(câu chuyện ngày xuân)
Đặng Công Hanh
"Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ"
(BG)
Hai câu
thơ này được trích dẫn từ một bài thơ của cố thi sĩ Bùi Giáng. Ông còn được biết đến là nhà biên khảo triết học và
dịch thuật văn học nước ngoài: Anh, Đức, Pháp, Hán văn từ thập niên 60.
Ông có một cuộc sống vượt quá ước lệ thế tục trong một phong cách nửa thực, nửa
hư rất kỳ bí như có lần ông u hoài diễn cảm "Chợt
có lúc trên đường tôi đứng lại / Ngó ngu ngơ xưa chính ở chỗ này".
Trong không khí se lạnh
của tiết xuân bên tách trà còn hâm hấp nóng, tôi chợt nghe ra một điệu buồn buồn
trong âm vực vang vọng từ ý thơ của ông, ghi vội một vài dòng suy tưởng làm món
quà mọn đầu xuân, đồng thời như một tâm niệm trên bước chân độc hành trong cõi
nhân gian mang tâm trạng của gã cùng tử chạy lang thang tìm nước trên miền sa
mạc mênh mông cát trắng.
® Sự thật tương đối: một cái gì đó đang còn bỏ ngỏ
Lý
thuyết lượng tử là một lĩnh vực nhỏ của vật lý nguyên tử trong ngành khoa học
hiện đại. Tuy nhiên nó đã mở
ra một hướng thay đổi quan trọng liên quan đến khái niệm về Thực tại. Nhưng sự thay đổi này được thể
hiện trong lý thuyết lượng tử ở dạng hoàn chỉnh của nó, đã cô đọng và kết tinh
các ý tưởng mới của vật lý nguyên tử.
Nó không phải là sự tiếp nối của quá khứ mà là điểm gãy đứt trong
cấu trúc của nền khoa học hiện đại.
Nguồn gốc của lý thuyết
lượng tử được gắn liền với một hiện tượng nổi tiếng: một mẩu vật đen bất kỳ khi
bị đốt nóng thì bắt đầu phát sáng, ban đầu nóng đỏ rồi nóng trắng ở nhiệt độ
cao, màu sắc chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ. Thiên tài của Planck đã dẫn đến việc
khám phá thiết lập một công thức toán học thật đơn giản phù hợp về mối liên hệ
tổng quát giữa nhiệt và bức xạ. Định luật Planck về bức xạ nhiệt đã được phát
minh như thế và ông đã nhận ra rằng công thức của ông đã chạm đến những nền tảng
của sự mô tả tự nhiên và rằng một ngày nào đó những nền tảng ấy sẽ dịch chuyển
từ vị trí truyền thống hiện tại đến một vị trí ổn định rộng rãi hơn. Tháng 12
năm 1900, ông công bố về giả thiết lượng tử với ý tưởng cho rằng năng lượng có
thể phát ra hoặc hấp thụ theo những lượng tử năng lượng gián đoạn tương tự như từng
gói năng lượng là hoàn toàn mới mẻ đối với khuôn khổ truyền thống của vật lý
học.
Trong
thời gian đó, Albert Einstein một thiên tài cách mạng trong các nhà vật lý đã
bước qua các khái niệm cũ, sử dụng các ý tưởng mới của Planck đề xuất 2 bài
toán.
- Bài toán về hiệu ứng
quang điện: đó là sự phát ra các electron từ bề mặt kim loại dưới tác dụng của
ánh sáng, cụ thể hơn sự phát ra các electron phụ thuộc vào tần số của ánh sáng
và Einstein đã giải thích được các quan sát bằng cách diễn giải rằng ánh sáng
bao gồm các lượng tử năng lượng truyền qua không gian, năng lượng có dạng E = hn [h là hằng số Planck,
n là tần số ánh sáng].
- Bài toán thứ 2 về nhiệt
dung của vật rắn: lý thuyết truyền thống cho rằng giá trị của nhiệt dung phù hợp
với nhiệt độ cao, không phù hợp ở nhiệt độ thấp.
Einstein đã giải quyết vấn nạn đó bằng giả thiết lượng tử cho các
dao động đàn hồi của nguyên tử trong vật rắn.
