Một ngày lất phất mưa tháng tám năm 1952, tại thành phố Woodstock ở tiểu bang NewYork có một buổi hòa nhạc giới thiệu những sáng tác của nhạc sĩ, cũng vừa là một học giả về âm nhạc, John Cage. Trong chương
trình có ghi một sáng tác mới của ông với tựa là 4’ 33”, bốn phút ba mươi ba giây, sẽ do nhạc sĩ David Tudor độc tấu bằng piano.
Bài nhạc 4’
33” gồm có ba phần (three movements). Tudor bước
lên sân khấu chào khán giả. Ông ngồi xuống bên chiếc
piano, lấy chiếc đồng hồ ra điều chỉnh lại và đặt trước mặt. Tudor
nhẹ nhàng đóng lại nắp đàn, cẩn trọng nhìn bản nhạc, ngồi yên bất động trong 30
giây. Ông mở nắp phím đàn lên dấu hiệu phần thứ nhất
chấm dứt.
Phần thứ
hai. Tudor nhẹ nhàng khép lại nắp phím đàn trên chiếc
piano. Ông cẩn trọng theo dõi tờ nhạc và ngồi
yên không cử động trong 2 phút và 23 giây. Bên ngoài tiếng
gió lộng thổi luồn vào những cánh cửa mở rộng ở cuối khán phòng xen lẫn với
tiếng mưa rơi tí tách trên mái nhà.
Phần thứ
ba. Ông cẩn thận khép lại nắp đàn trên chiếc piano,
chăm chú nhìn vào tờ nhạc và ngồi yên trong 1 phút và 40 giây. Thính giả bắt đầu thầm thì nói nhỏ với nhau, có người lộ vẽ khó chịu,
có nhiều tiếng sột soạt vang lên trên những hàng ghế ngồi.
Tudor đứng
dậy chào khán giả và bước xuống sân khấu. Bài độc tấu
piano đã chấm dứt sau 4 phút và 33 giây. Không có một nốt nhạc nào được chơi.
Sau buổi trình diễn ấy, tác
phẩm 4’ 33” của ông John Cage đã bị các nhà phê bình âm nhạc chỉ trích
khá nặng nề, họ đặt tên cho nó là “Đoản khúc thinh lặng”, the silent piece. Nhưng
thật ra bài nhạc ấy không phải để diễn tả sự thinh lặng, mà nội dung của nó là
bao gồm hết tất cả những âm thanh nào đang có mặt chung quanh trong lúc bài nhạc được trình diễn. Trong
bài 4’ 33” cả tác giả và người nhạc sĩ đều hoàn toàn không có một tác
động nào đến bài nhạc. Những âm thanh nào thính giả sẽ lắng nghe khi bài nhạc được trình
diễn hoàn toàn nằm ngoài sự kiểm soát của tác giả.
Vài năm trước khi qua đời,
ông Cage có chia sẻ thêm về bản nhạc này trong một bài phỏng vấn:
Cage: Tôi biết là người ta sẽ xem bài nhạc ấy như là một trò đùa,
nó không được xem như là một tác phẩm thật sự… Đến bây giờ
tôi vẫn ngờ là nếu có ai thật sự hiểu được nó.
Hỏi: Theo cái hiểu của đa số quần chúng thì ý định
của bài nhạc là mở rộng người nghe ra, tiếp xúc với tất cả những âm thanh đang
có mặt chung quanh mình và…
Cage: Và chấp nhận hết tất cả…
Hỏi: Vâng…
Cage: Và cho dù là mình đang có dựa trên một cái gì đó làm cơ sở,
nền tảng. Cái hiểu lầm của đa số là ở chỗ ấy.
Hỏi: Thế thì chúng ta nên hiểu nó như thế nào?
Cage: Nó chỉ có thể mở rộng ta ra với bất cứ một tình trạng nào,
nếu như ta không chấp vào một cơ sở hay nền tảng nào hết. Nhưng
theo
tôi thì ít ai có thể hiểu được điều ấy.
