hầu như còn rất mới, có thể kể cả luôn đến các Phật tử, tuy rằng rất nhiều văn bản về chuyên ngành này của Viện ngôn ngữ học Việt nam đã và đang lưu hành do các giáo sư có tiếng tăm của Viện, nghiên cứu và biên soạn, chẳng hạn: T.s Nguyễn Hữu Châu, Cao Xuân Hạo, Trần Văn Cơ, Nguyễn Văn Vân....và trên thực tế, thì ta có những dịch bản về bộ môn này một cách uyên bác và chính xác. Tư liệu thì nhiều, thế nhưng, sự quan tâm của chúng ta thì quá ít. Thế thì, giới thiệu một mảng lý thuyết ngôn ngữ học của Chomsky—cha đẻ của học thuyết Tâm ngữ, học thuyết Văn pháp phổ quát, học thuyết Chuẩn mở rộng và trên hết là lý thuyết “Tiềm năng cơ chế Điện toán...” – mà ông đã phác thảo cách đây gần 60 mươi năm và được chi tiết hóa vào thập kỷ cuối 20, bây giờ, thì cái “tiềm năng điện toán” ấy đã thành hiện thực và “thật” hiện thực khi mà cơ chế của tâm thức vì sao mà vận hành và vận hành theo cách mã hóa hay dán nhãn như thế nào, tất cả đã được ông hiển ngôn. Những gì được dịch và dẫn của bản văn này hẳn là còn biết bao sai lầm, bởi vì nó đã được nhìn qua và tự điều chỉnh và, các sai lầm như thế rất cần đến việc hiệu chính của người đọc, cho dù trong chu cảnh của nó đã được sở y toàn diện trên những gì mà người dịch, học được trực tiếp từ thầy Tuệ Sỹ. Thật vậy, Thức và Danh Sắc là một khối nhất thể, “không có ngôn ngữ thì không có nhận thức.” (Tuệ Sỹ / khóa học Duy thức, mùa An cư 2008.) P.H.

            Sở dĩ các nhà tâm lý học khó lý giải mọi hiện tượng, là vì họ luôn tiếp cận chúng, trong một trạng thái quá thân quen. Một vài nỗ lực thông minh được viện đến để xem những hiện tượng như vậy đang nêu ra hàng loạt những vấn đề nghiêm trọng hoặc cần đến những lý thuyết rối rắm như thế nào. Để nắm bắt chúng, người ta cứ cho đó là chuyện tất yếu hay một cách gì đó “tự nhiên nhi nhiên”.

            Những hệ quả sanh ra từ thái độ quen thuộc hiện tượng như thế đã từng được luận bàn. Chẳng hạn, Wolfang Kὂhler [W. Kὂhler, Dynamics in Psychology] đã cho rằng, các nhà tâm lý học không mở ra được “những lĩnh vực hoàn toàn mới” bằng đường lối của khoa học tự nhiên, “bởi vì đơn thuần là người ta đã tiếp cận được mọi cảnh giới của đời sống tâm thức qua thực tế trong suốt thời gian dài; trước khi phát hiện ra môn tâm lý học khoa học.... bởi vì, vào lúc mới bắt đầu công việc của mình, người ta chưa thật sự hiểu biết là phải nên khám phá các dữ kiện tâm lưu vết. “Hầu hết những khám phá cơ bản của khoa tâm lý học cổ điển đều có một vài giá trị bất ngờ nào đó — con người đã không sở hữu được trực giác về những quỹ đạo elíp[1] hay hằng số có lực hấp dẫn[2]. Tuy nhiên, “những dữ kiện tâm”, thậm chí dữ kiện của một chủng tính tối sâu[3] đã không được “khám phá” bởi các tâm lý gia, bởi vì chúng là một chất liệu của trực tri (intuitive acquaintance[4]) và, tất nhiên là đã từng được đưa ra bàn luận.

            Vẫn còn có một hiệu ứng tinh tế hơn. Hiện tượng giới có thể được quen thuộc đến độ chúng đã trở nên vô hình, một chất liệu từng được diễn ngôn bởi các lý thuyết gia văn học và triết học. Chẳng hạn, vào đầu thập kỷ 1920, Viktor Shklovskij triển khai ý tưởng rằng, chức năng của thi thuật (poetic art) là chức năng “gây kinh ngạc” từ đối tượng đã ấn hình[5] (depicted). “Người ta sống ven bờ biển vì nhiễm thói quen của những cơn sóng biển, nên người ta không bao giờ nghe tiếng rì rào của chúng. Vì lẽ ấy, hẳn là ta chưa bao giờ nghe được những từ ngữ mà mình phát ngôn. Ta nhìn vào mỗi thứ nào khác, nhưng ta không  thấy cái khác nào hơn nữa. Khái niệm của ta về thế giới đã bị cằn cỗi rồi, những gì còn lại chỉ là tri kiến.” Do vậy, con đường của nghệ thuật là con đường chuyển hóa cái được ấn hình bằng “lĩnh vực khái niệm mới”, với một thí dụ, Shklovskij trích dẫn câu chuyện của Tolstoy [Xem V. Ehrlich, Russian Formalism, pp, 176–177] mà trong đó các phong tục và thể chế xã hội “tạo ra kinh ngạc” bằng cách thể hiện chúng từ quan điểm của người kể chuyện hoát nhiên thành ngựa.

            Cách khảo sát này [cho biết] rằng, “chúng ta đang nhìn vào mỗi một sự vật nào khác, nhưng ta không nhìn thấy điều gì ngoài chúng” để có thể đã tự đạt tới tình trạng “của những từ mà ta phát ngôn nhưng chắc là ta chưa từng lắng nghe.” Song le, cũng trong trường hợp này, tính cách thân quen sẽ không thể che đậy được tầm quan trọng của nội tư [tức là những hành tướng ngôn ngữ hiện ra từ cơ cấu bề sâu của tâm thức ta].

             Wittgenstein cũng có một cách khảo sát tương tự, ông chỉ ra rằng, “các bình diện của sự vật hầu hết đều có tầm quan trọng mà đối với ta, chúng đang che giấu[6] tính đơn thuần và quá thân quen của mình (nên người ta không thể lý giải điều gì, bởi vì nó luôn hiện tiền).” Anh ta tự mình tập hợp lại để “cung cấp... đánh dấu trên dòng lịch sử tự nhiên của nhân loại: tuy nhiên, ta vốn không đóng góp cho những tính hiếu kỳ, nhưng cách quan sát thì không một ai nghi ngờ, trừ phi người ta thoát khỏi vết in của tập quán, do chúng luôn hiện tiền (ở trước mắt chúng ta).”

            Cái được cảnh báo kém dẫn đến sự kiện là ta cứ sa đà vào vấn đề dành cho các lý giải khi mà mọi hiện tượng đều quá quen thuộc và quá “hiển nhiên”. Ta rất dễ dàng đi đến kết luận rằng, những lý giải nên được rõ ràng và khép kín trên bề mặt [quen thuộc và hiển nhiên] này[7]. Nhược điểm quá lớn của triết học cổ điển về tâm thức, cả chủ nghĩa lý trí lẫn chủ nghĩa duy nghiệm, hầu như đối với tôi chính là sự thừa nhận phi vấn của nó, thế nhưng đặc tính và hàm năng của tâm thức đều có thể  tiếp cận theo cách nội quan; thật đáng ngạc nhiên là ta ít khi thấy sự thừa nhận này đã từng được thách thức như thế nào, thách thức ngay cả cuộc cách mạng từ trường phái phân tâm học của Freud và tới mức độ liên quan đến cách tổ chức và hàm năng của tính thông minh nữa. Vì lẽ đó, những nghiên cứu vươn–xa về ngôn ngữ được thực hiện dưới sự ảnh hưởng của học thuyết l‎ý tính Decartes[8], đã chịu thất bại khi đánh giá tính trừu xuất của những cấu trúc này là “quà tặng cho tâm”[9] khi một phát ngôn sản sinh, hoặc được nhận thức, hay kéo dài và tính phức hợp hàng loạt của các thao tác này liên hệ đến các cấu trúc tâm biểu đạt nội dung ngữ nghĩa của phát ngôn đó theo cách thực hiện vật lý.

Một thiếu sót tương tự làm băng hoại công cuộc nghiên cứu về ngôn ngữ và tâm thức, theo tôi, đó là tính yếu kém trong chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa hành vi khi tiếp cận với các thể tài này, là đặt lòng tin của mình vào tính nông cạn của các thuyên giải, niềm tin đó cho biết rằng tâm thức trong cấu trúc của nó phải rất đơn thuần hơn bất kỳ căn tri nhận (known physical organ – cơ quan trí năng) nào và rằng, điểm cơ bản nhất cho các giả định phải được thích ứng theo lý giải ở bất cứ nơi đâu mà hiện tượng có thể được quan sát. Vì thế, người ta tán thành cái được cấp cho mà không cần luận chứng (hoặc được trình bày y như thật do minh định) mà một ngôn ngữ là một “cơ cấu tập quán”, là một hệ thống của các tương ưng liên hợp, hay là, tri thức về ngôn ngữ (ngữ trí) chỉ là chất liệu của “cái đang nhận thức như thế nào,”[10] một khả tính biểu đạt xét như là một hệ thống của những cấu trúc để phúc đáp (tức là những phản ứng từ thế giới khách quan) mà thôi. Từ đó, ngữ trí (tri thức về ngôn ngữ) cần được tiệm phát bằng sự mô phỏng và trau dồi – huân tập – tính phức hợp biểu kiến của nó có kết quả từ sự tăng nhanh của các yếu tố rất đơn thuần thay vì có kết quả từ các nguyên lý sâu hơn của tổ chức lý tính[11] để có thể xét như là tính bất khả tri của nội quan, như là cơ chế đưa tới lãnh hội hay sự vận  hành tương đẳng hóa hoặc vận hành cộng duyên[12] (co–ordinated mouvement – sự vận hành liên kết). Cho dù, không có cái gì vốn là phi lý trong việc nỗ lực chứng minh ngữ trí và cách dụng ngôn ở các thuật ngữ này, cũng như không có sự chính lý hay sự phán đoán đúng đắn nào. Thế nhưng, không vì lý do gì để trạng huống băn khoăn hay hoài nghi tái diễn, nếu sự nghiên cứu về ngữ trí và cách sử dụng tri thức hay ngữ năng này sẽ dẫn vào một phương hướng hoàn toàn khác.

            Theo tôi, nói chung, để đạt được sự tiến bộ trong việc nghiên cứu ngôn ngữ và khả tính tri nhận của loài người, thì trước hết là ta phải để  “khoảng cách thần bí” bên ngoài “các dữ kiện tâm”[13] như Kὂhler đã chỉ và rồi khi ấy người ta có thể khám phá những khả thể này dành cho cách phát triển các luận thuyết (explanatory theory) mà bất cứ nơi đâu chúng vẫn có thể hiện thành theo sự phức hợp và tính trừu xuất của cơ chế hạ tầng, tức là cơ chế của vô biểu vậy[14]. Chúng ta nên nhận ra rằng, ngay cả những hiện tượng quen thuộc nhất vẫn cần đến sự lý giải và rằng, ta chưa đủ thẩm quyền hội nhập cơ chế hạ tầng này, nghĩa là, ta không có thẩm quyền nào hơn nữa trong khoa vật lý và các khoa y lẫn khoa học tự nhiên. Hầu hết chỉ là bước ban đầu và những giả thuyết  có tính chất thăm dò để có thể mở ra được mối liên hệ về bản chất ngôn ngữ, cách sử dụng nó, và sự thụ đắc của nó[15] (acquisition). Vì là những người nói bản ngữ (tiếng Anh), chúng ta có nơi tự thân  mình một số lượng dữ liệu giá trị khổng lồ. Chỉ vì lý do này mà người ta dễ sa vào bẫy rập của niềm tin rằng, không có cái gì phải lý giải cả, rằng, bất cứ những nguyên lý có tổ chức nào và các cơ chế hạ tầng nào có thể tồn tại thì cái đó phải là cái “được ban cho–given”[16] như dữ liệu được cho vậy. Không có điều gì vượt ra ngoài sự thật và một nỗ lực nhằm định tính sở hành những hệ thống nguyên tắc này mà chúng ta đã quán triệt là có thể cho ta  nhận thức những cú nghĩa mới và phát sinh một cú nghĩa mới trên một lý do thích đáng mà y trên chất liệu đó, nó sẽ xua tan nhanh chóng bất cứ chủ nghĩa giáo điều[17] nào. Sự nghiên cứu dành cho ngôn luận phải bắt đầu bằng nỗ lực xác định những hệ thống của các nguyên tắc này và phơi trần những nguyên lý dẫn đạo chúng.

            Loài người đã đạt được tri thức về một ngôn ngữ đã nội thể hóa một hệ thống của các nguyên tắc gắn cùng âm tố và nghĩa theo một đường lối đặc thù. Ngôn ngữ học cấu thành một nền văn phạm của một ngôn ngữ bất kỳ, mà trên thực tế, nó đang cho ra một giả thiết liên quan đến hệ thống nội thể hóa[18] này. Những giả thiết (hypothesis –) của nhà ngôn ngữ học[19], nếu đã trình bày bằng bản chất hàm ngôn và hoàn toàn trong sáng, thì điều đó sẽ có một vài hệ quả trên cơ sở kinh nghiệm theo hình thái của những người phát ngôn và các thuyên giải của chúng bởi người nói bản ngữ. Trên cứ liệu này, tri thức ngôn ngữ hay ngữ trí, chỉ là một trong nhiều yếu tố nhằm xác định một phát ngôn sẽ được sử dụng hay sẽ được nhận thức như thế nào trong một trạng thái đặc thù—hệ thống nội thể hóa của những nguyên tắc. Nhà ngôn ngữ học là người đang nỗ lực để minh định cái gì cấu thành tri thức ngôn ngữ—cấu thành một văn pháp chính xác—là người đang nghiên cứu một yếu tố nền tảng được liên hệ bằng thực tiển dụng ngôn (performance – tức là khả năng sử dụng ngôn ngữ hay biểu lộ cấu trúc bề sâu bằng ngôn ngữ), thế nhưng dụng năng không là chưa đủ. Ý thể hóa này (idealization) cần được thấu triệt khi người ta đang khảo sát vấn đề chứng thực từ những văn pháp trên cơ sở cứ liệu theo ấn tượng[20]. Không có lý do cho biết là tại sao người ta thường không quan tâm đến cách giao diện của đôi ba yếu tố đã kéo theo các hành vi tư duy phức hợp và dụng năng thực tiển nằm bên dưới [sự tư duy] ấy, song, một nghiên cứu như vậy thiếu hẳn khả năng viễn hành, trừ phi các yếu tố khả phân này tự thân chúng được toàn tri.

