Diệu Kim
Lời nói đầu
Trong
những năm gần đây, công tác giáo dục Phật giáo mở rộng và chú trọng hướng đến
lớp trẻ, vì các em sẽ là rường cột của xã hội, của Phật giáo mai sau. Chăm sóc
cho các em chu đáo nghĩa là chúng ta đang xây dựng một thế hệ công dân
tương lai biết sống tốt đẹp, hướng thiện, biết vì mọi người, vì thế giới, vì
chúng sinh.
Phật pháp cũng không ngoài mục đích đem lại lợi ích cho cuộc đời,
góp phần làm cho con người và cuộc đời ngày càng thăng hoa, hạnh phúc. Tuy nhiên,
Phật giáo hiện nay vẫn còn thiếu thốn rất nhiều tài liệu, giáo trình dành cho
lứa tuổi thiếu niên, nhi
đồng. Hầu như tài liệu chủ yếu nhất vẫn là bộ Phật học phổ
thông của Hoà thượng Thiện Hoa và một số giáo trình của tổ chức Gia đình Phật tử.
Cả hai giáo trình này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu học hỏi của các em ở nhiều
căn cơ và vùng miền khác nhau.
Trong bối cảnh đó, Phật tử Diệu Kim đã dày công biên soạn một bộ
giáo trình mới, dựa trên nền tảng các bộ giáo trình trước đây kết hợp với sự
nghiên cứu và kinh nghiệm của bản thân mình trong công việc giảng dạy Phật pháp
đối với độ tuổi thiếu niên, nhi đồng. Soạn giả cũng tự mình thử nghiệm việc
giảng dạy trong nhiều năm qua tại các lớp Phật học dành cho thiếu nhi ở những chùa thuộc miền Tây Nam bộ cũng như nhiều nơi
khác.
Trong quá trình tổ chức lớp học từ năm 2001 đến nay, soạn giả đã
nhận thấy các em thiếu nhi tới đến học thường ở độ tuổi từ 3 đến 18, nghĩa là từ
lứa tuổi mẫu giáo cho tới lớp 12. Chính vì vậy, rất khó khăn khi cho các em ngồi
học chung. Lẽ ra, mỗi độ tuổi phải có một giáo trình
riêng biệt, tương tự như bộ sách giáo khoa trong nhà trường phổ thông. Nhưng
trong điều kiện hiện nay, hầu như không có đủ giảng sư hoặc giáo viên để phụ
trách, và mỗi ngôi tự viện cũng không đủ cơ sở vật chất để tách lớp một cách quy
mô như một ngôi trường. Vì thế, soạn giả đã tạm phân chia các em thành hai cấp
lớp tương đối phù hợp để có thể sử dụng cho mỗi cấp lớp một bộ giáo trình Phật
học khác nhau.
Cấp thứ nhất:
dành cho các em từ 3 tuổi tới 11 tuổi (mẫu giáo tới lớp 5), sử dụng giáo trình
BÚP SEN HỒNG này.
Đặc trưng của các em cấp lớp này là chưa biết chữ,
hoặc mới biết chút ít, không đủ sức để học những bài giáo lý. Cho nên, soạn giả đã chú
tâm chuyển những vấn đề Phật pháp thành những chuyện vui vẻ, nhẹ nhàng, như kể
những câu chuyện giản dị quanh môi trường các em đang sống. Thí dụ: Phật bảo thì
có bài thơ về Đức Phật rất đơn giản; không sát sanh thì tả con bướm đang bay,
khuyên đừng giết nó; không trộm cắp thì kể câu chuyện con khỉ hái quả trong vườn
chùa; không tham ăn thì kể chuyện con gấu bú sữa đến tức bụng; hoặc dạy cho các
em cách quan sát hạt mầm lớn lên thành cây qua bài thơ trồng hoa cúng Phật v.v…
Tất cả đều là Phật pháp, nhưng được khoác một lớp vỏ giản dị hơn,
các em dễ hiểu, dễ thấm hơn. Và các em cũng dễ nhớ bài học vì tất cả đều được biên soạn dưới dạng
những bài học có thể thuộc lòng ngay tại lớp.