Hai kết quả này đã phát
lộ một đặc điểm rất cách mạng mang tính sâu sắc là mô tả ánh sáng có thể được
giải thích bao gồm các sóng điện tử theo lý thuyết của Maxwell hoặc các lượng tử ánh sáng tức các
năng lượng truyền qua không gian với tốc độ cao. Lẽ tất nhiên,
Einstein thừa biết hiện tượng nhiễu xạ và giao thoa chỉ có thể giải thích được
trên cơ sở của bản chất sóng. Ông không thể tranh cãi gì sự mâu thuẫn
giữa hai hình trạng này của ánh sáng mà đơn giản chỉ thấy mâu thuẫn như một điều
gì đó mà giới khoa học chỉ có thể hiểu sau này. Tuy vậy, các kết quả của các nhà
vật lý áp dụng lý thuyết lượng tử, nhất là công trình của Bohr xây dựng một mẩu
nguyên tử, mẩu này giải thích được các câu hỏi mà lý thuyết truyền thống của cơ
sở Newton không giải thích thoả đáng và cũng chính vào lúc này sự mâu thuẫn đã
trở nên gay gắt hơn: Làm thế nào mà cùng một bức xạ tạo ra bức tranh giao thoa
(bao gồm các sóng), lại gây ra hiệu ứng quang điện (bao gồm các hạt chuyển động
với vận tốc cao). Điều lạ lùng nhất của thời gian này là qua
rất nhiều nghiên cứu, các nghịch lý (mâu thuẫn) của lý thuyết lượng tử đã không
biến mất mà ngược lại chúng càng gây nhiều ấn tượng đáng chú ý hơn và gây nhiều
tranh luận thích thú. Có thể kể đến ba nhà khoa học
toán lý Bohr, Kramer, Slater đã công bố một đặc điểm quan trọng trong việc giải
thích lý thuyết lượng tử đó là khái niệm "sóng xác suất". Đây là một cố gắng
nhằm giải quyết các mâu thuẫn giữa hai bức tranh sóng - hạt, khái niệm này hoàn
toàn xa lạ trong vật lý lý thuyết kể từ thời Newton, nó vượt qua ý nghĩa xác
suất trong toán học hay trong cơ học thống kê, nó nói lên cái gì đó đứng giữa ý
niệm về "một sự kiện và sự kiện thực",
một loại Thực tại vật lý nằm ở giữa 2 đường biên "khả năng và thực tại".
® Sau này, khi khuôn
khổ toán học của lý thuyết lượng tử được kiến thiết Max Born một tài năng toán
học, đã nâng ý tưởng sóng xác suất thành một định nghĩa toán học. Nó
không phải là sóng 3 chiều như sóng cơ, sóng vô tuyến mà là sóng trong không
gian nhiều chiều, cho nên nó hoàn toàn là một đại lượng toán học khá trừu tượng
đến nỗi lúc bấy giờ người ta còn chưa biết phải dùng hình thức luật toán học này
như thế nào để mô tả một tình huống thí nghiệm.
Vả chăng chỉ có những tình huống thí nghiệm có thể biểu diễn được
trong hình thức luận, mới có thể xuất hiện trong thế giới tự nhiên.
® Cùng thời gian này, tháng 2 năm
1926, Schrodinger đã chứng minh rằng hình thức luận cơ học sóng của mình tương
đương về mặt toán học với cơ học lượng tử mà nền tảng của cơ học đặt trên một
phương trình vi phân gọi là "phương trình sóng" hay phương trình Schrodinger cho hàm số sóng của
hạt và mong muốn của ông nó là sóng cơ thật, mô tả được mật độ điện tích và vật
chất trong không gian, nhưng đã nhanh chóng thành ảo vọng.
® Năm 1927, với tất cả say mê và cao vọng của mình
Heisenberg đã công bố "nguyên lý bất định"
có nội dung: nếu đo đạc cùng một lúc vị trí vận tốc của hạt thì tích của 2 sai
số của vị trí và vận tốc ít nhất bằng hằng số Planck chia cho 4p. Với nguyên lý này thế giới quan cơ học Newton bị đảo lộn.
Nhanh chóng Bohr đã triển khai ý tưởng này qua "nguyên
lý bổ sung" để diễn giải lý thuyết lượng tử, ông cho rằng tính nhị nguyên
sóng - hạt cũng như vậy, chúng ta chỉ biết và chọn 1 trong 2 tuỳ theo thí
nghiệm, cái nầy hiện ra thì cái kia mờ đi, nhưng cả hai là điều kiện cho nhau để
tồn tại.
Đây chính là cách giải thích lý thuyết lượng tử của trường
phái Copenhagen và chính Pauli đã ca ngợi là "hừng
đông của một thời đại mới bắt đầu". Ta thử tìm cái "hừng
đông" nói lên điều gì?
