Minh Thạnh
KHÁI QUÁT
Nga, có thể nói, là một
quốc gia theo đạo Phật, vì Phật giáo được luật pháp xác định là một trong bốn
tôn giáo truyền thống của Liêng Bang Nga (bên cạnh Cơ đốc Chính thống giáo, Hồi
giáo và Do Thái giáo). Vì vậy, Phật giáo Nga, tuy chỉ phát triển mạnh ở một số
địa phương, nhưng lại là một tôn giáo quốc gia. Các trường học trên toàn lãnh
thổ Liên Bang Nga, về nguyên tắc, phải giảng dạy giáo lý và lịch sử Phật giáo
Nga trong môn học về các tôn giáo ở Nga.
Phật giáo ở Nga có thể
chia làm 2 phần: Phật giáo học thuật và Phật giáo tôn giáo. Phật giáo học thuật
bao gồm tất cả tông phái Phật giáo, trong đó có Phật giáo Nam tông, là đối tượng
nghiên cứu của các nhà khoa học Nga. Còn Phật giáo tôn giáo chủ yếu là Phật giáo
Bắc Tông Tạng truyền, mang màu sắc Mông Cổ, thuộc dòng Mũ vàng Truyền thừa Phật
giáo này có từ thế kỷ XIV và truyền bá vào nước Nga vào thế kỷ XVII.
Trước đây, các cơ sở thờ
tự Phật giáo Nga hầu như đều theo truyền thừa này, với một tổ chức là Giáo hội
Tăng già Phật giáo cổ truyền Nga. Tăng sĩ Phật giáo Nga được gọi là Lạt Ma.
Hiện nay, nhiều tông
phái mới du nhập vào Nga, hình thành diện mạo Phật giáo phát triển đa dạng.
GIAI ĐOẠN KHỞI NGUYÊN
TRUYỀN BÁ
Phật giáo có mặt trên
lãnh thổ Nga từ những người Mông Cổ. Vùng truyền bá đầu tiên là hạ nguồn Volga
và ngoại Baikan. Cư dân vùng này đã sớm sùng tín Phật giáo. Ngoài người Mông Cổ
Kalmưk , Buriat, một số dân tộc khác ở địa phương cũng theo đạo Phật Lạt Ma, gồm
cả vùng Tuva, Enisêi.
Trước khi Phật giáo được
truyền bá, tín ngưỡng ở những vùng trên thuộc lãnh thổ Nga theo Sa Man giáo.
Những dấu ấn Phật giáo đầu tiên xuất hiện ở Nga từ thế kỷ XIII. Việc truyền bá
Phật giáo được thực hiện theo phương thức du mục. Chùa Phật được lập trên các xe
kéo, thường là gồm 3 xe. Trên đó, có các bàn thờ Phật. Bàn thờ Phật cũng được
dựng tạm trong các lều du mục. Các chùa Phật du cư này được gọi là Khuluda.
Sau thời gian thờ Phật
du cư, trên lãnh thổ Nga đã có các chùa Phật được xây bằng gỗ. Đó là vào thế kỷ
XVII. Người ta thường nhắc đến tự viện có tên “Đarkkhan – Dorgin – kit”, có
người dịch là “Bảy điện”, thời gian xây dựng được cho là đầu thế kỷ XVII, tại
Semipalatinsk hiện nay.
Từ thế kỷ XVII, chùa
Phật bằng gỗ được xây dựng ở nhiều nơi trên đất Nga, kể cả phần lãnh thổ châu Âu
(vùng Kalmưkia). Phật giáo phát triển, nhưng tín ngưỡng Saman bản địa vẫn tồn
tại song song. Ở nhiều nơi đạo Saman trộn lẫn với Phật giáo Lạt Ma tạo thành một
tín ngưỡng đặc biệt.
Thế kỷ XVII, tại Nga,
cùng với việc xuất hiện chùa Phật, tập thể Tăng sĩ (Lạt Ma) cũng bắt đầu trở nên
đông đảo. Các chùa lớn là Xongolski, Gusinoorzerski, Khorinski…
Thế kỷ XVIII, Triều đình
Sa hoàng Nga đã công nhận Phật giáo là tôn giáo chính thức của Nga. Phật giáo ở
Nga kết thúc giai đoạn du nhập, chuyển sang giai đoạn phát triển.
PHẬT GIÁO LÀ TÔN GIÁO
CHÍNH TẠI NHIỀU ĐỊA PHƯƠNG Ở NGA
Các địa phương theo Phật
giáo ở Nga là Buratia, Kalmưkia, Nam Sibêri (người Tuvin).
Số Tăng sĩ Phật giáo ở
từng vùng lên đến nhiều ngàn người, thực hiện những phương thức tu hành Tạng
truyền.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, có tài liệu ghi nhận tình trạng Tăng sĩ sống ngoài tu viện, do tình trạng
đông đảo và điều kiện sống ở một số tu viện xuống thấp từ những biến động do cải
cách hành chính, cải cách ruộng đất.
Các vị cao tăng ở giai
đoạn này là các Lạt Ma Agvan Dorgiev, Iroltuev… Riêng Lạt Ma A. Dorgiev đã chủ
trì xây dựng chùa Gunzetroinei ở Saint Peterburg. Đây là chùa Phật giáo lớn đầu
tiên ở thủ đô Nga và là trung tâm Phật giáo đầu tiên ở châu Âu, do chính Lạt Ma
A. Dorgiev trụ trì. Phật giáo Tạng truyền là tông phái Phật giáo đầu tiên truyền
đến châu Âu với tư cách một tôn giáo thông qua con đường Á - Âu của nước Nga.