Trong thắng thâm thúy như vậy, văn pháp được ngôn ngữ học đặt ra là một ngôn luận hay lý thuyết diễn giải; lý thuyết này nêu lên một thuyên giải cho sự kiện mà (dưới hình thái lý tưởng hóa đã nêu) một người nói ngôn ngữ đang thực hiện sẽ lĩnh hội, thuyên giải, cấu hình, hoặc dùng một phát ngôn trong nhiều phương hướng và không ở trong các phương hướng khác, tức là trên cấu trúc bề mặt của một phát ngôn. Người ta cũng có thể nghiên cứu các lý thuyết diễn giải trong cấu trúc bề sâu, tức là cái chủng tử tiềm thể. Người nói bản ngữ đã đạt tới một hiện tượng văn phạm trên cơ sở của rất nhiều cứ liệu bị hạn chế và biến chất; văn phạm có những kết quả trên nền tảng kinh nghiệm mở rộng vượt qua xa cứ liệu. Ở một mặt nào đó, các hiện tượng mà với chúng đã được quá nhiều văn phạm giải thích bằng các nguyên tắc của tự thân văn phạm và cách giao diện của các nguyên tắc này. Ở bình diện sâu hơn, cùng một hiện tượng như vậy đã được giải thích bằng các nguyên lý xác định sự tích lũy của văn phạm trên nền tảng của cứ liệu bị giới hạn và biến chất làm nên giá trị cho con người đã thụ đắc ngữ trí, con người đã tự cấu trúc cho mình nền văn pháp đặc biệt này. Những nguyên lý nhằm xác định hình thái văn phạm và để chọn ra một văn phạm có hình thái thích hợp trên nền tảng của một vài dữ liệu cấu thành chủ đề mà, theo cách thường dụng truyền thống, có thể được gọi là “văn phạm phổ quát”. Sự nghiên cứu về văn phạm phổ quát, được nhận thức như thế, là một nghiên cứu bản chất các khả tính thông tuệ của loài người. Nó nỗ lực mô thức hóa những điều kiện cần và đủ mà một hệ thống  phải nhận thức để phẩm định đây là cái mà ngôn ngữ nhân loại nội tàng[21], hơn thế, nếu chúng được cho là đã bám rễ sâu trong “ngữ năng” nhân loại và như thế nó cấu thành cách tổ chức nội tại xác định cái gì xét như là hội nghiệm ngôn ngữ học và cái gì cho là tri thức ngôn ngữ khởi sinh trên nền của sự  hội nghiệm này. Do vậy, văn phạm phổ quát, hình thành một lý thuyết giải thích về một chủng tính sâu xa hơn là (lý thuyết) văn phạm cá biệt, cho dù văn phạm cá biệt của ngôn ngữ có thể được xem như là lý thuyết giải thích.

Trên mặt thực hành, nhà ngôn ngữ học luôn được tương ưng giữa cả văn phạm phổ quát lẫn ngữ pháp cá biệt. Khi ông ta cấu trúc một miêu tả, thì văn phạm cá biệt cấu trúc trong chính nó hơn là những phương hướng khác trên cơ bản chứng lý nào mà ông ta cho là có giá trị, ông ta được chi phối một cách có ý thức hay là không, được hướng dẫn bằng một vài giả định liên quan đến hình thái của văn pháp và các giả định này thuộc về lý thuyết ngữ pháp phổ quát. Ngược lại, công thức của ông ta về các nguyên lý của văn phạm phổ quát cần được đánh giá bằng sự nghiên cứu những hệ quả của chúng đã ứng dụng trong các văn pháp cá biệt. Vì vậy, nhà ngôn ngữ học đã liên hệ đến cấu trúc của những lý thuyết biện giải trên một vài bình diện, và mỗi một phương diện đều có một dẫn giải tâm lý cho công việc lý thuyết và miêu tả của mình. Trên bình diện văn pháp cá biệt, ông ta đang cố định tính tri thức ngôn ngữ, định tính một vài hệ thống tri nhận đã từng được phát triển –tất nhiên, một cách vô hình chung–bởi người nói–nghe thông thường. Trên bình diện văn pháp phổ quát, Ông ta đang cố chứng minh một vài đặc trưng về sự thông tuệ của con người. Ngôn ngữ học, đã định tính như vậy, thì nó chỉ đơn thuần là lãnh vực của tâm lý học nhằm xử lý bằng các khía cạnh vừa nêu của tâm thức mà thôi.

Ở đây, tôi sẽ cố gắng vạch ra một vài dấu hiệu của loại công việc có đích đến trong tiến trình hiện nay, mặt này thì điều đó xác định các hệ thống của những nguyên tắc cấu thành tri thức của một ngôn ngữ, còn mặt khác thì nó phơi trần những nguyên lý chi phối các hệ thống này. Hiển nhiên, hiện giờ, bất cứ những kết luận nào nếu đạt được về văn pháp cá biệt lẫn văn pháp phổ quát, thì chúng phải hoàn toàn mang tính thăm dò và được giới hạn trong phạm vi của chúng. Và trong một lược thảo như vậy, chỉ là những sơ phát họa mà chúng có thể vừa mới biểu hiện mà thôi. Nỗ lực vạch ra một vài định hướng cho cái gì đó đang được thực hiện bây giờ, tôi sẽ tập trung vào những vấn đề đang đi theo hướng có thể được công thức hóa bằng một ít trong sáng trên cái đã tư duy, mặc dù những vấn đề như vậy luôn kìm hãm cách giải quyết.

Như đã đề cập trong chương đầu tiên của bản văn này, tôi tin rằng, bộ khung phổ quát thích hợp nhất cho việc nghiên cứu về các vấn đề ngôn ngữ và tâm thức, là nó bao hàm một hệ thống của những ý tưởng đã phát triển với tư cách là thành viên của nền tâm lý học lý tính của thế kỷ thứ 17 và 18, nó đã được nhận chân những khía cạnh quan trọng bởi các tiểu thuyết lãng mạn và cũng vì lý do đó mà các thế kỷ này đã bỏ quên hẳn đi, để chỉ tập trung hướng vào các chất liệu khác. Theo khái niệm thuộc truyền thống này, một hệ thống của những mệnh đề sở dĩ biểu đạt nghĩa của một câu (cú nghĩa) sở sinh trong tâm thức, vì câu này được thành tựu bởi một dấu hiệu vật lý, cả hai mệnh đề (trong cú nghĩa được tâm thức biểu hiệu) đã tương quan bằng các thao tác hình thức, trong thuật ngữ hiện lưu, chúng ta nên gọi các thao tác này là các phép chuyển biến văn phạm. Như vậy, khi dựa trên thuật ngữ này, chúng ta có thể phân biệt cấu trúc biểu thể (bề mặt) của  câu, cách tổ chức thành các phạm trù và các ngữ đoạn (phrase) mà nó được trực kết cùng ký hiệu vật lý[22], với cấu trúc tiềm thể (bề sâu) nằm bên dưới, cũng cùng một hệ thống của các phạm trù và những ngữ đoạn như vậy, tuy nhiên theo một đặc tính trừu xuất nhiều hơn. Do vậy, cấu trúc biểu thể của câu như câu: “Awise man is honest–bậc thánh trí là một bậc trung thực/ một người có trí là một người trung thực” nó có thể sở phân: “a wise man” là chủ ngữ, còn “is honest” là vị từ (predicate). Tuy nhiên, cấu trúc tiềm thể sẽ phải khác hơn nhiều. Nhất là, nó thoát thai từ ý tưởng phức hợp để cấu thành chủ ngữ của cấu trúc biểu thể một mệnh đề “chìm” với chủ ngữ “man” và vị từ “be wise”. Thật vậy, theo quan điểm truyền thống, cấu trúc tiềm thể là một hệ thống của hai mệnh đề, không phải cả hai mênh đề của cấu trúc này được chèn vào, nhưng mà nó hỗ tương quan hệ [23](interralate–ngôn ngữ quan hệ nội sinh) trong một đường hướng như thế nhằm hiển đạt nghĩa của câu “A wise man is honest”. Ta có thể tái hiện cấu trúc tiềm thể này bằng biểu thức 1, và cấu trúc hiển thể bằng biểu thức thứ 2, ở đây, các dấu ngoặc kép ghép đôi được đính nhãn để cho biết phạm trù ngữ đoạn giới hạn chúng lại.

1.

2.

Một ký hiệu luân phiên và tương đương được sử dụng rộng rải, biểu đạt sự đính nhãn đặt trong dấu ngoặc của 1 và 2 theo hình thái cây (tree form), thành 1’ và 2’, với trình tự như sau:

 

1’

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2’                                                                                                        

 

 

                                                                                                            [24]                                                                                                                                                          Nếu chúng ta nhận ra cách duyên khởi cái thuộc về chủ ngữ hay “của–chủ ngữ” khi làm nhiệm vụ liên hệ giữa một ngữ đoạn của phạm trù ngữ đoạn danh từ (NP) với câu (S) chi phối trực tiếp nó, và cách duyên khởi cái thuộc về vị từ hay “của–vị từ” khi làm nhiệm vụ liên hệ giữa một ngữ đoạn của phạm trù ngữ đoạn vị từ (VP) với câu chi phối trực tiếp nó, vậy, lúc này, cấu trúc 1 và 2 (tương đương 1’ và 2’) minh định những chức năng văn phạm của chủ ngữ và vị ngữ trong một đường lối định hướng hóa. Những chức năng văn phạm của cấu trúc tiềm thể (1) đóng vai trò trung tâm xác định nghĩa của câu.Mặt khác, cấu trúc ngữ đoạn sở chỉ trong biểu thức 2 tương ưng với nét âm vị của mình, nó xác định diễn tiến ngữ điệu (intonation contour–điệu hình) của người phát ngôn đã thể hiện.

Tri thức về ngôn ngữ liên quan đến khả tính chỉ định cấu trúc tiềm và hiển thể theo một lãnh vực vô hạn của các câu, tri thức này kéo theo khả tính liên quan đến các cấu trúc như vậy một cách thích đáng, chỉ định cách lý giải nghĩa và âm vị cho các cấu trúc tiềm và hiển thể mang tính song đối hóa. Sự phát thảo như vậy về bản chất ngữ pháp được cho là hoàn toàn đúng đắn như là một tiếp cận ban đầu với cách đặc trưng về “tri thức một ngôn ngữ.”

Như vậy thì, cấu trúc tiềm và hiển thể được liên hệ như thế nào? Hiển nhiên là, bằng một thí dụ đơn thuần đã cho, ta có thể lập thành cấu trúc hiển từ cấu trúc tiềm thể bằng cách thực hiện các thao tác như sau:

3                      a. Chỉ định dấu hiệu wh– cho NP được gắn sâu hơn, “man”

                        b. Thay thế NP đã đánh dấu như vậy bằng “who”

                        c. Xóa bỏ “who is”

                        d. Đảo “man” và “wise.”

Khi vừa ứng dụng các thao tác a và b, ta có được cấu trúc chìm bên dưới câu như vầy “a man who is wise is honest,” tiểu cú này là sự thành tựu xảy ra của cấu trúc tiềm thể (1). Hơn thế, nếu, ta ứng dụng thao tác c (tức là ta đạt đến một mệnh đề như sau: “a wise man is honest”, trong tiếng Anh, ta cũng phải ứng dụng cách thao tác d phụ trợ này, ta có được cấu trúc hiển thể (2), mà trên mặt âm vị, nó có thể được  lý giải.

Nói chung, nếu sự tiếp cận như thế là chính xác, thế thì một người thông thạo một ngôn ngữ loại biệt có sự kiểm soát của văn phạm, nhằm tạo sinh (generate), (nghĩa là, nó minh định) sự tập hợp vô tận của những cấu trúc ẩn chứa tiềm năng (potential deep structure), phát họa chúng thành các cấu trúc hiển thể kết chuỗi hóa, và nó xác định những cách thuyên giải nghĩa và âm vị của các đối tượng trừu xuất này. Từ sự thông tin có giá trị hiện giờ, cho rằng, cấu trúc tiềm thể là cấu trúc xác định cách lý giải âm vị toàn diện và rằng, cơ cấu ẩn này biểu đạt các chức năng văn pháp, và chúng đóng vai trò quyết định cho cách lý giải ngữ nghĩa, thì đây là một quan điểm đúng đắn, cho dù, một vài khía cạnh của của cấu trúc hiển vẫn có thể tham gia vào trong lãnh vực quyết định nghĩa của câu bằng nhiều đường hướng, song, trong bản văn này tôi sẽ không đề cập đến. Do vậy, một chủng tính văn phạm này sẽ lộ diện đôi nét hỗ tương quan hệ vô tận của âm tố và nghĩa. Nó cấu tạo bước đầu tiên lý do xiển minh mà con người có thể nhận biết một câu xuất từ tâm thức của ngôn ngữ anh ta như thế nào.