Trong điều kiện ở nông thôn hoặc quận huyện ngoại thành, nhiều gia
đình khó khăn không thể đưa con mình tới lớp mẫu giáo, cũng là một thiệt thòi
cho các em. Nếu những người giảng dạy Phật pháp có thể tranh thủ bù đắp lại một
phần những thiệt thòi đó bằng cách sưu tầm thêm những bài hát thiếu nhi thích
hợp hoặc những tranh ảnh tô màu, tập vẽ, đang phát hành chính thức trên thị
trường, hoặc tổ chức những trò chơi sinh động, thì chắc chắn hiệu quả giảng dạy
ở mỗi lớp học sẽ tăng lên rõ rệt. Những lớp học Phật pháp như thế sẽ trở thành
một kiểu “nhà thiếu nhi” cho các em sinh hoạt, nâng cao năng khiếu thẩm mỹ, văn
hoá. Đặc biệt đối với các xã ấp vùng nông thôn nói chung,
đang rất thiếu thốn nhà văn hóa, tại sao không tận dụng ngôi chùa để các em được
giáo dục lẫn vui chơi?
Chính vì thiếu nơi giải trí lành mạnh mà lớp trẻ
dễ dàng bị cuốn vào những tệ nạn xã hội. Qua kinh nghiệm nhiều năm tổ chức các lớp tại nhiều tỉnh, soạn giả
đã nhận thấy khi các em đến chùa tự nhiên ngoan hẳn ra, chăm học, hiếu thảo, có
ý thức cộng đồng. Như vậy càng nên khuyến khích các em
đi học.
Cấp thứ hai: từ 12 đến 18 tuổi (lớp
6 đến lớp 12), sử dụng bộ sách ĐỐ VUI PHẬT PHÁP, đã được Nhà sách Quang Minh
liên kết với NXB Tôn giáo in ấn và phát hành từ năm 2008.
Bộ này gồm 3 tập, được in chung thành một quyển. Bộ sách này đã được áp dụng vào giảng
dạy từ năm 2001, sau nhiều lần rút kinh nghiệm, điều chỉnh, đã tương đối ổn định
và thực tế cho thấy các em tiếp thu
rất tốt.
Trong 3 tập Đố vui Phật pháp, soạn giả đều biên soạn
theo
dạng hỏi đáp từng câu. Nhờ đó, bài học được ngắt ra thành những phần nhỏ ngắn
gọn, giúp các em học không chán, và người dạy cũng có thể dùng ngay hình thức
hỏi đáp để kiểm tra bài. Khi đã học qua thì hầu hết các em đều
có thể trả lời được ngay, ít phải lúng túng đi tìm bố cục.
Sau khi bộ sách Búp sen hồng này được in ra để ấn tống, nhu cầu sử
dụng tại các địa phương cho thấy lượng sách in ra vẫn chưa đủ đáp ứng. Do đó,
chúng tôi đã đề nghị và được sự chấp thuận của soạn giả Diệu Kim để chính thức
phát hành bộ sách này, tạo điều kiện cho việc học Phật pháp của các em
nhi đồng được dễ dàng hơn.
Trong sách này có sử dụng một số hình ảnh để giúp các em có những
buổi học sinh động, vui tươi. Bản thân soạn giả trong quá
trình sưu tầm để sử dụng cũng không thể biết được ai là tác giả của các hình ảnh
này. Vì thế, khi in ấn chúng tôi thực sự không biết làm cách nào liên hệ
với các tác giả. Vậy xin quý tác giả có hình ảnh được sử dụng vui lòng liên hệ
với chúng tôi tại Nhà sách Quang Minh - 416 Nguyễn Thị Minh Khai, P5, Q3, TP HCM
để trao đổi về tác quyền. Do không có thông tin nên chúng tôi đành phải chọn
cách làm này mà không thể liên hệ trước, rất mong quý vị hoan hỷ và thông
cảm.
NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN
Gợi ý giảng dạy
Bộ giáo trình BÚP SEN HỒNG dành cho các em thiếu
nhi ở tuổi mẫu giáo đến lớp 2, lớp 3, với đặc điểm là
chưa thể đọc và viết nhanh. Vì vậy chúng tôi gợi ý trình tự giảng dạy như sau:
1. Học thuộc lòng:
Giáo viên cho các em học thuộc
lòng ngay tại lớp. Qua kinh nghiệm chúng tôi thấy các em học rất nhanh.
– Đầu tiên, giáo viên đọc từng câu, cho cả lớp
lặp lại. Sau đó, đọc mỗi lần 2 câu, rồi 4 câu... Khi đọc
chung và đọc to như thế, âm điệu sẽ thấm vào lòng dễ
dàng, giúp các em cảm thụ thẩm mỹ tốt hơn.
– Chú ý bảo các em đọc diễn cảm, đặt tấm lòng vào từng câu, từng tình tiết trong bài.
Thí dụ: câu “Em thương từng
cây, em nâng từng lá” thì phải tưởng tượng rằng mình đang lấy
tay nâng niu hoa cỏ bên đường.
Hoặc câu “Tham
lam trộm cắp, mọi
người không ưa” thì phải đổi giọng đi, hoặc lắc đầu minh hoạ.
– Chọn
những em nào có giọng đọc tốt, diễn cảm nhất, cho biểu diễn và trao quà.
2. Tìm hiểu bài:
Đây là một dạng giảng bài bằng
cách cho chính các em tham gia trả lời chứ giáo
viên không “độc thoại” một chiều. Khi các em trả lời có nghĩa là các em đã tự giải quyết những vấn đề bài học vừa nêu, và có thể lồng
vào những ý
riêng của mình, vừa nhớ dai, vừa dễ thương hơn. Thí dụ trong bài
“Khỉ con” kể chuyện khỉ con hái trộm trái cây, khi giáo viên hỏi từng em cho khỉ
ăn quả gì thì mỗi em sẽ trả lời một loại trái khác nhau, tùy theo ý thích
của mỗi em, hoặc tùy theo trong vườn
nhà em đó có trồng cây gì. Như vậy, các em càng thêm gắn bó
với khu vườn.
Đây cũng là cách giúp các em tập ăn nói
dạn dĩ, trôi chảy. Có thể chấp nhận cho các em “cãi” lại giáo viên, xem như một
cách “phản biện”, sau đó giáo viên giải thích, đúc kết lại. Lớp học càng sinh động càng tốt.
Chú ý gọi tất cả thành viên trong lớp phát biểu chứ đừng kêu mãi những em thường xuyên giơ tay.
Chính những em
nhút nhát thì giáo viên càng phải quan tâm giúp cho em dạn dĩ hơn.
3. Vẽ:
Giáo viên sử dụng phần tô màu trong mỗi
bài học để giúp các em làm quen với màu sắc, đường nét đơn giản. Sau đó tập các
em vẽ
những hình mẫu căn bản trước khi có thể vẽ tự do và phức tạp hơn. Nếu sưu
tầm thêm những mẫu tô màu hoặc mẫu vẽ mới thì giáo viên
tự bổ sung vào chương trình.
4. Trò chơi:
Giáo viên có thể sưu tầm và sáng tạo thêm các trò chơi phù hợp với
các em ở từng lứa tuổi.
5. Tập hát:
Tập đến khi các em thuộc bài hát
rồi thì giáo viên cho cả lớp đứng dậy ra sân để múa các động tác minh họa. Cách này cũng
là vận động cơ thể sau thời gian ngồi tại chỗ mệt mỏi. Ngoài ra, giáo
viên có thể dạy thêm các bài hát Phật giáo quen thuộc, hoặc giáo viên tự sưu
tầm, sáng tác thêm.
6. Kiểm tra:
Sau khoảng 3 bài học cho kiểm tra
một lần là vừa, để lâu các em sẽ quên. Rồi sau 5 bài lại kiểm tra
chung lần nữa. Lập sổ điểm để cuối khoá tổng kết phát thưởng.