Trình độ Phật học chư
tăng ở các vùng Phật giáo truyền thống của Nga được nâng cao.
Hoạt động nghiên cứu
Phật học do các nhà khoa học người Nga chủ trì phát triển tại thủ đô Nga với
nhiều công trình được xuất bản.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX Phật giáo Nga phát triển đến giai đoạn đỉnh cao, cả về học thuật lẫn
truyền bá. Nhiều người Nga trí thức và quý tộc tìm hiểu về Phật giáo.
Sau Cách mạng Tháng
Mười, Phật giáo Liên Xô vẫn còn phát triển trong khoảng 10 năm nữa, với sự ủng
hộ của Dân ủy Giáo dục Chính phủ Xô Viết là Lunacharski.
Trong Phật giáo Nga đã
diễn ra sự phân hóa, giữa một bên hướng về việc tích cực thay đổi theo chính
quyền Xô Viết và một bên giữ những truyền thống cũ.
Từ năm 1930 đến năm
1945, Phật giáo Liên Xô gặp nhiều khó khăn. Nhiều chùa Phật giáo bị giải thể,
không còn tu sĩ. Tình hình như thế là chung ở Buriatia, Kalmưkia và Tuna, cho dù
trên danh nghĩa, Tuna là độc lập.
Trong Chiến tranh Thế
giới thứ II, các Phật tử Liên Xô đã góp phần tích cực trong kháng chiến. Vì vậy,
quan hệ giữa chính quyền Xô Viết và Phật giáo được cải thiện. Một số chùa được
khôi phục. Năm 1946, đã diễn ra một hội nghị Phật giáo và sau đó dẫn đến việc
thành lập Giáo hội Phật giáo Liên Xô, cơ quan Trung Ương là “Hội đồng Trung Ương
Giáo hội Phật giáo Liên Xô”, chủ tịch hội đồng là một Panđiđo – Khambô Lạt Ma
Lobsan – Nima Darmaev.
Tuy nhiên Phật giáo Liên
Xô vẫn có 2 thành phần: hợp pháp, thân nhà nước và không hợp pháp, độc lập với
nhà nước, không đăng ký.
Hội đồng Trung ương Giáo
hội Phật giáo Liên Xô có một số hoạt động về đối ngoại và giáo dục.
Phía Phật giáo Liên Xô
không công khai thì có những hoạt động về nghi lễ mang tính nội bộ và y học cổ
truyền Tây Tạng (1).
PHẬT GIÁO NGA PHÁT TRIỂN
ĐA DẠNG
Phật giáo Liên Xô đẩy
mạnh bước khôi phục sau khi Liên Xô tiến hành chính sách đổi mới.
Năm 1990, sau bước hoàn
trả nhiều chùa ở Tuva và Kalmưkia, chùa ở Leningrat được hoàn trả và tái hoạt
động.
Từ năm 1991, với sự
thành lập SNG, Phật giáo Nga phát triển mạnh mẽ.
Năm 1993, Lạt Ma Troi
Dorgie Buđaev được tấn phong Khambô – Lạt Ma.
Tuy nhiên, nhiều tổ chức
Phật giáo mới được thành lập, cả trong Phật giáo truyền thống ở Nga lẫn Phật
giáo mới du nhập. Con số tổ chức Phật giáo ở Nga, theo một số tài liệu, đã lên
đến mức 200. Họ hoạt động tương đối độc lập với nhau, trong khi Giáo hội Phật
giáo cổ truyền Nga vẫn giữ vai trò chủ đạo ở Buratia, Kalmưkia và Tuva.
Ở những vùng này, sự
phục hưng Phật giáo gắn liền với sự khôi phục bản sắc các dân tộc ở địa phương.
Một trong những vấn đề
lớn mà Phật giáo cổ truyền Nga phải giải quyết là đào tạo tăng tài. Nhiều Tăng
sĩ đã được cử đi du học và số tăng sĩ có trình độ đã tăng lên thấy rõ. Việc phổ
cập giáo lý được cải thiện.
Những tổ chức Phật giáo
mới thành lập từ sau khi nhà nước Liên Bang Nga ra đời được gọi là Phật giáo mới
(phân biệt với Phật giáo cổ truyền Mũ Vàng).
Phật giáo mới ở Nga rất
đa dạng, gồm nhiều tông phái, trong đó có cả một số dòng của Phật giáo Tạng
truyền. Bên cạnh đó, là nhiều tông phái Bắc tông, Nam tông, trong đó có thể kể
đến Tịnh độ Tông Việt Nam. Nhiều tổ chức Phật giáo từ nhiều nguồn trên thế giới
đã và đang tích cực truyền bá Phật giáo tại Liên Bang Nga.
Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV
cũng đã có chuyến viếng thăm Liên Bang Nga và được hoan nghênh nhiệt liệt.
Tuy nhiên, về mặt trái,
cũng có thể kể đến xu hướng truyền bá những “sự thần bí phương Đông” dưới màu
sắc Phật giáo.
Nhóm Phật giáo mới thu
hút được một số đông tín đồ là thành phần trí thức Nga đã tạo nên một diện mạo
mới cho Phật giáo Nga hiện đại.
MT
Chùa Samye Dzong , ngoại ô
thủ đô Moscow