… Người ta thường có một kinh nghiệm tâm
linh là đôi lúc họ cảm thấy rằng không có một cái gì chung quanh mà lại không có liên hệ đến mình. Và
đó cũng là kinh nghiệm của sự yên lặng.
Hỏi: Thông điệp của bài nhạc thinh lặng này
dường như là tất cả mọi sự kiện đều được cho phép.
Cage: Tất cả mọi việc đều được cho phép nếu như con số không (zero)
được chọn làm nền tảng. Đó là điều mà chúng ta thường không hiểu rõ. Nếu
như ta không có một ý định nào hết thì tất cả mọi việc đều có thể được. Và
nếu như ta có một chủ tâm nào đó, thì sẽ không thành được...
... Đó là khi những ý định của ta trở thành con
số không (zero). Và khi ấy mình sẽ đột nhiên khám phá ra rằng
thế giới này kỳ diệu vô cùng.
--- oOo ---
4’ 33” và Zen
Âm nhạc là những âm thanh được sắp đặt theo
một giai điệu hòa hợp nào đó. Nhưng ông John Cage cho rằng
bất cứ âm thanh nào, dù tự nhiên và bất ngờ, cũng có thể là âm nhạc. Bài 4’
33” của ông Cage phản ảnh tư tưởng thiền Zen mà ông đã
theo học, và trong thời gian nghiên cứu thiền ông cũng đã có dịp tiếp xúc
với tiến sỹ D. T. Suzuki, tác giả của Thiền Luận.
Tôi nghĩ bài nhạc 4’ 33” này
cũng có thể gợi ý cho chúng ta về sự thực tập trên con đường tu học của mình. Có
lẽ sự tu tập của ta cũng có thể được biểu hiện bằng một sự trôi chảy tự nhiên,
chấp nhận những bất ngờ, với một ý thức sáng tỏ, mà không cần phải
theo một bài bản nhất định nào sẵn có hết.
Chánh niệm là sự tự
nhiên
Trong sự thực tập chánh niệm, ngài Trungpa Rinpoche, một vị
đạo sư Tây tạng, dạy học trò của ông rằng điều quan trọng là đừng nên có một lập
trình sẵn có nào trong sự thực tập của mình, not to have a program of
awareness. Thay vì là cứ lặp đi lặp lại theo một
bài bản nào sẵn có thì ta chỉ cần tiếp xúc trực tiếp ngay với những gì đang xảy
ra mà thôi.
Ông nói, khi
đối diện với một vấn đề khó khăn nào đó, ta không cần phải nghĩ rằng “Tôi phải
giữ chánh niệm!” mà chỉ cần cho phép mình cởi mở và tiếp xúc với những gì đang
xảy ra. Ngài Trungpa khuyên học trò của mình rằng, ta không cần nghĩ là
mình phải cần có một phương cách hay một kỷ thuật nào đó để giữ chánh niệm, ta
hãy cứ mở rộng ra và giữ cho sự trải nghiệm ấy được tự nhiên. Vì
nếu như ta thấy được sự việc như-nó-là thì đó cũng chính là chánh niệm.
Và cho dù ta
không chắc sự thực tập của mình có đúng không, việc ấy cũng không sao, miễn là
ta ý thức được điều ấy. Những gì xảy ra sẽ chỉ cho ta
thấy điều gì mình cần phải tự điều chỉnh lại, nếu như ta thật sự biết lắng nghe. Và
nhiều khi nhờ không có cái ta của mình chen
vào mà sự việc lại được sáng tỏ hơn.