Thậm chí, cái thí dụ thuần túy nhân tạo này dùng để minh họa một ít đặc trưng của các (hiện tượng) văn pháp (vừa nêu) và cũng khiến người ta có thể thừa nhận chúng một cách phổ quát. Chủng tính vô hạn của các cấu trúc tiềm thể này giống hệt như tôi có thể đã tạo ra được bằng những nguyên tắc rất đơn thuần nhằm biểu đạt một ít chức năng văn phạm phụ thuộc, nếu ta chỉ cho các nguyên tắc này là một thuộc tính đệ quy (recursive property–đặc tính khả quy), nhất là cái đi theo cùng chúng nhằm gắn các cấu trúc thuộc hình thái s [s...], s có trong những cấu trúc khác[25]. Những phép chuyển biến văn pháp, thế thì, sẽ tái hình thành, một cách tối hậu, một cấu trúc hiển tách ly hoàn toàn với cấu trúc ẩn tàng. Cấu trúc tiềm thể này có thể là một cấu trúc trừu xuất tối thượng, nó có thể mở ra từng điểm một (nó không phải đóng lại từng điểm từng điểm một) quan hệ hỗ tương đến sự thành tựu âm vi học[26]. Tri thức ngôn ngữ–“ngữ năng”, hàm nghĩa kỷ thuật của thuật ngữ này đã được lược giảng trong diễn ngôn ban đầu của bản văn – kéo theo quyền kiểm soát những tiến trình văn pháp của lý thuyết này.

Chỉ chừng ấy thôi, ta có thể bắt đầu tiến hành công thức hóa một vài vấn đề cần yếu cho phân tích và lý chứng. Một vấn đề chủ yếu được đặt ra do sự thật là, cái cấu trúc hiển thể, nói chung, lộ ra quá ít dấu hiệu trong tự thân nghĩa của câu. Chẳng hạn, có rất nhiều câu lưỡng nghĩa mơ hồ không chỉ định một điều gì cả trên cấu trúc hiển thể, như câu 4 mà ta có thể thấy sau đây:

4                                  I disapprove of John’ drinking (Tôi phản đối việc uống của John).

Câu này có thể chỉ cho việc uống của John, hoặc có thể chỉ cho đặc tính của việc uống đó. Sự mơ hồ này được giải quyết bằng các cách khác hơn trong câu 5 và 6 như sau:

5                                  I disaprove John’ drinking the beer (Tôi phản đối việc John uống bia)

6                      I disapprove John’ drinking excesive (Tôi phản đối việc John uống quá nhiều)

            Rõ ràng, các tiến trình văn phạm được tương ưng. Nên nhớ là, ta không thể cùng

lúc mở rộng câu 4 bằng cả hai cách trong câu 5 và 6; tiến trình này sẽ cho ta thấy ở câu

7:

7                      *I disapprove John’ excessive drinking the beer[27]     

            Lý thuyết văn pháp nội tính hóa của ta chỉ định hai cấu trúc trừu xuất sai biệt từ

câu 4, một là cấu trúc 5 tiềm thể và hai là cấu trúc 6 (cũng ở dạng tiềm tại) và tiếng Anh

thì chúng phổ quát hoàn toàn. Như thế, câu “I disapprove of John’ cooking – Tôi phản đối việc nấu của John”, có thể ứng dụng cho cả hai trường hợp, hoặc là, tôi nghĩ vợ anh ấy có thể nấu hay anh ta sử dụng, chẳng hạn, quá nhiều tỏi. Ngược lại, câu lưỡng nghĩa, như câu 4, được phân giải, khi ta mở rộng nó qua cách đã chỉ định ở câu 5 và 6.

                                    Sự thật là câu 7 là câu lạc đề, nó cần được giải thích. Trong trường hợp này, sự giải thích sẽ được cung cấp bằng cách công thức hóa của các nguyên tắc văn phạm để chỉ định những cấu trúc tiềm tại luân phiên trên bình diện văn phạm cá biệt và để cho phép trong mỗi một trường hợp này, nhưng không cho phép trường hợp khác về các cách mở rộng sang câu 5 và 6. Thế thì, chúng ta sẽ giải thích sự lạc đề của câu 7 và câu 4 lưỡng nghĩa bằng cách quy cho hệ thống của các nguyên tắc này với người tri nhận ngôn ngữ, xét như là khía cạnh ngữ trí của anh ta. Tất nhiên, hẳn là mình có thể cố gắng di chuyển trong một bình diện sâu hơn của sự giải thích, khi hỏi cách nào mà cơ cấu tiềm tại ấy tương kết sai biệt giữa âm tố (và) – nghĩa và một cấp độ sai biệt của các cấu trúc hiển được tạo sinh (generated surface structure) (có thể kể cả câu 7). Đây là một vấn đề của văn phạm phổ quát, qua ý nghĩa vừa được miêu tả. Khi sử dụng thuật ngữ của chú thích câu 7, thì diễn ngôn ở bình diện văn phạm cá biệt sẽ phải là bình diện của hiệu lực miêu tả, còn ở bình diện văn pháp phổ quát, sẽ được đặt trên bình diện của hiệu lực giải thích.

                                    Hãy nhớ rằng, những nguyên tắc nội tính hóa của văn phạm tiếng Anh vẫn có các hệ quả hơn thế trong trường hợp y như trường hợp vừa diễn ngôn.Có các phép cải biến rất phổ quát cho phép hay yêu cầu loại đi những yếu tố có thể được tái hiện[28], trong toàn thể hay từng phần dưới ngững điều kiện hiển thể[29]. Hãy ứng dụng cấu trúc 8 và rồi các nguyên tắc đã cho phái sinh sang câu 9[30].

8                                  I don’t like John’s cooking any more than Bill’s cooking.

                                    (Tôi hoàn toàn thích cách nấu của Bill hơn là John.)

9                                  I don’t like John’s cooking any more than Bill’s.

(Tôi không ưa việc John nấu chút nào hơn là của Bill [tôi thích Bill nấu hơn bất cứ cách nấu nào của John].)

            Câu 9 là một câu lưỡng nghĩa, nó có thể là “sự – the fact [lượng]”, hoặc có thể là “lý – quality [phẩm]”, tức thô hay tế, hoặc phẩm loại. Nghĩa rằng, tôi hoàn toàn không thích “sự” nấu của John mà tôi thích “sự” nấu của Bill hơn, hoặc là tôi hoàn toàn không thích “lý” nấu của John mà tôi thích “lý” nấu của Bill hơn[31]. Tuy nhiên, câu 9 cũng có nghĩa rằng, tôi không thích phẩm chất nấu của John chút nào, tôi thích “sự” nấu của Bill hơn, hay ngược lại, theo sự và lý hỗ tương giao hoán. Tức là, qua cấu trúc tiềm tại của câu (8), ta cần nhận ra ngữ đoạn lưỡng nghĩa của “John’s cooking” và “Bill’s cooking” trong cùng một cách, nếu ta có thể loại trừ được “cooking”. Có vẻ đây là lý do để kết luận rằng, cái gì được tương quan, thì cái đó có một điều kiện phổ quát nào đó trên tính khả thi về những thao tác loại trừ, chẳng hạn, điều được nêu ra ở câu 9 phát sinh từ câu 8. Hơn thế, một điều kiện trừu xuất cần đề cập đến, (cái phát sinh đó), không chỉ là cấu trúc mà cách thao tác ứng dụng với điều kiện ấy, nhưng còn là lịch sử phái sinh của cấu trúc này nữa.

            Ở đây, những thí dụ khác có thể  đã tìm thấy một nguyên lý loại tợ được cho là nguyên lý chế tác (a similar priciple seems to be at work)[32]. Như vậy, hãy quan sát câu 10, mà nó hẳn là được phái sinh từ câu 11 lẫn câu 12, và do vậy, nó là câu lưỡng nghĩa[33]:         

10        I know a taller man than Bill.

                                    (Tôi biết một [gã] người ‘cao’ hơn Bill.)

11                                I know a taller man than Bill does.

(Tôi biết một người cao hơn Bill [đang thực hiện.])

12                                I know a taller man than Bill is.

                                    (Tôi biết một người cao hơn Bill [đang có].)

            Thật rõ ràng, câu lưỡng nghĩa 10[34] không tái hiện trên cấu trúc hiển, sự loại trừ của “does” (mà câu 10 tái hiện – “does”) trong câu 11 lưu lại chính xác một cấu trúc đồng nhất như là cách loại trừ của “is” (mà nó, câu 10, tái hiện – “is”) trong câu 12. Tuy vậy, giờ thì hãy quan sát câu 13.                    

13                                I know a taller man than Bill, and so does Bill.

                                    (Tôi biết một người cao hơn Bill, và chính Bill đang thực hiện như vậy.)

            Giống như câu 9, câu này là câu lưỡng nghĩa–có hai–cách hiểu (two–ways ambiguous) hơn là câu lưỡng nghĩa có–bốn–cách hiểu (four–ways ambiguous). Ta có thể biết được nghĩa này trong câu 14 hay 15, nhưng không phải ở trong câu 16 hoặc 17[35].

14                      I know a taller man than Bill does and John knows a taller man than Bill does.

15                      I know a taller man than Bill is and John knows a taller man than Bill is.

16                                  I know a taller man than Bill is and John knows a taller man than Bill does.

17                      I know a taller man than Bill does and John knows a taller man than Bill is.

            Song, ở đây lại có vấn đề phát sinh, vì chúng ta thấy bằng cách quan sát cẩn thận hơn sự phái sinh của câu 13. Ta xin chỉ định cách loại trừ thao tác thể hiện ở câu 10 phái sinh từ câu 11, đánh dấu bằng T­1  và chỉ định cách loại trừ thao tác ở 10 phái sinh từ 12, đánh dấu bằng T2. Nếu như, ta ứng dụng T1 cho mỗi  liên kết ngữ của câu 14, ta có được câu 18:                     

18                                I know a taller man than Bill and John knows a taller man than Bill.

                      Cách ứng dụng của T2 cho mỗi liên kết ngữ của 15 cũng sẽ thành 18. Tuy nhiên cách ứng dụng của T1 cho một liên kết ngữ và ứng dụng T2 cho liên kết ngữ khác trong 16 thì vẫn thành 18, bởi vì có cùng một thủ tục (trong trật tự đối đãi hay trong trình tự tương đối– the opposite order) khi đã ứng dụng cho hai liên kết ngữ của 17. Như vậy, 18 có thể được phái sinh bằng cách ứng dụng của T1 và T2 cho bất cứ bốn cấu trúc tiềm tại nào, 14, 15, 16 hay 17, chẳng hạn.  Cơ cấu 18, tự thân nó không minh định cái nào là hình thái chìm của các cấu trúc trên; sự khu biệt này từng được loại trừ bằng cách loại trừ các thao tác T1 và T2. Tuy nhiên ,giờ hãy quan sát thao tác T3  “Isaw Bill and John so did John” phái sinh từ “Isaw Bill and John saw Bill.” Tức là ta ứng dụng T3­,  cho câu 18, ta có câu 13. Tuy nhiên, ta nên nhớ là 13 có thể có cách thuyên giải của 14 hay 15, nhưng không phải cách thuyên giải của 16 hay 17. Do vậy, ta thấy, T3  có thể ứng dụng cho 18, chỉ với điều kiện hoặc 14 hay 15, nhưng không là 16 hay 17, vậy,T3 đã là cấu trúc chìm trong các cách phái sinh đã cho của 18. Song, sự thông tin này trong tự thân câu 18, không được hiển lộ, như chúng ta vừa khảo sát. Vì vậy, khi ứng dụng T­3 cho 18 ta phải nghiệm được đôi phần lai lịch phái sinh của 18–nghĩa rằng, ta cần có thông tin mà trong ngoặc vuông của tự thân câu 18 không lưu trữ. Trên thực tế, ta phải biết cái gì mà hai liên kết ngữ của 18 phái sinh từ các cấu trúc chìm mà trong đó yếu tố đồng nhất đã bị loại[36]. Thành ra, một lần nữa, một điểu kiện phổ quát nào đó trên tính ứng dụng của việc loại đi các phép chuyển biến phải cần được liên kết lại, một nguyên lý mà bằng cách này hay cách khác làm phát sinh sự quan sát lai lịch phái sinh về những chuỗi bị loại trừ, chừng như những đặc trưng của cấu trúc tiềm thể này có được một cách tối hậu từ chúng.

Để nhận ra vấn đề phức hợp như thế nào, ta hãy quan sát những câu như “John’s intelligence, which is his most remarkeable quality, exceeds his prudence – sự thông minh của John là phẩm chất đáng nhớ nhất, nó vượt qua tính thận trọng của anh ta” hoặc “the book, which weighs five pounds, was written by John – quyển sách này nặng năm pao, đã được John trứ tác.” Có lẽ, đại từ liên hệ trong tiểu cú đồng chức được ấn vào trong (the embedded appositive clause – tiểu cú đồng chức [đồng vị ngữ] được lồng vào) thay cho một ngữ đoạn bị loại đi, và do trạng huống qua cách loại trừ như vậy mà ta hàm ngôn rằng, ngữ đoạn danh từ này nên được cho là đồng nhất với danh ngữ đọan tiền chỉ (the antecedent noun phrase) “John’s intelligence” hoặc “the book”. Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp, nó có thể bị cho là có sự sai biệt giữa tiền chỉ ngữ với ngữ đoạn danh từ của mệnh đề đồng chức. Do vậy, trong trường hợp của câu thứ nhất, ta đang hướng đến mức độ thông minh của John trong mệnh đề hay tiểu cú chánh, nhưng, ta cũng đang hướng đến phẩm chất thông minh của anh ta trong tiểu cú được lồng vào; và ở trường hợp của câu thứ thứ nhì, ta đang hướng đến quyển sách như là một đối tượng trừu xuất trong tiểu cú chánh và trong tiểu cú được lồng vào, ta đang hướng đến quyển sách với tư cách là một đối tượng vật lý cụ thể; người ta có thể cho là các dị biệt như vậy được biểu tượng trong cấu trúc tiềm thể[37]. Do vậy, có vẻ ta sở hữu được tiến trình mâu thuẫn nguyên lý bằng hai thí dụ vừa nêu. Ở đây, tôi sẽ không phát triển chi tiết vấn đề này trong diễn ngôn của mình, người đọc sẽ tự khám phá rằng nó được điều hợp như thế nào khi mà một phẩm loại phong phú như vậy được quan sát, nếu như anh ta đeo đuổi chất liệu này.