Cách giải thích này bắt
nguồn từ nghịch lý của nhị nguyên sóng - hạt: Thông thường một thí nghiệm vật lý
liên quan đến hiện tượng trong cuộc sống hay các vấn đề của nguyên tử đều phải
thông qua con đường vật lý cổ điển với một tổng hợp các ngôn ngữ của khái niệm
để mô tả thiết kế thí nghiệm và phát biểu kết quả.
Tuy nhiên
việc áp dụng các khái niệm này bị hạn chế bởi các nguyên lý bất định, vì vậy
việc để hiểu cách giải thích của trường phái Copenhagen là một công việc khó
khăn
- Một là các cơ chế và
kết quả quan sát được diễn đạt qua các khái niệm truyền thống.
- Hai là những điều rút
ra từ quan sát trong một sự kiện nguyên tử là hàm xác suất, một biểu thức toán
học mô tả về các khả năng hay tiềm năng với những phát biểu về sự hiểu biết đối
với một thực tại. Điều này nói lên rằng chúng ta không thể khách quan hoàn toàn
đối với kết quả quan sát, cũng như không nói lên được điều gì biểu lộ giữa quan
sát lần này và lần sau đó. Như vậy những điều gì xảy ra đều phụ thuộc vào cách
thức mà chúng ta quan sát nó. Rõ ràng tính chủ quan gây cho ta quá nhiều khó
khăn vô vọng nếu ta tìm cách mô tả cái gì đó xảy ra giữa hai lần quan sát kế
tiếp.
Về
phương diện khó khăn này nay chúng ta nhớ lại ý kiến của Bohr cho rằng khi tìm
kiếm một sự hài hoà trong cuộc sống, người ta không được quên rằng trong tấn
kịch sinh tồn, chúng ta vừa là diễn viên vừa là tác giả kịch bản, vừa là khán
giả. Điều
này có thể hiểu được trong khoa học là khi chúng ta đặt ra những câu hỏi về tự
nhiên bằng ngôn ngữ mà chúng ta đang có và tìm cách nhận những giải đáp từ thực
nghiệm bằng những phương tiện trong tay. Do vậy cái mà
ta quan sát không phải là tự nhiên tự thân mà là tự nhiên đã phơi bày trước
phương pháp thăm dò được thiết kế qua dụng cụ. Việc phủ nhận
thực tại khách quan của thế giới bên ngoài được hàm ý rất rõ vật trong cách giải
thích của trường phái Copenhagen. Heisenberg đã tỏ ra thẳng thắn nhất và
nói rõ: "Trong những
thực nghiệm về các sự kiện nguyên tử chúng ta phải làm việc với các vật, các sự
kiện, các hiện tượng thật như bất kỳ hiện tượng trong cuộc sống hằng ngày.
Nhưng bản thân các hạt sơ cấp, bản thân
chúng không thật, chúng tạo nên một thế giới tiềm năng hay thế giới khả năng chứ
không phải là thế giới sự vật".
Theo ông, chẳng hạn câu
hỏi "electron là sóng hay hạt" tương
tự như: "nước Mỹ ở trên hay ở dưới nước Pháp", câu
trả lời đúng là "không ở trên cũng không ở
dưới". Cả hai khía cạnh sóng và hạt
đều có thể biểu hiện, nhưng không có khía cạnh nào có nghĩa nếu thiếu đi tình
huống thí nghiệm thích hợp.
Ông tiếp tục cảnh báo khi
sự mơ hồ và sử dụng ngôn ngữ không tương thích thì nhà vật lý phải rút lui về
lược đồ toán học và sự tương quan rõ ràng của nó với các sự kiện thực nghiệm.
Bối
cảnh lúc bấy giờ, con tàu lượng tử đang chuyển bánh vun vút, chỉ còn một mình
Einstein cô đơn dừng lại và không ngừng nêu lên tính không đầy đủ của lý thuyết
lượng tử. Vào năm 1935, cao điểm của sự phản
đối được Boris Bodosky và Nathan Rosen đề xuất "Nghịch lý EPR", nghịch lý này liên quan đến ánh sáng bắt quả tang sự
không đầy đủ của cơ lượng tử".
Phân rã của một hạt ánh
sáng thành 2 hạt A, B. Vì lý do đối xứng A, B đi theo 2
hướng ngược nhau. Hãy đặt dụng cụ đo và kiểm tra. Nếu A đi về hướng Đông, chúng ta sẽ phát hiện B ở phía Tây.