Bài 1: Em đến chùa
1. Học thuộc lòng: EM ĐẾN
CHÙA
Đường làng nho nhỏ,
Hoa cỏ chen đầy.
Em thương từng cây,
Em nâng từng lá.
Lòng em vui quá,
Em đến thăm chùa,
An tịnh bốn mùa,
Nghe thầy dạy dỗ.
Lạy Phật phù hộ,
Em khoẻ, em ngoan.
Chùa đẹp vô vàn,
Em yêu, em quý.
2. Tìm hiểu bài:
– Tên chùa làng em là gì? Ở xã nào, huyện, tỉnh
nào?
– Chùa em có đẹp không?
– Em có thích đến chùa không?
– mỗi tuần em đến chùa mấy ngày?
– Những ngày khác tại sao không đến?
– Ai dẫn em đi chùa? Ba, mẹ, hay ông bà, hay em tự đi?
– Em đến chùa có thấy vui không?
– Đến chùa, em học được những điều gì?
– Về nhà, em có kể cho cha mẹ nghe không? Cha mẹ em nói thế
nào?
3. Tô
màu: Em đến chùa
Bài 2: BẠN HIỀN
1. Học thuộc lòng: Bạn
hiền
Sáng nay em đến chùa,
Gặp bao nhiêu là bạn.
Em mỉm cười thân thiện,
Chào bạn, chúc tốt lành.
Bạn cũng cười thật xinh,
Cầm tay em đằm thắm.
Ngôi chùa như tổ ấm,
Em và bạn yêu thương.
2. Tìm hiểu bài:
– Về chùa em có được bao nhiêu người bạn?
– Em thân nhất bạn nào?
– Có bạn lớn hơn em không? Có bạn nhỏ hơn em không?
– Em làm quen đi, và em thử kể tên 5 bạn, hoặc 10 bạn em mới quen.
– Em có biết hoàn cảnh của các bạn không?
– Thử kể hoàn cảnh của một bạn nào làm em cảm động nhất. (Ví dụ: mồ côi cha, mồ
côi mẹ, hoặc cha mẹ đi làm xa phải ở với ông bà v.v…)
3. Tô
màu: Đôi bạn
4. Em mấy tuổi thì tô
màu mấy con bướm
Bài 3: ĐỨC PHẬT TỪ
BI
1. Học thuộc
lòng: Đức Phật từ bi
Trong chùa có Phật đẹp thay,
Ngồi tòa sen thắm, miệng hay mỉm cười.
Phật thương tất cả mọi người,
Thương từng con vật, núi đồi, cỏ cây.
Em dù đi đó đi đây,
Cũng về với Phật, tràn đầy kính yêu.
Noi theo gương Phật sớm chiều,
Lòng em cũng nguyện thật nhiều từ bi.
2. Tìm hiểu bài:
– Em có biết Đức Phật lớn nhất thờ trong chánh điện tên gì không?
(Phật Thích Ca Mâu Ni)
– Em có biết thêm Đức Phật nào khác nữa? (Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, Phật Di
Lặc)
– Em có biết Bồ Tát Quán Âm không?
– Khi vào chùa, em nhớ lạy Phật nhé. Lạy 3 lạy, thật tôn kính.
Đứng trước bàn thờ Phật em phải trang nghiêm, không được đùa giỡn, nói bậy, xả
rác.
– Trước khi ngủ, em nhớ niệm Phật. Em niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì sẽ ngủ rất
ngon, không thấy ác mộng. Và khi em niệm Phật thì có một hoa
sen trên cõi trời nở ra để dành cho em. (Giải thích thêm một cách đơn
giản về vãng sanh Tịnh độ với những em có thắc mắc.)
3. Tô
màu: Đức Phật
– Đêm nào em có niệm Phật thì tô
màu một hoa sen. Thử xem trong một tuần em có bao nhiêu đêm niệm Phật? Em tô mỗi hoa một màu khác nhau.
Bài 4: NHỚ ƠN THẦY
1. Học thuộc lòng: Nhớ ơn
thầy
Thầy em bậc chân tu,
Xuất gia theo Đức Phật.
Sớm chiều luôn nghiêm mật,
Chuông mõ với kệ kinh.