            Thật vậy, nguyên lý cụ thể trong những trường hợp vừa nêu trên, là một nguyên lý bất khả tri hay là một nguyên lý với  ẩn số của nó, cho dù qua một vài điều kiện, rõ ràng là người ta phải chạm được nó. Vấn đề đã đặt ra bằng các minh dụ này, là một loại hình độc nhất toàn diện. Cách quan tâm về sự kiện ngôn ngữ học làm lộ diện một vài đặc tính của những câu, liên hệ đến âm tố, nghĩa và sự lệch chuẩn của chúng v.v…Trên mặt cứ liệu, sẽ không có bất cứ sự lý giải nào xảy ra cho những sự kiện này, với điều kiện là ta tự giới hạn mình theo lối nói mơ hồ, ba phải về những từ “các thói quen”, “những kỷ năng”, “các cách bố trí khi trả lời”, hoặc là nói lập lờ về mô thức của những câu “do phép loại suy”. Ta không cần có cái “thói quen” về những câu 4, 9, và 13 tri thức như thế trong một cách nào đó; tuy không chắc là độc giả đã từng tiếp cận được những lối nói tương tợ như vậy, nhưng chẳng qua anh ta biết chúng trong một đường lối đặc thù nhất. Khi chỉ cho những tiến trình đã liên kết với nhau như  “phép loại suy”, thì đơn thuần là người ta phải đặt tên cho cái gì đó còn trong huyền bí. Khi lý giải các hiện tượng như vậy, ta cần khám phá các nguyên tắc tương quan đến âm tố và nghĩa của ngôn ngữ đang thực thi–văn phạm từng được ngữ trí nhân loại nội tính hóa[38]–các nguyên lý phổ quát xác minh cách tổ chức và chức năng của những nguyên tắc này.

            Tính chất sai lạc và phi lý của cấu trúc hiển trở thành cứ liệu, thậm chí ngay khi những hành thái (pattern) đơn giản nhất được nghiên cứu. Chẳng hạn, hãy quan sát lại – (những gì vừa nêu), qua một thí dụ hoàn toàn nhân tạo như sau ở câu 19:                       

19                                John was persuaded to leave (John đã được thuyết phục để rời đi).

            Cơ cấu chìm bên dưới câu này, phải được biểu thị là sự liên quan vị – chủ ngữ (subject – predicate) duy trì trong một mệnh đề chìm của hình thái câu 20 (giả định những chức năng văn pháp biểu tượng trong cùng một cách đã đề nghị ngay từ đầu của tác phẩm và xác định là sự liện hệ bổ – vị ngữ duy trì trong một mệnh đề chìm của hình thái hay mô thức câu 21 như sau:                

20                                [S[NP John]NP]VP leave]VP]S

21                                [S[NP]NP[VPpersuade[NPJohn]NP]VP]S

            Như vậy, “John” trong câu 19, ta đã biết John là chủ ngữ của “leave” và làm nhiệm vụ bổ ngữ của “persuade” và, những biểu kiện này được hiển đạt chính xác ở cơ cấu chìm nằm bên dưới của 19 nếu khi cơ cấu hạ tầng ấy hóa thân thành các mệnh đề mà trên mặt thông tin đã biểu lộ thành câu 20 và 21. Cho dù, cơ cấu chìm này cần được tạo thành những mệnh đề như vậy, nếu sự tiếp cận này vừa phát thảo là chính xác, thế thì, chúng không có vết tích nào, như ta thấy trong cấu trúc hiển của người phát ngôn cả. Phép chuyển biến đa dạng này khiến sinh ra câu 19, đã triệt phá hệ thống của những quan hệ cũng như các chức năng văn pháp hiển nghĩa của câu.

            Quan điểm này luôn trở nên rõ ràng hơn, khi nào ta liễu giải được tính đa dạng của những câu có vẻ tầm thường như câu 19, tuy rằng những câu như vậy sai biệt trong phạm vi rộng ở những cách mà chúng được nhận thức và các thao tác hình thức ứng dụng chúng. Xin đề nghị rằng, “persuaded’ trong câu 19 được thay bằng một trong những từ như sau[39]:

22                                expected, hired, tired, pleased, happy, lucky, eager, certain, easy

            Khi “expected – đã được yêu cầu” thay cho “persueded – đã bị thuyết phục, khiến cho tin tưởng,” thì đại khái, nó có ý nghĩa là, biểu kiện về sự rời xa của John là biểu kiện vốn được yêu cầu, nhưng nó không nói lên là việc rời xa của John là việc được thuyết phục. Khi được thay bằng “hired – sai sử”, thì câu này đã biền nghĩa hoàn toàn, đại để là, mục đích để sai John đi đã là vì, anh ấy muốn đi – tức là, một  cách thuyên giải trở thành tự nhiên hơn, nếu ta thay “leave” bằng một ngữ đoạn giống như ngữ đoạn “fix the roof – lập chứng cứ” vậy. Khi “tired – bị mệt mỏi, bị cho nghỉ hưu” được thay vào, ta có được một câu phi cú. Thành thử, một câu nếu là “too tired – quá mệt, bị hưu non” thay cho “persuaded”, giờ đây, câu này hàm ngôn rằng, “John didn’t leave (John không phải đi)”. Còn “pleased” thì sai biệt hoàn toàn. Trong trường hợp này, chúng ta có thể có “too pleased – đã rất hài lòng”, hàm ngôn rằng, “ John didn’t leave (John không phải đi)”, nghĩa là “khi bỏ đi John rất hài lòng” anh ta không bị sai sử gì cả, song, ta cũng có thể mở rộng câu này thành “John was too pleased to leave to suit me – John đã rất hài lòng khi đi với tôi,” trường hợp này không như những trường hợp vừa nêu. Trên mặt cảm tính, “happy – hạnh phúc” vui thích hơn “pleased,” cho dù, người ta có thể cho rằng, có sự liên hệ bổ – vị ngữ (verb – object) đang duy trì giữa “please” và “John”.  Câu “John was lucky to leave (John đã may mắn để đi)” được giải thích bằng một đường hướng khác hơn nữa. Đại để, có nghĩa là, John đã may mắn trong cái mà anh ta đã bỏ đi, một cách thuyên giải ngoài những trường hợp vừa nêu. Hơn thế, ta có thể cấu trúc những câu như thề, chẳng hạn, “John was a lucky fellow to leave – John đã có tri kỷ (như câu đầu) để ra đi,” qua những thí dụ, chỉ có những câu vừa rồi thì mới có thể thay bằng “lucky” mà thôi. Còn “John was eager to leave – John đã hăng hái khi bỏ đi,” khác hẳn với những trường hợp trên, chính thức là nó được tiếp cận với các biểu đạt như “John was eager for Bill to leave – John hăng hái vì Bill bỏ đi” và “John’s eagerness (for) Bill to leave – John hăm hở vì Bill bỏ đi.” “John was certain to leave – John đã quyết bỏ đi.” “John đã quyết bỏ đi” có thể được giải thích là “it was certain that John would leave – John sẽ đi là cái chắc”; nếu ta nhắm đến những thí dụ khác, thì chỉ “expected” mới là chủ ngữ cho việc thuyên giải này, tuy nhiên “expected” rõ ràng là khác hẳn với “certain” trong nhiều bình diện – chẳng hạn, “they expected John to leave – Họ đã yêu cầu John bỏ đi.” Tính ngữ “easy”, dĩ nhiên là sai biệt hoàn toàn, ở đây và trong trường hợp này, chỉ có sự liên hệ bổ – vị từ duy trì giữa “leave” và “john” thôi.

            Ta thấy rõ rằng, trên cấu trúc hiển, nó thường bị lệch lạc và bất chuẩn và rằng, ngữ trí của ta liên hệ đến quá nhiều thuộc tính của bản chất trừu xuất và trên cấu trúc hiển mà ta không thể nhận ra. Hơn thế, ngay các thí dụ đơn thuần nhân tạo như trên, ta biết là chúng hiện thân bất thực như thế nào, vậy, để cố gắng diệt tận ngữ năng ngữ nghĩa (linguistic competence)– các từ như “habits – các tập quán”, “dispositions – những cách bố trí”, “knowing how –khả năng nhận thức như thế nào,” và những khái niệm khác đã tiếp cận cùng khoa hành vi học (khoa nghiên cứu về hành vi hay ứng xử – the study of behavior)[40] đã từng được khoanh vùng vô lý, trong những năm qua – là điều tất yếu nên làm.

            Chí đến, chứng cứ mà ta có thể thấy được trên bình diện cấu trúc âm tố, là những thể hiện trừu xuất được mô thức hóa và được sử dụng tinh xảo qua các thao tác hình thức liên quan trong ngữ dụng. Ta vốn sở hữu một tri thức chi tiết về bản chất của biểu tượng ngôn nghĩa và sở hữu những điều kiện tinh vi trên cách ứng dụng có nguyên tắc ở lãnh vực này hơn là bất cứ lãnh vực nào khác. Với tôi, hầu như công việc của những năm qua về cấu trúc âm tố là cung cấp chứng kiện tinh tế ủng hộ cho quan điểm mà hình thái của các nền văn pháp cá biệt cần được xác định, ở những ý nghĩa tột cùng, bằng một khái yếu hạn định để phân loại những thuộc tính âm vị quan yếu, tức là những luật loại có thể tương quan cùng cấu trúc hiển của biểu tượng âm vị và các thuộc duyên trên cách tổ chức và ứng dụng các luật ấy. Như thế, việc này liên quan mật thiết với các thể tài chung đã diễn ngôn trong chương đầu tiên của bản văn, các thể tài mà tôi sẽ thực hiện trở lại y trên cách khảo sát vấn đề về sự khái yếu hạn định, phổ quát được hình thành như thế nào trong sự thụ đắc ngôn ngữ. Hơn thế, những lý giải về cấu trúc âm tố đều liên quan đến vấn đề rất thiết thân để phát triển một cách thường nghiệm những mô hình dụng năng (performance – ngôn ngữ biểu hiện cụ thể) thỏa đáng, tới một chừng mực mà chúng là chỗ dựa cho sự kết luận rằng, các cấu trúc âm vị học trừu xuất được sử dụng đến độ tinh xảo nhất, là do các hệ thống của những nguyên tắc biết tổ chức chặt chẽ này. Các quy luật đó đề nghị rằng, mọi trào lưu đang tiếp cận với những vấn đề tri giác và thể chế của hành vi đã bị sự ấu trĩ  làm cho chựng lại (all current approches to problems of perception and organization of bihavior suffer from a failure) khi đổ vào cái uyên thâm và tính phức hợp toàn mãn của những tiến trình tâm (to attribute sufficient depth and complexity to the mental processes) mà những tiến trình này cần phải được thể hiện bằng bất cứ mô hình nào để thử đạt được những hiểu biết rốt ráo câu sinh cùng những hiện tượng hữu nghiệm (empirical phenomena). Ở đây, không gian không cho phép ta phát triển chi tiết những thể tài này, hoặc bằng sự quan tâm với chất liệu cấu trúc âm vị hoặc bằng nghĩa tiềm năng của nó dành cho hệ tâm lý tri nhận. Tuy nhiên, một họa biểu đơn thuần, có thể nói lên một vài  ý tưởng về bản chất của chứng lý có giá trị và những kết luận được nó, cái họa biểu đơn thuần này, dựng nên với tính mô phạm hoàn toàn.

            Xin lặp lại là, những quy luật kết học (syntactic rule – luật cú pháp) của ngôn ngữ tạo sinh (generate – phát sinh) một tập hợp vô hạn của các cấu trúc hiển, mỗi một cơ cấu đều có dấu ngoặc vuông đính nhãn thuộc về  một chuỗi của các yếu tố cực tiểu, chẳng hạn, câu 2 đã nêu, ở đó, các yếu tố cực tiểu mà ta có thể nhận biết là, a, man, is, honest. Tự thân của mỗi một đơn vị này có thể sở biểu với tư cách là một chuỗi của các âm đoạn (segment), chẳng hạn, man là chuỗi của những âm đoạn: /m/, /æ/, /n/. Mỗi một âm đoạn này, theo trật tự có thể được cho là một tập hợp của các nét loại biệt hóa (specified feature); vì vậy, /m/ cấu thành tính phức hợp nét (feature complex) [+ consonantal = + chất liệu phụ âm], [– vocalic = khử chất liệu nguyên âm], [+ nasal = + chất âm mũi] và v.v…Cơ cấu âm đoạn này của một đơn vị sẽ được thể hiện bằng một mục lục từ vựng (từ mục – lexical entry) – bảng từ vựng hóa các đặc trưng bản âm (inherent phonetic – âm vị vốn có), ngữ nghĩa và cú pháp của các đơn vị đang diễn luận. Từ vựng của ngôn ngữ là một tập hợp của những từ mục như vậy, có lẽ, với cấu trúc hậu bổ, ở đây ta không nhất thiết phải liên hệ đến.Giờ thì chúng ta chỉ liên hệ với các thuộc tính âm vị của từ mục mà thôi.

            Từ mục của một đơn vị nào cần loại biệt đúng các thuộc tính của đơn vị ấy mà chúng là cái đặc chất không bị quy luật ngôn ngữ học hạn định. Dụ như, đối với man, từ mục này phải được nhận chân rằng âm đoạn thứ nhì của nó là thuộc về nguyên âm hạ tiền thiệt (a low front vowel – nguyên âm lưỡi trước thấp – hạ tiền thiệt nguyên âm), tuy nhiên, xét về mức độ thời tính (tenseness), phức trùng âm, âm mũi hóa v.v… của nguyên âm này không nhất thiết phải được minh định trong từ mục, bởi vì các cấp độ đó đều là chất liệu có quy luật chung, phần nào dành cho hội thoại tiếng Anh đa dạng, một phần tổng quát cho mọi hội thoại tiếng Anh và phần nào là chất liệu của âm vị học phổ quát. Cũng vậy, từ mục dành cho man phải biểu thị là nó có một số nhiều bất nguyên tắc, bằng nguyên âm chuyển đổi từ âm thấp (hạ âm – low) đến âm trung (trung âm – mid). Các âm đoạn của từ mục này đều trừu xuất (abstract), có nghĩa là các luật âm vị học (âm luật học) của ngôn ngữ sẽ luôn chuyển động và tạo cho chúng thành tính đa dạng trong nhiều phương hướng, do vậy, nói chung, ở đó không nhất thiết phải là từng điểm một đơn thuần tương ưng giữa từ mục với âm biểu hiện thực (actual phonetic representation – biểu tượng âm vị thật sự). Dựa trên những dụ ngôn đang diễn giải, tôi sẽ sử dụng các âm biểu cho cách thường dùng, tức là, mỗi một âm biểu được xem như là một phức tính (complex) về một tập hợp nào đó của các nét, tôi sẽ sử dụng biểu tượng / / , và khi khép lại mọi biều tượng, tôi sẽ sử dụng [ ] để đóng kín lại các từ biểu (lexical representation) đã phái sinh từ các từ biểu nhờ vào cách ứng dụng các âm luật, nhất là, kể cả âm biểu cuối đã có được là do cách ứng dụng bộ tập hợp đủ của các âm luật.