Vô thường có nghĩa là
luôn mới
Bạn biết không, trong cuộc sống muốn làm việc gì thì chắc
chắn ta phải cần đến phương pháp và phải có một chương trình rõ ràng. Điều
ấy cũng là một việc cần thiết và dĩ nhiên thôi. Nhưng
trên con đường tu học, nếu như ta muốn thấy được thực tại như-nó-là, một cái
thấy sâu sắc vượt ra ngoài những khái niệm, ta cần phải có một cái nhìn mới.
Cuộc sống trôi chảy tự nhiên với những bất ngờ, vì vậy mà sự tu học
của ta khó có thể dựa trên một khuôn mẫu cố định nào được. Những lập trình sẵn có
thường chỉ với mục đích để giúp ta giải quyết một vấn đề nhất định và cần thiết
nào đó. Nếu ta biết thận trọng chú ý quan sát những gì
đang xảy ra tự nhiên, chúng sẽ mở rộng ta ra với một thực tại trong sáng và hoàn
toàn mới lạ.
Có một câu chuyện vui như vầy. Trong ngôi làng nọ, mỗi sáng có một vị tu
sĩ rời nhà và đi xuống phố để đến đền thờ của mình. Sáng nào
ông cũng đều làm việc ấy. Một hôm, khi đi ngang trạm canh ông gặp một
người lính gác, anh này biết việc làm hằng ngày của vị
tu sĩ, nhưng muốn đùa cợt nên hỏi: “Sáng nay Thầy đi đâu đó?” Vị tu sĩ trả lời, “Tôi cũng không biết chắc nữa!” Anh
lính gác hơi bực mình, hỏi lại “Thầy đi đâu, đừng đùa với tôi nhé!” Vị
tu sĩ vẫn đáp, “Thú thật, sáng nay tôi không biết mình sẽ đi đâu!” Anh
lính nghĩ vị tu sĩ muốn châm chọc mình nên bực tức và bắt nhốt vị tu sĩ lại. Vị
tu sĩ nhìn anh lính gác nói, “Anh thấy không, tôi có nói dối anh đâu, mỗi sáng
thì tôi thường đi xuống đền thờ, nhưng hôm nay tôi đâu có biết là mình sẽ đi vào
tù đâu!”
Câu chuyện vui thôi, nhưng mà đó cũng là một điều hay phải không bạn? Đâu
ai biết được! Hôm qua ta có thể đang đối diện với những muộn phiền, khó khăn,
nhưng hôm nay tất cả có thể sẽ hoàn toàn đổi mới… Vô thường có
nghĩa là sự việc bao giờ cũng sẽ lại mới tinh khôi.
Sống trọn vẹn tỉnh thức
Các vị thiền sư thường dạy rằng, trong giờ phút
này nếu như ta biết lắng nghe, biết quan sát, biết cảm nhận các hoạt động của
thân, của những cảm giác, của trạng thái nào đang có mặt trong tâm... tức là ta
đang sống trọn vẹn tỉnh thức trong giờ phút hiện tại.
Mà bạn biết không, thật ra việc ấy không đòi hỏi một sự dụng công gì nhiều lắm
như mình tưởng đâu. Vì khi chú tâm lắng nghe một bản nhạc nào đó thì ta
cần một sự lao tác cố gắng, chứ như lắng nghe hết tất
cả thì thật ra ta chỉ cần buông thả cho được tự nhiên và trong sáng mà thôi. Vô
vi nhi vô bất vi, Lão tử và trong nhà thiền thường hay nói, tuy ta
không làm gì mà lại là đang làm hết tất cả.
Cái khó có lẽ là
làm sao ta có thể tạm buông bỏ được những bài bản mình đã biết rồi bạn hả, để
trở về được ngay nơi này, với con số không của ông Cage, để tiếp xúc được với
thực tại, có thể là chỉ chừng bốn phút và ba mươi ba giây thôi. Và tôi hiểu
rằng, bây giờ và ở đây đang có đầy đủ hết tất cả và nó chỉ thiếu vắng mỗi sự có
mặt của chính mình mà thôi...
Nguyễn Duy Nhiên