Trước khi đặt máy dò A khoát áo sóng, sóng này choáng
toàn bộ không gian và tồn tại xác suất nào đó để A nằm bất cứ hướng nào. Khi đặt
máy dò, A khoát áo hạt và biết mình đi về phía Đông. Điều kỳ diệu ở
chỗ, trước khi bị đo A không biết đi hướng nào thì làm
thế nào B điều chỉnh hành trạng của mình khi đón được hành trạng của A - trừ khi
ta chấp nhận A thông báo tức thì đến B hướng chuyển động của mình. Cả 2 hạt cùng
phát hiện cùng một thời điểm, điều này có nghĩa là sự truyền thông tin với một
vận tốc vô hạn (lớn hơn vật tốc ánh sáng), điều mâu thuẫn với thuyết tương đối
của Einstein nói rằng vận tốc ánh sáng là giới hạn sau cùng của tín hiệu.
Ông kết luận rằng cơ lượng tử không đưa ra được một cách mô tả
hiện thực một cách đầy đủ - và sở dĩ không có khả năng giải thích được đường đi
của một hạt là vì không tính đến một số "biến
ẩn".
Như vậy nó bất toàn.
Gần 30 năm sau, thí
nghiệm tưởng tượng EPR gần như trôi vào lãng quên, Jon Bell làm việc tại trung
tâm nghiên cứu hạt nhân Châu Âu đã biến nó thành giả thiết để kiểm chứng và ông
đã chứng minh EPR sai và thực sự không tồn tại "biến
ẩn". Phải đến năm 1980 nhà Vật lý Alain Aspect, người Pháp đã chứng minh
trong mọi trường hợp thì A và B không thể truyền cho nhau các thông tin bằng ánh sáng.
Ấn tượng hơn nữa, gần đây Nicolas Gisin người Thuỵ Sĩ thực hiện với khoảng cách
11 km, thì các tình trạng của A, B vẫn có tương quan nhau nhưng A và B vẫn không
thể thông tin nhau bằng ánh sáng do kết quả 2 máy đo có độ chênh lệch
3 phần mười tỷ giây, với thời gian đó
ánh sáng chỉ đi 9cm.
Nghịch lý EPR đi vào tận
sâu thẳm của các thế gian quan khác nhau mà cả vật lý cổ điển và vật lý lượng tử
đã áp đặt lên con người.
+ Theo Newton, không gian
và thời gian là tuyệt đối, độc lập với quan sát viên, chúng khác biệt và tách
rời nhau.
+ Theo Einstein, không
gian và thời gian tương đối, giá trị của chúng phụ thuộc vào vận tốc người quan
sát và lực hấp dẫn xung quanh người quan sát.
+ Cơ học lượng tử đã loại
bỏ hoàn toàn ý tưởng về định xứ của không gian và nó trao cho không gian đặc
tính toàn cục. Hành trạng của A và B đã từng tương tác với nhau, nhớ lại sự
vướng víu quá khứ nhưng vẫn thường xuyên liên lạc với nhau bằng một loại tương
tác huyền bí và dù ở đâu thì 2 hạt vẫn tiếp tục là "một bộ phận của 1 thực tại".
Rõ ràng
các thí nghiệm nêu trên đã xác định vai trò của người quan sát. Trước khi đo, hạt mặc áo sóng hiện diện khắp nơi. Khi người quan
sát thực hiện phép đo, lúc đó hàm số sóng bỗng triệt tiêu tại mọi điểm, hạt hiện
nguyên hình chỉ tại vị trí quan sát với xác suất bằng 1. Người ta gọi hành trạng
đó là sự "rút gọn" sóng hay "sụp
đổ" sóng. Theo Aspect, khi 2 hạt tương tác nhau thì xuất hiện một hàm sóng
mới chứa tổng thể cái khả năng của 2 hạt cho nên khi tách chúng ra thì chúng
không còn được mô tả bằng 2 sóng độc lập mà chỉ bằng một sóng toàn thể. Đối với
vật vĩ
mô thì ta lại có một hàm sóng phức tạp hơn chứa tổng thể các khả năng tương tác
của mỗi hệ. Vấn đề đang còn bỏ ngỏ cho một lời giải.
Theo Niels Bohr vấn đề này không giải quyết được qua hình thức luận lý thuyết
lượng tử của hàm sóng.
Thế giới vĩ mô được chi phối bởi các định luật của
Maxwell và Newton.