            Trước hết, hãy khảo sát những từ như signi – signify (biểu thị – dấu hiệu, phù –biểu), paradigm – paradigmatic (đối vị – hình hệ, hệ đối vị – ngữ tướng) và v.v… Do vì, ngữ tướng signi – signify là một hình thái phái sinh, nó sẽ trở nên minh bạch hơn khi ta đã tiến hành phân tích, trong trường hợp này, nó được tương ưng mật thiết với từ biểu trừu thể ẩn (the underlying abstract lexical representation). Vậy, hãy cho rằng, ta đang thử ấn định cho thân từ  (the stem – từ cán) bằng các hình thái này mà từ biểu /sign/ và /pærædigm/ ở đây, các biểu tượng như vậy sở hữu sự thuyết giải âm vị theo tính ước nghiệm (conventional phonetic interpretation) của chúng. Do vậy, yếu tố ẩn /sign/ sở thành là âm vị /sign/ trước – ify. Tuy nhiên, nó đắc thành như là âm vị /sayn/ một cách tách biệt. Một khảo sát tương tợ cũng quy cho paradigm.

            Hình thái sign paradigm tách biệt được minh định bằng một vài âm luật mà khi cùng thao tác, chúng tạo hiệu ứng để biến biểu tượng /ig/ thành /ay/ lúc mà nó đã tùy hành bằng âm mũi – ngữ – kết (a word – final – nasal). Sự phân tách thận trọng về âm vị tiếng Anh nói lên rằng, tiến trình này có thể được phân thành một chuỗi của các âm bậc, kể cả (âm bậc thứ nhì và thứ ba mà trên thực tế, nó cần được phân tích hơn nữa) như sau:                       

23                                a. velar becomes continuant before word – final nasal

(âm vòm mềm {nhuyển ngạc âm} thành trường độ âm (liên tục âm) trước âm mũi ngữ hậu kết – ngữ kết tỵ âm)

                                    b. vowel + velar continuant becomes tense vowel

                                    (nguyên âm + nhuyển ngạc âm trở thành nguyên âm căng)

                                    c. // becomes [ay] (where // is the tense segment corresponding to [i])

                                    // trở thành [ay] (mà ở đây // là âm đoạn căng tương ưng với [i]).

            Khi ứng dụng các quy luật này, cho /sign/ ẩn một cách đơn biệt, đầu tiên ta có

được [siγn] (ở đây, [γ] là trường độ nhuyển ngạc âm do quy luật 23a; vậy, 23b mà [sn] là âm đoạn căng; còn luật 23c là [sayn] cuối cùng tương ưng với [i]. Tức là luật 23c đơn biệt.

            Luật 23a và 23b thuộc về quy luật quan hệ âm vị kém quan trọng (little interest), còn 23c là một bộ phận của các hệ thống phổ quát toàn diện thuộc về “nguyên âm chuyển động – vowel shift”, làm thành hạt nhân của âm vị học tiếng Anh. Chẳng hạn, có những lý do cụ thể để ta giả thiết rằng, thân từ chìm bên dưới các hình thái như divine–divinity (tính thần thánh siêu thế), thì /divn/ ở đây là âm yếu (nhược âm) của [i] khi đứng trước –ity và nó trở thành [ay] bởi quy luật 23c đơn biệt. Cũng vậy, reptil (loài bò sát) phái sinh từ thân từ chìm bên dưới /reptl/  trở thành [reptay] do quy luật 23c đơn biệt và [reptil] v.v… trong nhiều trường hợp khác.

            Hãy tiếp tục khảo sát những từ như ignite–ignition (nóng chảy do kích hoạt lửa), expedite–expeditious (nhanh chóng do khẩn trương), và contrite–contrition (sám hối vì hổ thẹn). Đúng như reptiledivine phái sinh từ ngữ cán chìm /reptl/ và /divn/, như vậy, ta có được một cách đáng kể bộ phận trước tiên của mỗi một cặp vừa nêu xuất phát từ /ignt/ và /expedt/ cũng như /contrt/. Luật này (được ứng dụng) để nói lên rằng, quy luật 23c là quy luật thành tựu âm vị, là trường hợp đặc biệt về tiến trình phổ quát của nguyên âm chuyển hoán. Rõ ràng là, bộ phận thứ nhì của mỗi một cặp được phái sinh bằng các tiến trình 24 và 25 như sau:

24                                Vowels become nontense before –ion, –ious, –ian, –ity, and so on

(Những nguyên âm không biến thành trương độ khi đứng trước –ion, –iuos, –ian, và ity v.v…)

25                                The segment /t/ followed by a high front vowel is relazed as [š].

(Âm đoạn /t/ đã tùy hành bằng một nguyên âm thượng tiền thiệt (nguyên âm lưỡi trước cao) được thành tựu xét như là [š]).

            Quy luật đầu tiên trong các luật vừa nêu nói lên rằng, [divin] xuất phát từ thân từ chìm /divn/ trong divinity và [reptil] từ /reptl/  trongreptilian. Cũng vậy, luật này cho rằng, [ignit] xuất phát từ /ignt/ trong ignition, [expedit] từ /expedt/  trong expeditious và [contrit] từ /contrt/ trong contrition. Qua các luật như vậy, ta thấy, rõ ràng là có hiện tượng khái quát hóa bên dưới, tức là một nguyên âm không thành trường độ đứng trước một nguyên âm nhẹ (nguyên âm khinh âm – unstressed vowel) không hiện hữu trong âm tiết có cương vị từ kết (word–final syllable), chính xác là khi nó đã thành công thức, luật này câu sinh cùng nguyên âm chuyển hoán và cùng một vài nguyên âm khác cấu thành bộ phận trung tâm của hệ thống âm vị tiếng Anh.

            Quy luật thứ hai, tức là luật 25, ứng dụng cho ngữ tố /ti/ trong /ignition/, /expeditious/ và /contrition/, khi thay nó bằng [š] và cuối cùng chuyển nó thành các liên hệ âm vị [ignišən], [ekspədišəs], [kəntrišən], thế thì, theo sau cách ứng dụng nguyên tắc này là để rút gọn những nguyên âm khinh thành [ə]. Tóm lại, các âm đoạn như vậy đã hiện thực như là [ayt] trong ignite, expedite,contrite và chúng được biểu hiện thực sự như là [iš] trong ignition, expeditious, và contrition.

            Tuy nhiên, giờ ta hãy khảo sát những từ right–righteous (đúng đắn vì chân chính), liên quan đến ngữ âm [rayt] – [ryčəs]. Hình thái sau, tức là [ryčəs], xuất hiện là do phái sinh từ mô hình có nguyên tắc trong hai phương diện, nghĩa là ở phẩm chất nguyên âm (ta nên cho phẩm chất này là [i] hơn là [ay], bằng quy luật 24) và ở phụ âm cuối của thân từ này (ta nên cho thân từ này là [š] hơn là [č], bằng quy luật 25). Nếu, right đã là chủ thể cho cùng một tiến trình như expedite, vậy, ta sẽ có được [rišəs] hơn là [ričəs] như là cách hiện thực hóa ngữ âm, tương tự như [ekspədišəs]. Sự lý giải cho cách phái sinh kép (ở mặt ngữ âm) này là gì?

            Trước hết, hãy nhớ rằng, quy luật 25 chưa phải là toàn hảo, trên thực tế, có những trường hợp khác mà trong đó /ti/ được thực hiện là [č] hơn là [š], chẳng hạn, question [kwesčən), ngược hẳn với direction [direkšən]. Một công thức nhiều chính xác hơn của 25 sẽ là 26:

26                    /t/ đã tùy hành bằng một nguyên âm thượng tiền thiệt đắc hiện như là [č] sau một tương tục âm và như là [š] ở vị trí khác.

            Khi trở lại với hình thái right, ta thấy rằng phụ âm cuối này sẽ được minh định như là [č], chớ không là [š], nếu trong biểu tượng chìm này, mà ở đó đã có một tương tục âm đi trước nó¾nghĩa là, tìm thể này đã là /riφt/, ở đây, φ có đôi phần phụ âm. Nếu thế thì, phụ âm φ phải biệt lập khỏi bất cứ phụ âm nào xuất hiện thật sự liên hệ đến ngữ âm trong vị trí này, tức là các phụ âm răng, âm môi hoặc âm vòm cứng ở bộ phận không bị in nghiêng của các từ như wrist (cổ tay), rift (vết nứt), hay wished (sở nguyện). Như vậy, ta có thể kết luận rằng, âm φ là âm /x/ có trường độ nhuyển ngạc âm, tất nhiên, nó không hiện hữu trên mặt âm vị học của tiếng Anh. Thế thì hình thái chìm này sẽ là /rixt/ vậy.

            Giờ thì ta hãy quan sát cách phái sinh của right.  Kinh qua quy luật 23b, âm biểu /rixt/ trở thành /rīt/. Qua luật 23c, âm biểu /rīt/ thành /rayt/, /rayt/ này là hiện thực hóa âm vị của right.

            Tiếp đến hãy quan sát cách phái sinh của righteous. Khi kết luận rằng, từ này có cùng một hậu tố như expeditiousrepetitious, vậy, trên mặt từ vựng, ta có thể cho là nó giống như /rixtious/ (ở đây, bản thân tôi không liên hệ cùng âm biểu thích hợp dành cho –ous). Thế nên, ta xin đề nghị là trình tự của những quy luật này đã diễn ngôn tới ngưỡng là những câu như: 23a, 24, 26, 23b, 23c, tới một ngưỡng mà chúng là tính thích ứng có trình tự cho các luận cứ quan yếu của tiếng Anh, y trên một vài tính cách đơn giản quy cho sự thuận lợi của lý giải. Quy luật 23a là quy luật không thể ứng dụng được, còn luật 24 thì vô nghĩa, khi ứng dụng nó cho hình thái ẩn /rixtious/.  Khi trở lại quy luật 26, ta thấy, nó cho ta hình thái /rixtious/. Giờ thì ứng dụng luật 23b, nó cho ta âm biểu [rīčous], và luật 23c cho ra âm biểu [rayčous], và nó trở thành [rayčəs] bằng cách rút gọn những nguyên âm khinh,  do vậy, ta thấy luật 26 và 23, chúng tự đắc chuyển, âm biểu chìm là [rixt] sẽ được biệt hành liên hệ đến ngữ âm [rayt] và liên hệ đến ngữ âm [rayč] trong rightous, một cách chính xác như đã yêu cầu.

            Những sự kiện thấy rõ này nói lên rằng, âm biểu chìm phải là [rixt] (phù hợp với phép chánh tả biểu âm – orthography, và tất nhiên là phù hợp với lai lịch hay chính sử của nó). Một chuỗi của các quy luật phải tồn tại trong văn phạm là vì chúng thể hiện cách luân phiên right – righteous. Do vậy, sự luân phiên này không chỉ tồn tại trong mọi khái niệm mà nó còn tồn tại hoàn chỉnh trong tính cân đối của mình. Dĩ nhiên, âm biểu chìm là âm biểu trừu thể hoàn toàn: nó được tương ưng cùng âm hình tối cao của dấu hiệu mà thuần túy là nhờ vào một chuỗi của những luật thuyết giải mà thôi.

            Khi thiết lập chất liệu trên mặt sai biệt, thì việc này muốn nói rằng, dù một người biết tiếng Anh đi nữa, thì không nhất thiết là anh ta phải có được đơn vị từ vựng righteuos. Khi nghe lần đầu tiên hình thái này, anh ta cần đồng hóa nó với hệ thống nào mà anh ta đã học.  Nếu anh ta đã được trình bày bằng hình thái phái sinh [rišəs], tất nhiên, anh ta sẽ hiểu được chính xác âm biểu chìm bên dưới này phải tương đồng với các âm biểu của expedite, contrite, và v.v…Tuy nhiên, khi nghe đến [rayčəs], anh ta biết rằng biểu tượng này là không thể xảy ra; cho dầu, sự khu biệt phụ âm [š] – [č] có thể bị dễ (phát âm) sai dưới các điều kiện thông thường của ngữ dụng, sự khu biệt thuộc về nguyên âm (vocalic distinction) [i] – [ay] hẳn là rất rõ ràng. Khi biết những quy luật tiếng Anh và khi nghe ngữ tố nguyên âm [ay] thay vì [i], thì anh ta biết rằng, hoặc hình thái này là biệt lệ duy nhất, hoặc nó chứa đựng một chuỗi [i] đã đi theo theo bởi âm vòm mềm và nó là chủ đề của luật 26. Nhuyển ngạc âm này phải là một trường độ âm[41], tức là /x/ vậy. Song, khi cho rằng, nó là một trường độ âm, thì tiếp theo đó phụ âm này phải là [č], chớ không là [š] bởi luật 26, nếu hình thái này là hình thái chuẩn (thì nó luôn là những giả thuyết zero). Do vậy, người nghe sẽ nhận bằng âm biểu [rayrayčəs], hơn là âm biểu [rayšəs], chí đến, nếu thông tin này liên quan đến một phụ âm đệm nào đi nữa, thì nó vẫn thiếu vắng ở dấu hiệu được tiếp nhận. Hơn thế, áp lực này là để duy trì một cách chuẩn mực về những luân phiên (âm hưởng) cần hoạt động nhằm hãm lại sự đồng nhất biểu âm (superficial analogy) với expedite – expedituosignite – ignition, và v.v…và để duy trì [č] như là sự hiện thực hóa ngữ âm của /t/ bên dưới, miễn là [ay] xuất hiện trong vị trí của [i] được yêu cầu, thật rõ ràng như ta thấy khi nó đã xảy ra.

            Theo tôi, điều đó không chỉ là một miêu tả từng bước một trên mặt văn tự hay nghĩa đen mà hình thái này được học như thế nào, thậm chí nó còn là một thuyết giải đầy khả tính mà vì sao hình thái này hãm lại sự đồng nhất biểu âm (trên thực tế thì nó không chính xác) và bảo lưu cương vị của nó. Việc lãnh hội và bảo lưu như thế trong văn pháp về [č] và [š] tương phản ở righteous – expeditious trên cơ sở loại biệt được thừa nhận giữa [ay] với [i] và sự nhận thức về một hệ thống nào đó của các quy luật. Sự thuyết giải này cư lưu trên giả định rằng, các biểu tượng ngầm đều là các biểu tượng trừu xuất hoàn toàn và trên chứng lý đã trích dẫn đề nghị rằng, cái giả thuyết ấy, trên thực tế, là minh lý.

            Một điển hình đơn nhất có thể nghiêm khắc nhận lãnh nhiều kết án. Song, một lý giải thận trọng về cấu trúc âm tố lại nói lên là, có một số lượng các quy phạm về cái chủng tính này, và rằng, nói chung, những cấu trúc tàng ẩn trừu tượng siêu việt được quan hệ cùng các âm biểu bằng một chuỗi dài của các quy luật, đúng như những cấu trúc ẩn trên bình diện cú pháp (kết học) được quan hệ cùng các cấu trúc hiển bằng một chuỗi dài của các phép chuyển biến văn pháp vậy. Khi giả định về sự tồn tại của các tâm biểu trừu thể và những thao tác khả thuyên của cái chủng tính này, ta có thể bắt gặp một cấp độ có tổ chức đáng ngạc nhiên nằm bên dưới cái gì đang thành hình trên bề mặt là một trật tự hỗn độn của dữ liệu và trong một vài trường hợp, ta cũng có thể chứng minh là vì sao mà các biểu đạt ngôn ngữ học được văn tri, được sử dụng và được nhận thức trong một vài đường hướng. Người ta không thể kỳ vọng là có phải mình xác định những hình thái hay các tiến trình trừu thể bên dưới liên hệ đến chúng khi đánh dấu bằng cách nội quán hay không; hơn thế, không có lý do là vì sao mà người ta có thể bắt gặp hệ quả này trong bất cứ đường hướng đáng kinh ngạc nào.

            Việc biện giải đã phát thảo ở trên quy vào  bình diện văn pháp cá biệt hơn là quy cho bình diện văn pháp phổ quát, khi mà cách loại biệt này vừa được lập thành công thức. Tức là, ta đã liệt kê một vài hiện tượng trên cơ sở của sự giả định mà những quy luật ấy hình thành trong văn pháp nội thể hóa, nên nhớ rằng, hầu hết bộ phận này, các quy luật như vậy đều được di động một cách độc lập. Tất nhiên, các khảo sát văn pháp phổ quát nhập vào trong việc biện giải này tới một chừng mực mà chúng tác thành sự lựa chọn của văn pháp phổ quát trên nền của dữ liệu thì thôi. Sự tương nhập này là tất yếu như vừa giải thích. Tuy rằng, có những trường hợp mà ở  đó các nguyên lý hiển ngôn của văn phạm phổ quát trực nhập và thành một mô thức biện giải rõ ràng hơn. Do vậy, sự thuyên giải về các hệ thống âm tố làm lộ ra thật sự các nguyên lý tổ chức rất phổ quát, một ít đặc trưng đích xác, chi phối cho các quy luật âm vị học (xem phần cước chú của nguyên bản, mục 14). Chẳng hạn, điều đó đã từng được nhận ra rằng, một vài quy luật âm vị thao tác theo một chu kỳ tuần hoàn, trên cái cách được xác định bằng cấu trúc hiển. Xin nhắc lại là, cấu trúc hiển này có thể được biểu tượng là một dấu ngoặc vuông có dán nhãn của người phát ngôn, như ở câu 2. Trong tiếng Anh, có quá nhiều quy luật phức tạp để chứng minh các điệu hình trọng âm và cách lược nguyên âm ứng dụng cho những ngữ đoạn được liên kết bằng những dấu ngoặc kép trên cấu trúc hiển, trước tiên khi ứng dụng cho một ngữ đoạn cực tiểu của chủng loại này, rồi tiếp đến là ngữ đoạn rộng  hơn, cứ như thế v.v…cho đến lúc nào lãnh vực cực đại của tiến trình âm vị được đạt tới (trong những trường hợp đơn thuần, tức là câu tự thân hay câu hoàn chỉnh). Như vậy, trong trường hợp của câu ü, các luật ứng dụng cho các từ đơn (mà, trong một miêu tả đủ, nó sẽ phải định giới hạn cho các phạm trù và do vậy, nó đã có dấu ngoặc), và rồi, các luật ấy ứng dụng cho các ngữ đoạn a wise man is honest, sau rốt là câu hoàn chỉnh. Một ít những quy luật sẽ thể hiện những thành quả rất đa dạng, như các cấu trúc hiển xác định cách ứng dụng có khuynh hướng tuần hoàn của chúng là đa dạng hóa.

            Một vài hiệu quả đơn thuần của nguyên lý này về cách ứng dụng có khuynh hướng tuần hoàn được minh họa bằng hình thái 27, theo các từ như sau:

27                    a. relaxation (sự khinh an, cách thư giãn), emendation (hiệu đính, chửa lỗi, chỗ được sửa chửa), elasticity (tính co giản, đàn hồi), connectivity (tính kết dính, tính liên kết)

b. illustration (sự minh họa, cách thể hiện), demonstration (sự, cách biểu minh, hiển thị), devastation (sự, cách phá hoại, vết còn lại của việc cướp bóc), anecdotal (tính vặt vãnh, chuyện vặt).

            Các nguyên âm không bị in nghiêng tuy được rút gọn thành [ə] ở 27b, nhưng chúng vẫn giữ được căn tính của mình ở 27a. Trong một vài trường hợp, ta có thể xác định căn tính của các nguyên âm được rút gọn của mô thức 27b từ các hình thái phái sinh khác (chẳng hạn, illustrative, demonstrative). Các từ ngữ thí dụ của mô thức 27a, trên mặt hình vị khác hẳn với các từ của 27b mà trong đó cái tác thành (former) được phái sinh từ các hình thái ẩn (tức là, relax, emend, elastic, connective) chứa đựng trọng âm chánh trên nguyên âm không bị in nghiệng, khi các hình thái ẩn này biệt hiện (appears in isolation): các từ tiêu biểu của 27b không có nét đặc trưng này. Thật dễ dàng để cho rằng, sự tỉnh lược nguyên âm (sự rút gọn), cách thay thế một nguyên âm bằng [ə], bị lệ thuộc vào sự trống vắng của trọng âm. Nhờ vậy, ta có thể thuyết minh sự khu biệt giữa 27a và 27b bằng cách giả định nguyên lý vòng (nguyên lý có chu kỳ) như vừa  lập thành công thức. Ở trường hợp của 27a, lúc tối sơ, chu kỳ uyên áo nhất, trọng âm sẽ được quy định bằng các luật phổ quát cho các nguyên âm không bị in nghiêng hay có dạng đứng. Vào chu kỳ tiếp theo, trọng âm được biến hoán[42], thế nhưng trọng âm trừu tượng này, ở chu kỳ đầu tiên, đã trang bị đủ để giúp cho nguyên âm khỏi sự rút gọn. Trong các từ điển hình của 27b, các chu kỳ sơ thủy không bao giờ ấn định một trọng âm trừu thể nào cho nguyên âm có dạng đứng, do vậy, nó bị rút gọn. Hãy thấy rằng, chính trọng âm trừu thể giúp cho nguyên âm khỏi sự rút gọn. Cái sự thật, trọng âm ngữ âm qua các nguyên âm không bị rút gọn có dạng đứng là rất nhẹ: nó sẽ thành trọng âm số 4, ở quy ước thông thường. Nói chung, các nguyên âm có hình thái yếu này, một trọng âm theo ngữ âm đều bị rút gọn, song trong trường hợp như thế, trọng âm trừu thể đã được ấn định ở chu kỳ nguyên ủy làm nhiệm vụ chận đứng sự rút gọn. Thế thì, chính biểu tượng trừu ẩn này quyết định hình thái ngữ âm, một thực thể đóng vai trò cốt lõi bằng trọng âm trừu thể bị diệt hẳn trong hình thái ngữ âm.

            Với tình huống này, ta có thể cung cấp cách lý giải cho một vài khía cạnh lãnh hội và lãnh hội cấu âm liên quan đến một nguyên lý trừu xuất hoàn toàn phổ quát, tức là nguyên lý về sự ứng dụng vòng của các quy luật. Khi mường tượng một người học ngôn ngữ có thể sở đắc nguyên lý này bằng “sự dẫn nhập” từ dữ liệu đã nảy sinh trong anh ấy như thế nào, quả là quá gian nan. Trên thực tế, rất nhiều các hiệu ứng về nguyên lý như thế liên hệ đến sự nhận thức và rất hiếm khi hoặc không đồng thể trong bản thân ký hiệu vật lý, dưới các điều kiện thông thường của ngữ dụng, vậy, hiện tượng đã từng được y cứ trên đó thì không thể là một bộ phận kinh nghiệm của một ai đã chưa từng làm nên sự ứng dụng nguyên lý này rồi bao giờ. Kỳ thật, không có thủ tục dẫn nhập hay cách tiếp cận nào nói lên niềm kỳ vọng làm lệch đi các dữ liệu như thế có giá trị cho một nguyên lý về chủng loại này (trừ trường hợp lúc bắt đầu đặt vấn đề, ta giới thiệu nguyên lý về cách ứng dụng vòng này thành thủ tục dẫn nhập qua một cách thức nào đó). Do vậy, sự kết luận hầu như được chứng thực rằng, nguyên lý ứng dụng vòng của các âm luật là một nguyên lý nội tại biết tổ chức của văn pháp phổ quát được quen dùng trong cách xác định đặc tính ngữ nghiệm (kinh nghiệm ngôn ngữ) và trong cách kiến tạo một văn pháp để cấu thành ngữ trí sở thụ hay đắc thể (acquired knowledge of language). Đồng thời, nguyên lý về văn pháp phổ quát này cũng đưa ra một thuyết giải cho các hiện tượng như thế được chú thích ở mô hình 27.

            Có một vài cơ sở mà một nguyên lý tương tợ về cách ứng dụng vòng cũng ứng dụng luôn trên bình diện kết học. John Cross đã trình bày một phân tích thiện xảo về những khía cạnh đại từ hóa tiếng Anh minh họa cho điều này([43]). ­Ta hãy giả định rằng, phép đại từ hóa kéo theo một tiến trình “loại bỏ” tương tợ với các tiến trình vừa diễn ngôn trong sự tương ứng với mô hình 8 – 18. Tiến trình này, cách thích hợp trước tiên là thay thế một trong hai ngữ đoạn danh từ đồng nhất bằng một đại từ thích đáng. Như vậy, cấu trúc ẩn 28, sẽ được chuyển thành cấu trúc 29, bằng đại từ hóa như sau:

                                   

                                    John learned that John had won

                                    (John được biết  rằng mình (John) đã  thắng – Học giả thắng giả)

                                    John learned that he had won

                                    (John được biết là anh đã thắng – Học giả liễu ích giả)

            Sự trừu tượng hóa luôn tách ra khỏi những thuộc tính của mô hình 28 và mô thức ấy không phải là yếu tính của diễn ngôn này, nó có thể được trình bày bằng hình thái 30, ở đây, x y đều là các ngữ đoạn danh từ đồng nhất, còn y là một đại từ hóa, ở đó những dấu ngoặc vuông nối các cú biểu (sentential expression) lại.

30                                […x…[…y…]]

            Nên nhớ là ta không thể hình thành câu 31 từ câu 28 bằng cách đại từ hóa:

                                   

(còn tiếp)

 



[1] Ngôn ngữ vận hành theo quỷ đạo elíp (elliptical orbits) . Ngôn cảnh này khiến ta hình dung vòng vận hành của ngôn ngữ theo tập quán hình bầu dục, như quả đất của chúng ta đang vận hành trong không gian, có  nghĩa rằng, ngôn ngữ là những chu kỳ tái sinh, mà sở y của nó là tánh không. Long Thọ:  “Do không mà nhất thiết pháp tựu thành.” (Theo Dalai lama, Essence of the Heart Sutra.)

[2] Hằng số Planck: [h = π 3.141591.. to infinity]. [h = h/2π, h là hằng số Planck]. (Vijñanāvāda (Yogacāra) and its Tradition by Prof. DṢ Kothari.

[3] Chủng tử (Eng: deeper sort. Skrt: bīja). Chủng tử cũng có nghĩa là công năng. Do vận hành mà nó tạo nên trường hấp dẫn. Cái gì vận hành thì cái đó phải diễn ra trên sự sinh diệt của sát-na. (Tuệ Sỹ / Khóa giảng Duy thức, mùa An cư 2008.)

[4] Acquaintance có nguồn gốc từ tiếng Latin: accognitus (tạo nên nhận thức hay hình thành cái biết).

[5]Vasāna-ấn tượng, đại sư Huyền Tráng dịch là “tập khí-集氣”. Khi một hành vi đã hoàn thành, nó lưu lại trong tâm bằng một dấu hiệu nào đó, như ta tạo một file trên bộ máy tâm thức của ta, tức là cách mã hóa bằng ký hiệu và khi cần lặp lại, ta chỉ cần sử dụng đến cái mã hóa này mà thôi. Nó là “khí”, bởi vì nó hiện hữu dưới dạng “vô kiến”. Nó là sắc pháp, có ba đặc tính: 1/ Hữu kiến hữu đối. 2/ vô kiến hữu đối.3/ vô kiến vô đối. (Tuệ Sỹ,Thành Duy thức luận).