Tại sao có biên giới này? Bohr phớt lờ và đưa ra một
quan điểm thực dụng, ông nói "Cách
mô tả thế giới tự nhiên không nhằm phát hiện "bản chất thực" của hiện tượng, mà
đơn giản chỉ là khám phá nhiều nhất mối quan hệ giữa rất nhiều khía cạnh của sự
tồn tại của chúng ta".
Cho đến
hiện nay, đằng sau sự đồng thuận bề ngoài của các nhà khoa học, người ta nhận
thấy những bất đồng nghiêm trọng về "bản
chất thực" của thực tại được giấu kín cho riêng mình ở bên ngoài nghiên cứu
chuyên sâu của họ. Khoa học càng phát
triển thì người ta càng nhận ra rằng, trong nhiều trường hợp, lý trí không thể
đi đến tận con đường. Cơ học lượng tử đã đưa ra khái
niệm bất định, phi bất định, khả năng tiềm ẩn.v.v.
Điều này đã được nhà toán học Kurt Godel, năm 1931 chứng minh trong "định
lý bất toàn" mang tên ông. Định lý
hàm ý luôn luôn tồn tại một giới hạn trong hiểu biết của chúng ta về một hệ nhất
định bởi vì chúng ta là một bộ phận của hệ đó.
Định lý Godel đã phát một
tín hiệu có chiều sâu và rộng về thế giới quan và rằng không bao giờ một mình
khoa học có thể đưa đến "thực tại tối hậu" mà cần phải kêu gọi đến các phương thức nhận thức
khác nữa đó là "con đường tâm linh".
®
Con đường chiêm nghiệm và sự hiểu biết tối hậu
Khoa
học liên quan đến thế giới vật chất khách quan. Nó cuốn hút chúng ta tìm kiếm và đưa ra những phát biểu chính xác về
"thực tại khách quan" và nắm bắt những
mối tương lẫn nhau của nó. Trái lại Phật giáo, trước
hết là con đường giác ngộ, một con đường chiêm nghiệm với cái nhìn hướng về bên
trong nội tâm. Trong khoa học,
trí tuệ và lý trí đóng vai trò quan trọng, Phật giáo đề cao trực giác - kinh
nghiệm bên trong lại giữ vai trò chủ đạo hàng đầu trong phương pháp chiêm
nghiệm.
Phật giáo suy tư về bản
chất của thế giới một cách sâu sắc và hiểu được bản chất thực của thế giới vật
lý: tính trống không,
phụ thuộc lẫn nhau để xua tan màn vô minh và mở ra con đường giác ngộ. Giác
ngộ chỉ trạng thái tỉnh thức lúc con người trực nhận tính Không - bản thân nó là Không
và toàn thể vũ trụ cũng là Không. Tính Không, không
phải là một đối tượng để tiếp cận vì bản thân chủ thể tiếp cận cũng thuộc về nó.
Tóm lại, Giác ngộ là một kinh nghiệm không thể giải bày.
Quan
điểm của Phật giáo về sự phụ thuộc lẫn nhau đồng nghĩa với tính Không, đến lượt mình tính Không lại đồng nghĩa với Vô thường.
Thế giới vận hành như một dòng chảy khổng lồ,
các sự kiện nối tiếp nhau và liên tục tương tác thay đổi hành trạng xuất hiện và
biến mất trong các vòng đời phù du vô cùng ngắn ngủi.
Triết học Phật giáo cho
rằng, bất cứ điều gì thuộc phạm vi nhận thức của Tâm,
đều không tồn tại trước khi Tâm nhận thức nó. Nó không hiện hữu một cách độc lập
nên không thực sự hiện hữu và gọi thế giới được nhận thức là
"sự thật tương đối" hay sự thật được đo lường và qui kết do Tâm thức bình
thường của con người. Mọi đối tượng xuất hiện trong tâm thức
khác biệt so với cách thức tồn tại thực sự của nó.
Khi tâm thức cảm nhận hình dạng của chúng, chấp nhận đó là "thật"
và theo đuổi một ý tưởng hoặc ý niệm nào đó thì lúc này
tâm đã bị đánh lạc hướng. Vì ý niệm đó hoàn toàn bị bóp méo
bởi cảm nhận về đối tương, nó mâu thuẩn với cách thức tồn tại thực sự của đối
tượng. Sự khác biệt tinh
vi này bắt nguồn từ sinh lực bên trong kích hoạt và đưa
đẩy tâm thức về phía đối tượng bên ngoài.