[6]Chính là khái niệm “trùng trùng duyên khởi” của kinh Hoa nghiêm.

[7] Cấu trúc bề mặt (surface construction. Skrt: vijñapti-hữu biểu), tức là ta chỉ suy luận trên bề mặt của hiện tượng, chớ không thăm dò trong cơ chế nội hàm của lý tính. Skrt: avijñapti (vô biểu).

[8] Học thuyết hoài nghi, chủ nghĩa hoài nghi (skepticism).

[9] Hữu biểu (Skrt:vijñapti). Đây là dạng thông tin được tiếp nhận và xử lý từ năm thức căn của uẩn. Tuy nhiên, cách xử lý này còn tùy thuộc vào ấn tượng vốn có của tâm thức ta, tức là những kinh nghiệm của chúng ta về hiện tượng. Do vậy, khi năm uẩn tiếp nhận thông tin, hoặc là thông tin của chính tâm thức, thì lúc này ý thức sẽ liên hệ đến danh ngôn tập khí (adhivacānavasāna-các vết in ngôn ngữ theo định hướng tăng thượng) cùng với các chuỗi quyến thuộc của nó chứa trong tạng thức, qua tầng dữ liệu này, đối tượng được tri nhận. Cái tầng dữ liệu ấy, chính là cái “ngã” hay chủ thể mà ta dùng để đánh giá truy xét vũ trụ hay các hiện tượng. Thí dụ, ta nói ‘hôm qua tôi gặp anh ấy, hôm nay, tôi lại gặp anh ta.’ Nếu không có cái ấn tượng của ngày hôm qua của “tôi”, thì hôm nay, “anh ấy”, “tôi” không thể nào biết được. Thậm chí, cho dù tôi không gặp lại “anh ấy”, thì tôi vẫn biết anh ấy là ai. Thế thì, ý thức ngoài việc truy lục các ấn tượng hữu quan, mà nó còn “biết” cái bề sâu không tính của nó nữa. Nói cách khác, “anh ấy” tồn tại là tồn tại trên mặt danh ngôn, bởi vì cấu trúc của anh ta, chỉ là một cấu trúc tập hợp; còn cái gọi là “anh ta” là một tồn tại bất khả phân, nhưng anh ấy lại là “không tánh”. Thí như ta gọi “chiếc xe”, thế nhưng, chiếc xe chỉ bao gồm toàn là những cấu tạo giả danh. “Chiếc xe” hiện hữu ở phần hậu diện của nhận thức. (Tuệ Sỹ / khóa giảng Duy thức, mùa hạ 2008). Tóm lại, cái gọi là nhận thức đưa tới luận chứng, chỉ là nhận thức được lắp ghép từ những mảnh vụn của quá khứ mà thôi.

[10] Tức là, thế giới ngoại tại là một thế giới thực hữu, có công năng tạo tên phản ứng của tâm thức. Tuy nhiên, theo Chomsky, nếu như  ta  không có các chủng tính bề sâu như là các ấn ảnh còn lại của hành vi, thi ta không thể tri nhận hay phản ứng theo bối cảnh đang xảy ra, thậm chí theo bối cảnh của tâm—đối tượng của nhận thức. Tóm lại, sự hoạt động của ngôn ngữ là sự hoạt động của các chủng tử hay năng lực tâm.

[11] Vô biểu (avijñapti ). Eng: deep construction. Khi một hành vi cố ý hay có ý thức với ý hướng tính của nó được thực hiện bằng thân, khẩu, ý, thì sau hành vi ấy, năng lực của nó sẽ rớt xuống tàng thức, hình thành sự hoạt động của chủng tử hay năng lượng của tâm ở dạng tiềm thế và, khi có những điều kiện hay chúng duyên, chúng sẽ xuất hiện như là kết quả của nghiệp báo luân hồi. Sự tồn tại dưới dạng năng lượng như vậy, chính là sự tồn tại của thức. Nó bao gồm hai mặt: tướng phần và kiến phần, phóng rọi lên mặt nhận thức chúng ta, tạo thành thế giới khách quan. Do vậy, thế giới khách quan, đích thực là thế giới của tâm hay là thế giới ảnh hiện của thức Alaya.

[12] Chùm Ác-xoa hội tụ. Khuynh hướng ý thức là khuynh hướng của ý hướng tính (intentionalable). Khi một hành động hoàn thành, nó sẽ lưu giữ trong một khoang ý niệm nào đó có cùng một ý hướng. Chúng biết vươn đến (tantrasvabhāva-Y tha khởi tính) các đối tượng theo sở hành của chúng. Chẳng hạn, các hoạt động thuộc về thiện, thì những hành vi này hội tụ lại, chứa tiềm năng tái sinh thành một con người và ngược lại. Như vậy, con người hay thánh nhân và các vật loại, khác nhau là khác nhau trên thế giới dữ liệu và cách bố trí các dữ liệu này như thế nào. “Mais le saut désicif est franchi au niveau des macromolécules. À ce stade, le papillon semble infiniment plus structuré, plus ordonné que le caillou. Ce petit exemple nous a permis de saisir la suele différence de fond entre l’inerte et le vivant: l’un est tout simplement plus riche en information que l’autre.” (Dieu et la Science par J.Gouton.)

[13] Khi không giải thích được nguyên nhân của bất cứ hiện tượng nào, chẳng hạn, giai đoạn cận zero của vụ nổ Big-bang, người ta hay đổ thừa cho Thượng đế, như trường hợp của Guiton. “l’aventure de la vie est ordonné par un principe organisateur: Dieu”. (Sự lãng du của cuộc sống được trật tự hóa bởi một nguyên lý biết bố trí: Thượng đế.) Dieu et la Science par J.Gouton.

[14] Khả tính hút lấy những chủng tử đồng tính (bao gồm: xúc, thọ và cộng tri, tức là thức), tạo nên môi trường nghiệp, tức là quá trình xử lý của thức (vijñānapariṇāma) dưới dạng tiềm thể mà, thuật ngữ Phật giáo hay Duy thức gọi là vipāka (Dị thục). Lão tử Đạo Đức Kinh, gọi là :”đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.”

[15] Đắc thể (Eng: acquisition. Skrt: labhātman). ātmalabha.H. Tr: Đắc thể 得體. Poussin [fren.]: acquis=acquisition. Prudent [Eng] acquisition. Đây là một thuật ngữ quan trọng trong ngôn ngữ học, không có nghĩa thuần túy là: thụ dụng hay sở đắc theo cách hiểu thông thường, mà nó có nghĩa là ” đắc tự thể, thụ dụng tự tính”. Ví dụ, trúng số độc đắc. Đắc còn có nghĩa là lợi dưỡng, lợi đắc. Đắc gồm có hoặch và thành tựu [cái đi theo]. Đắc là cái trước đây chưa có mà nay có, cái mất đi nay tìm được (như trẻ em đắc thể ngôn ngữ theo giòng kinh nghiệm của mình, mà chưa qua xử lý, tức là học và nói theo cái đã học. Chomsky). ātma là tự ngã, khi pháp hình thành nên một tự ngã thì gọi là hữu sát na. Thành tự ngã theo nghĩa rộng bao hàm hữu tình và vô tình. Ātma đắc tự thể trong một sát na. Từ điểm đầu cho đến điểm kết thúc tạo nên một tự thể hữu hiện. Tuệ Sỹ.

 

[16] Thần khải (revelation). Theo Duy thức, thì thần khải cũng chỉ là một dạng ảo giác, thế nên Chomsky khuyên ta nên thiết lập một khoản cách giữa “thần bí” và tư duy, tách ly “thần bí” ra khỏi tư duy.

[17] Giáo pháp Phật là môi trường của tuệ giác, nó luôn hấp dẫn mọi tinh hoa nhân loại. Tuy nhiên, cái gì không phải là Phật thuyết, ta thỉnh thoảng cho là “ngoại đạo” và ta cũng thỉnh thoảng trích lời Phật như là những “giáo chỉ răn đe”.

[18] Internalized system (hệ thống đúng ngữ pháp của một người nói bản ngữ, hệ thống nội hóa có định hướng). “3. Asaṃviditakopādisthānavijñāptikaṃ ca tat / Sadā sparśamanaskāravitsamjñācetanāmvitam //(Không thể thấu hiểu được những gì mà cái thức [tức tạng thức] duy trì [thủ, xả] và biểu hiện [người ta không thể hiểu được những gì mà cái thức đó ‘Alaya-tạng thức’ duy trì và biểu hiện—thế giới cộng sinh và phát triển ý thức hệ và, thế giới môi trường, nghĩa là ‘căn thân thế giới’ hay định vị tướng thế giới], Và cái thức đó luôn tương tục cùng năm biến hành: xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư [ý chí]). (Kệ tụng số 3 trong Duy Thức Tam Thập Tụng).

 

[19]The linguist’hypothesis. Hypothesis, cũng có nghĩa là “giả thi thiết [thuyết] hay tiếp cận” trong tiếng Phạn, upacāra hay up-pat  (phát sinh, khả năng tính, dựa vào một sự kiện nào đó mà luận, rớt theo. Loại suy). Trên mặt ngữ nguyên, Hypothesis, có nguồn gốc từ tiếng Hy-lạp: υποθετω (thiết định, mang dáng vẻ, tùy hình).  1. Ātmadharmopacāro hi vividho yaḥ pravartate/ Vijñāpariṇāme’sau pariṇāmaḥ sā ca tridhā // 1.(Thật vậy, Bản thể và Hiện tượng luận [sự tiếp cận về Ngã và Pháp] mà trên sự chuyển biến của thức, tính đa dạng của chúng [được] thể hiện; sự chuyển biến này hình thành ba bộ phận).“ (Kệ tụng thứ nhất trong Duy Thức Tam Thập Tụng).

[20] Sự tham gia của ý tưởng trong quá trình thí nghiệm là một chủ đề quan trọng, thí như “thí nghiệm EPR, đây là tên gọi tắt của Podolsky và Rossen, thí dụ cho hai điện tử A và B chồng lên nhau, rồi ta đợi cả hai tách ra thật xa để cả hai không  tương tác lẫn nhau...và không ai có thể xác nhận là lúc đo vận tốc của A đã không ảnh hưởng gì đến B...Vậy mà B “tiền tri được” hướng đi của A và hướng quỷ đạo của nó để được đồng thời gắn cùng hướng ngược lại.”. (Dieu et la Science par J.Gouton.) Ở đây, Duy thức cho rằng, sở dĩ B tiền tri được hướng đi của A là do sự cộng hưởng ý niệm của  người thực hành thí nghiệm. Có nghĩa, ý thức tham gia vào trong cuộc thí nghiệm này theo nguyên tắc: Sắc do tâm tạo. Nguyên lý tổ chức của vật chất là nguyên lý tổ chức của tâm. (Tuệ Sỹ/  khóa giảng Duy thức, mùa hạ 2008).

[21] Eng: Potenial human languages. Skrt: adhivacānavasāna- Danh ngôn tập khí, năng lực mã hóa bằng dấu hiệu xét như là ngôn ngữ có khuynh hướng tăng trưởng trong lý tính của con người, nhờ “danh ngôn” này mà ta có thể nội dung hóa những đối tượng của nhận thức. Chẳng hạn, cách mã hóa một văn kiện trên máy vi tính. Cách mã hóa này, sẽ dẫn ta đi trên một lộ trình nhất định nào đó cho các thời kỳ.Trường hợp này cũng được gọi là “nghiệp”. Câu-xá nói:” Nghiệp không bao giờ mất như văn bản  vay tiền mà người ta đã ký nhận (với ngân hàng).” Nghĩa là, khi một hành vi được thực hiện qua thân, khẩu, ý. Nó rớt vào khoang ngôn ngữ này như một tiềm năng và nó sẽ nổi lên “cấu trúc bề mặt” khi hội đủ điều kiện. Như vậy, cho dù ta có biết là mình đang bị dẫn đi bởi một hướng lực như thế, ta vẫn không thể cưỡng lại được, bởi ta đã gieo rồi.Nếu ta cưỡng lại được, thì tiến trình nhân quả trên phương diện vật lý sẽ không còn hợp lý nữa, trừ phi bằng các kỷ thuật tu hành như Phật dạy.Trường hợp này, được gọi là “chuyển nghiệp”. Do vậy, sự đóng góp của ngôn ngữ học là sự đóng góp về các khám phá những nguyên lý cấu trúc của tiềm năng định tính này và, sự đóng góp như vậy thật là quan trọng cho mọi lãnh vực nghiên cứu: vật lý, tâm lý, toán học, khoa học hóa học và phân tâm học...

[22] Khi thực hiện một cái “file” nào đó của đời mình, vô hình trung, ta đã ký hiệu nó bằng một định hướng mang tính ngôn biểu, thế thì, chính cách “mã hóa” này, nó đưa ta đến sự tái sinh, không thể cưỡng được. Cái chu cảnh ngôn biểu đó, được phát họa thành ngôn trong mọi môi trường của đời ta. Theo ý nghĩa này, khi tái sinh, ta không thể nào biết được “kiếp trước” của mình. Do vậy, Sắc là vô thường, nhưng không “đoạn diệt”. Cũng theo nghĩa này, tái sinh là tái sinh bằng và trong ngôn ngữ vậy, đó là lý do vì sao ngôn ngữ loài thú khác với ngôn ngữ loài người và ngôn ngữ loài người không phải là ngôn ngữ của các bậc thánh hay Phật, tuy cùng một cảnh giới Sắc hay thân xác.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

[23] Thức Alaya (tạng thức) có hai hình thái: kiến phần (dṛṣṭi-aṅga) và tướng phần (lakṣana-aṅga). Tuy nhiên, các chủng tính mà nó chứa nhóm vốn là dạng vô ký ở mặt tiềm thể. Ta nói nó vô ký vì, nó chỉ là quá trình xử lý, thuật ngữ gọi là thức biến (Vijñāpatiṇāma). Trong quá trình chuyển biến, nó tạo nên các năng lực hay các trường thực tại và nó cung cấp chất liệu cho ý thức, ngôn ngữ học gọi là những điểm phóng chiếu của tâm (projection). Khi sát-na sinh diệt, nó tạo nên một môi trường hình học, khiến cho cơ bắp hay thân thể ta hoạt động và di chuyển theo phương hình học. Phương hình học này, tức là các điểm ngôn ngữ nối kết nhau mà Chomsky gọi là: complex idea (ý tưởng phức hợp) tạo thành nhiều bộ phận nằm trong 2 yếu tố theo thiên hướng chúng đồng phần, Có nghĩa là bộ loại nào theo bộ loại đó và nó dán lên từng bộ phận bằng những con tem để ta định vị thế giới và tái sinh vào các thế giới như đã được định vị: Kiến phầnTướng phần. Kiến phần là bộ phận nhận thức của tâm pháp, tức là tác dụng của nhận thức. Duy thức chủ trương có bốn loại tâm pháp bao hàm 5 ý nghĩa, hay gọi là tác dụng năng duyên, là chủ thể nhận thức sự vật với tiềm năng quán sát đối tượng (mà các đối tượng này chỉ là hình ảnh của tâm, tức chủng tử hiện hành). Đối tượng của nhận thức là tướng phần.1/ bộ phận cơ bản của tri kiến (chứng kiến danh kiến, thuộc về lãnh vực ngôn ngữ). 2/ Chiếu chúc danh kiến. Bộ phận này liên quan đến 6 thức (nhãn, nhỉ, tỵ, thiệt, thân, ý-cũng thuộc về lãnh vực của ngôn ngữ). 3/ năng duyên danh kiến (chủ thể tạo điều kiện cho sự hiểu biết, nên gọi là kiến); tức là tự chứng phần, chứng tự chứng phần (thuộc về lãnh vực danh ngôn của quá khứ, các liên hệ ngôn ngữ của quá khứ).4/ niệm giải danh kiến.Vì có bản chất tư duy và lý giải đối tượng, nên gọi là kiến.5/ suy độ danh kiến.Vì có khả năng suy diễn và phân biệt mọi đối tượng, nên gọi là suy độ. Do tiềm năng kiến phần này mà nó cấu trúc đối tượng thành ngôn ngữ (tướng phần) còn ở dạng tiềm thể, tức là còn ở dạng vô biểu, khi nó phóng chiếu lên bề mặt của thức phân biệt, thì nó thành cấu trúc hiển thể, tức là ta có danh cú, ngữ đoạn... như ở công thức 2.

 

Tướng phần. Đây cũng là một loại tác dụng của tâm pháp, tức là bộ phận của đối tượng nhận thức, chỉ cho thế giới ngoại tại ảnh hiện trong tâm với hình thái là các chủng tử  di chuyển theo phương hình học (như  dạng cây, ở trên). Ảnh tượng này, có thể phân làm 4 loại: 1/  Thực tướng danh tướng, vì bản chất của nó là chân thật, nên gọi là chân tướng. 2/ cảnh tướng danh tướng, vì nó có khả năng tạo nên đối cảnh của căn và tâm, nên gọi là cảnh tướng danh tướng.  3/ tướng trạng danh tướng, vì đối tượng này là hình tướng của pháp hữu vi, nên gọi là cảnh tướng.Trong ba loại đối tượng này, bao gồm luôn độc ảnh cảnh và đới chất cảnh. Có nghĩa là nét nghĩa của đối tượng và các thành phần đặc trưng hay thuộc tính của nét nghĩa này. 4/ nghĩa tướng danh tướng, vì nó có ý nghĩa năng thuyên và sở thuyên (cái có thể giải thích và cái được giải thích, nó đồng thể hiện một lúc hai tính chất: năng và sở.)

[24] NP: ngữ đoạn danh từ. VP: ngữ đoạn vị từ. S: câu. 

[25] Chẳng hạn, khi ta nhìn thấy một cụm rừng hay một đoàn quân, tiền sát-na của nhận thức là những chùm khái niệm về ngôi nhà hay đoàn quân, tức là các thuộc tính của chúng. Thuộc tính hay đặc trưng đệ qut này đã chi tiết hóa các thuộc tính của một tổng thể. Tuy, các đặc trưng của “cái nhà hay đoàn quân” là không thực, nhưng “cái nhà hay đoàn quân” thì “có thực”. (Tuệ Sỹ, A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận). Cái thuộc tính khả quy này (recursive property), là nó biết tái cấu trúc “phần chìm” của nó trong bối cảnh Xúc, trước khi thành cộng trí về đối tượng, tức là câu phát ngôn từ lý tính hay cấu trúc hiển thể của người nói-nghe. Do vậy, chính thuộc tính này với khả tính hồi quy, nó mang trong tự thân nó bản chất di truyền của nhân loại, bản chất duy truyền của từng dân tộc, thậm chí từng khu vực địa phương. Tức là cách cấu tạo của những chùm thanh quản hay các cơ năng phát âm của họ. Chẳng hạn, khi người Việt Nam nói, “cái nhà màu đỏ”, thì người Việt nam thấy “cái nhà” hay bản thể trước, và thấy tính chất của cái nhà sau; còn đối với Tây phương, nói chung, ngay cả Trung hoa,  người ta thấy “tính”  trước và thấy “bản thể” sau. V.N: Căn nhà màu đỏ, Eng: red hause... (đỏ căn nhà, theo cách người V.N thấy).

[26] Sự va chạm hay Xúc luôn tạo nên âm thanh. Khi nghiên cứu âm vị học, người ta nghiên cứu luôn cả Di truyền học nữa.

[27][27]Dấu hoa thị này, ở một phương diện nào đó, thường chỉ cho một câu phái sinh từ nguyên tắc văn pháp.

[28]Trên mặt hiển thể thì “cooking” có thể bị loại, nhưng trên mặt tiềm thể, thì cooking không thể bị loại.tương thành và tương diệt

[29] Hằng chuyển (Tuệ Sỹ):”

[30] Chomsky:”Từ giờ, thường thì tôi sẽ loại đi các dấu ngoặc vuông trong khi nêu ra một cấu trúc ẩn, hiển hay trung gian (trung hữu), việc làm này sẽ không dẫn đến sự hàm hồ nào ở đây cả. người ta sẽ cho rằng 8 và 9 mỗi câu đang sở hữu một dấu ngoặc hoàn toàn có đính nhãn đã gắn theo cùng. Dĩ nhiên, hãy nhớ là, câu 8 không chỉ là một cấu trúc chìm, mà hơn thế nó là hệ quả của các chuyển biến đang ứng dụng cho các đối tượng trừu xuất tối tiên (a more primitive abstract object).”

[31] Chomsky:”cũng có thể có các thuyết giải khác, y trên các câu lưỡng nghĩa khác nữa, trong cấu trúc, như “John’s cooking – John đang nấu”¾nhất là, cách thuyết giải “cooking” là một hành vi vô nhân phẩm (cannibalistic) hay cooking là “cái được nâu. “.

[32]Nguyên lý chế tác (work – principle). Khi một hành vi bằng lời xảy ra, nó chìm xuống trong nhóm chủng tử đồng loại của nó và nó hỗ tương giao hoán trên chu kỳ định tướng (lakṣana) và nó như mủi tên dứt khoát hướng tới sự thành tướng cho thời kỳ tương lai kéo theo các môi trường hay chu cảnh (environment) của nó. Và người ta “trả nợ “ nó bằng cả thân và tâm trí theo hướng mủi tên bay. Phật giiáo gọi là “trả nghiệp”.Ở đây, “khẩu nghiệp đạo” (vācika), dụ cho đường bay chính xác của mủi tên, như một “bằng khoán” được vay trong ngân hàng ngôn tính (languageness band) chứa dữ liệu của chuỗi đời ta.

[33] Chomsky:”Tôi cần nhấn mạnh là khi nói đến một câu, chẳng hạn, đã phái sinh do sự chuyển biến từ một câu nào khác, là tôi đang nói dài dòng và chưa chuẩn. Cái mà tôi muốn nói là cái mà một cấu trúc đã tiếp cận với câu đầu tiên được diễn sinh từ cấu trúc đang nằm bên dưới câu thứ nhì. Do vậy, trong tru6ồng hợp đang được diễn ngôn hiện giờ, , chính là cấu trúc hiển của câu thứ nhì được diễn sinh; trên một phân tích như vậy, xuất phát từ  cơ cấu trừu thể mà chính nó là cái đã phải chịu đựng một quá trình chuyển sinh sai biệt được cải biến thành cấu trúc hiển của câu 11.  Các câu như câu 11 đó, không bị phái sinh từ những câu khác, mà chúng lại bị chuyển sinh từ chính các cấu trúc bên dưới chúng và chúng từng được kết luận một cách hiển ngôn, từ công việc ngay buổi ban đầu khoảng mười lăm năm qua về lý thuyết văn pháp tạo sinh cải biến, ngoại trừ các biểu ngôn thân mật, như các câu dẫn ra trong bản văn này, đã khiến cho người đọc hiểu lệch đi mà ta đã phân tách,; trên thực tế, những câu ấy, đã đưa đến một thỏa ước tuyệt vời về sự rối rắm trong văn học.”

[34] Sự: chiều cao. Lý: cao thượng, vĩ đại

[35] Chomsky:”Câu này không thể có ý nghĩa:’tôi biết một người cao hơn Bill và John thích ăn kem’. Do vậy, nếu cấu trúc chìm nào hiển được nghĩa (tới một chừng mực mà những liên hệ văn pháp phải là một cái gì đó như câu 14 hay 15), thì lập tức cấu trúc ấy là cấu trúc bên dưới dành cho câu 13. Nó là một đặc tính phổ quát về các thao tác loại trừ mà một vài chủng tính khả đắc thể (some sort of reconverability) được kéo theo cách xử lý phi thường với những hệ quả hữu nghiệm đặc thù, xin tham khảo Current Issues , chương 2.2 và Aspects của tôi, chương 4.2.2. Vấn đề đượoc đặt ra bằng các thí dụ như câu 9 và 13, đã được John Ross nêu ra cho tôi. Sở chỉ đầu tiên với khả tính  này là lai lịch phái sinh mà nó có thể đóng một vai trò định dụng tính (determining applicability – khả năng ứng dụng quyết định) về các phép cải biến xuất hiện trong tác phẩm The Grammar of English Nominalizations (New York Humanities 1960).” p. 76.

[36] Chomsky:”Nếu tự thân câu 18 là câu mơ hồ có hai cách hiểu, vậy, trên thực tế một vấn đề phát sinh ở ngay điểm vừa nêu. Tính phi tự nhiên của câu 18 làm cho nó khó xác định điều này với bất cứ sự xác quyết nào.”

[37] Kant:” Unsere Erkenntniss entspringt aus zwei Grundquellen des Gemüths, deren die erste ist, die Vorstellungen zu empfangen (die Receptivität der Eindrücke), die zweite das Vermögen, durch diese Vorstellung einen Gegenstand zu erkennen (Spontaneitäte der Begriffe); durch die erstere wird uns ein Gegenstand gegeben, durch die zweite wird dieser im Verhältniss auf jene Vorstellung (als bloss Bestimmung des Gemüths) gedacht. Anschauung ohne Begriffe machen also die Elemente aller unserer Erkenntniss aus, so dass weder Begriffe ohne einen auf einige Begriffe eine Erkenntniss abgeben können. Beide sind entweder rein oder empirisch. Empirisch, wenn Empfindung (die die wirkliche Gegenwart des Gegenstandes voraussetzt) darin enthalten ist; rein aber, wenn der Vorstellung keine Empfindung beigemischt ist. Man kann die letztere die Materie der sinnlichen Erkenntniss nennen. Daher enthält reine Anshauung lediglich die Form, unter welcher etwas angeschaut wird, und reiner Begriff allein die Form des Denkens eines Gegenstandes überhaupt. Nur allein reine Anschauungen oder Begriffe sind a priori möglich, emperische nur a posterori. (KRITIK DER REINEN VERNUNFT). (cộng tri hay tri kiến (Erkenntniss)–thành viên của tâm vương, tâm sở tư– của chúng, thoát thai từ (entspringen aus) hai nguồn cơ bản (Grundquelle – tiên thiên kinh nghiệm) trong tâm thức: 1/ khả tính tri nhận (trí tính) hay khả tính hút lấy biểu thể (Vorstellungen) hoặc tính thụ giải các tập khí (die Receptivität der Eindrücke. Eng: receptivity for impression – tính cảm thụ hay sức lý giải – nội thể hóa - những ấn tượng)–tướng phần. 2/  Nguồn tiếp theo là lực lãnh hội các biểu thể này qua (durch) khí hiển tập của chúng, kiến phần. Như vậy, nguồn tiên thiên thứ nhất là tiến trình một đối tượng hóa mà chúng ta được cho (durch die erstere wird uns ein Gegenstand gegehen).*

* Cái mà Chomsky cho là:““Cấu trúc tiềm thể này có thể là một cấu trúc trừu xuất tối thượng, nó có thể mở ra từng điểm một (nó không phải đóng lại từng điểm từng điểm một) quan hệ hỗ tương đưa đến sự thành tựu âm vi học. Tri thức ngôn ngữ “ngữ năng,“ hàm nghĩa kỷ thuật của thuật ngữ này đã được lược giảng trong diễn ngôn ban đầu của bản văn kéo theo quyền kiểm soát những tiến trình văn pháp của lý thuyết này.“

[38] Kant*:” Đối tượng sở thuyên - die Receptivität der Eindrücke).

* Tham khảo CHOMSKY AGuide for the Perplexed by John Collins. Kant, p. 1, 11, 77, 125, 196, 198.

[39]Chomsky, xem R. B. Lees “A Multiply Ambiguous Adjectival Construction in English,” in language.Vol. 36. No ü. 1960, pp207-21, for a discussion of such structures.

[40] Ở đây, Chomsky đã kịch liệt bài xích “Chủ nghĩa Hành vi – Behaviorism”, một học thuyết quan trọng của Quine, đã có sức ảnh hưởng rất lớn đối với Cấu trúc luận (structuralism). Xem The Cambridge Companion to Quine*.

* Xem Language and Mind by Chomsky, p. 1-20.

[41] Chomsky:”

[42] Chomsky:”

­­([43]) Chomsky:”

Chia sẻ: facebooktwittergoogle