Sự thật "tối hậu" thì
nó không phải được cấu thành, không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng và độc
lập với mọi diễn dịch của con người.
Tính
Không luôn luôn là nó vì nó vượt khỏi
không - thời gian và nó không có hình tượng. Nó không được hiểu
là phủ định của hiện hữu nên không thể nói thế giới tương đối này không hiện hữu
bởi vì phủ định một cái gì đó thì trước tiên phải có cái gì đó để phủ định.
Quan điểm triết lý Đạo Phật không bác bỏ hình tướng hay chức năng của sự hiện
hữu ở trần gian và rằng con người có thể tận hưởng các trải nghiệm của mình
nhưng những trải nghiệm đó không đồng nghĩa rằng nó "thực
sự hiện hữu". Đức Phật dạy rằng chúng ta nên xem xét kinh nghiệm và cho rằng
nó là một "ảo ảnh" nhất thời, tựa như
một giấc mơ giữa ban ngày bởi vì khi những điều kiện và nguyên nhân cùng đến thì
cái gì đó xảy ra và khi những điều kiện không còn nữa thì sự xuất hiện đó không
còn.
Thế cho nên kinh nghiệm
của con người trong trần gian như là một giấc mơ. Đức Phật dạy rằng sự bám chấp
vào bên ngoài và xem giấc mơ như thực sự hiện hữu sự thêu dệt nên hiện hữu không
thật, dựa trên các phóng chiếu của hy vọng, tưởng tượng sai lầm của tâm thức sẽ
đưa đẩy con người vào vòng xoáy của khổ đau và lo lắng không cùng. Không phải
cái vẻ bề ngoài của trần gian trói buộc con người mà chính sự bám chấp đã giam
hãm con người. Giáo pháp của Đức Phật
là phương pháp cho những sự giải thoát, đôi khi còn gọi là con đường, con đường
đưa chúng ta từ vô minh đến sự vắng bật vô minh, giúp chúng ta hiểu rằng nỗi khổ
đau và hoang tưởng đều có nguồn gốc là sự ảo tưởng.
Cách đây hơn 26 thế
kỷ, Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn, đang sống trong cung điện nguy nga
lộng lẫy bên vợ đẹp con xinh tại thành Ca Tỳ La Vệ, hưởng cuộc
sống thật xa hoa và thanh bình. Sau ba lần Thái Tử ra khỏi thành quan sát
khi trở về Ngài đều luôn luôn nghĩ đến nỗi thống khổ của kiếp người, của chúng
sinh đáng thương, khiến Ngài chẳng còn lưu luyến, ham thích gì đời sống tại cung
vàng điện ngọc mà quyết tâm buông bỏ tất cả địa vị thống trị cùng mọi thứ xa hoa
của đời sống đế vương, rời khỏi vương cung ra đi truy
cầu chân lý và tự do. Sau 6 năm tu khổ hạnh và 49 ngày ngồi thiền định dưới cội
Bồ Đề, bằng sức mạnh của trí tuệ, sức mạnh của từ bi và năng lực tinh tấn vô
hạn, đã thể hội chân lý tuyệt đối tức chân lý không hư vọng của nhân sinh và
qui tắc
thực tiễn đạo - chân lý, trở thành Đức Như Lai của nhân loại. Ánh chớp phát đi
từ trí tuệ siêu việt của Đức Phật đã xé toạc màn sương mù bao phủ nhận thức con
người về cái "Thật" nơi chốn trần
gian.
Đức Phật dạy kinh nghiệm
sâu sắc này trong Kinh Kim Cang
"Tất cả pháp hữu vi
như
mộng, huyễn, bào, ảnh
như
sương, như chớp loè
hãy
quán chiếu như thế"
(Bản dịch: Thích Nhất Hạnh)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ điển Phật giáo: Chân Nguyên, Nguyễn
Tường Bách, Thích Nhuận Châu - NXB Thời Đại
2. Thành Duy Thức: Tuệ Sỹ dịch NXB Phương
Đông
3. Đai Thừa
Tuyệt đối luận: Nguyệt Như Tâm Viên, Đặng Hữu Trí
dịch - NXB Thời Đại
4. Kim Cang: Thích Nhất Hạnh - NXB Lá Bối
5. Max Planck: Nguyễn Xuân Xanh - NXB Trí
thức
6. Từ điển yêu thích bầu trời: Trịnh Xuân
Thuận - NXB Trí thức