Thầy dạy em làm lành,
Thầy khuyên em tránh ác.
Lời thầy êm như hát,
Em ngoan ngỗn vâng lời.
Mai sau em nên người,
Nhớ ơn thầy mãi mãi.
2. Tìm hiểu bài:
– Thầy em pháp hiệu là gì?
– Thầy có hiền không?
– Thầy thường dạy em những gì?
– Em có vâng lời thầy không?
– Em có thương thầy không?
– Thương thầy, em làm gì cho thầy vui lòng? Vào chùa em có giúp thầy việc gì không?
– Gặp thầy bất cứ nơi nào, em nhớ chắp
tay vái chào thật cung kính.
3. Tô
màu: Chư tăng
– Hôm nào em có giúp thầy thì em tô màu vào một ngôi sao.
Bài 5: KINH PHẬT
1. Học thuộc
lòng: Kinh Phật
Bà em mỗi tối tụng kinh,
Dịu dàng lời Phật mấy nghìn năm xưa.
Phật đi thuyết giảng sớm trưa,
Nhọc nhằn biết mấy nắng mưa, núi rừng.
Vì thương
tất cả chúng sanh,
Sợ làm điều ác sẽ thành khổ đau.
Lời vàng của Phật ghi sâu,
Vào trang kinh ấy, nhiệm mầu cho em.
Đọc kinh như suối mát êm,
Làm theo lời Phật, đời thêm nụ cười.
2. Tìm hiểu bài:
– Em có biết quyển kinh không?
– Trong gia đình em có ai tụng kinh không? (Bà, mẹ, anh, chị…)
– Bà hay mẹ tụng kinh gì em biết không?
– Em có hiểu trong kinh viết gì không? Viết lời Phật dạy đấy em ạ.
– Phật dạy gì em có biết không? Phật dạy làm điều tốt, điều
thiện, đừng làm điều xấu, điều ác.
– Bao giờ em biết chữ, em tụng kinh nhé. Nếu rảnh rang thì em tụng mỗi tối, còn
nếu bận bịu thì mỗi tuần em đến chùa tụng kinh vào ngày thứ bảy hoặc chúa nhật.
Mỗi ngày em có thể dành thời gian để xem phim thì tại sao không dành chút thời
gian để tụng kinh?
Chắc là không đến nỗi quá bận bịu đâu em nhỉ!
3. Tô
màu: Quyển kinh
Bài 6: HOA SEN
1. Học thuộc
lòng: Hoa sen
Hoa sen cánh đỏ,
Nho nhỏ xinh xinh.
Thơm ngát ao đình,
Hái về cúng Phật.
Lòng em trong sạch,
Thơm thảo như hoa.
Giữa bùn vươn dậy,
Hào quang sáng lòa.
2. Tìm hiểu bài:
– Em có thấy hoa sen chưa?
– Hoa sen có mấy màu? (trắng, hồng).
Em thích màu nào?
– Hoa sen có thơm không?
– Hoa sen thường mọc ở đâu? (ao, hồ…)
– Em có thấy dưới ao, hồ là bùn không? Bùn sạch hay dơ?
– Bùn dơ, nhưng sao hoa sen lại mọc lên được và lại thơm
như thế? Ý nghĩa là trong hoàn cảnh khó khăn nào em cũng sống tốt đẹp,
thơm
thảo như hoa sen. Em có tin mình sẽ làm được như vậy không?
– Em có hứa với Phật là em nhất định sống tốt đẹp không?
Nếu em hứa thì
Phật sẽ phù hộ cho em đấy.
3. Tô
màu: Hoa sen
Bài 7: BƯỚM VÀNG
1. Học thuộc
lòng: Bướm vàng
Sân chùa có khóm hoa,
Tím hồng khoe sắc lạ.
Con bướm vàng thong thả,
Bay một vòng rong chơi.
Em đứng ngắm mà thôi,
Không bao giờ bắt bướm.
Bướm nhịp nhàng cánh lượn,
Như nói lời cảm ơn.
2. Tìm hiểu bài:
– Vườn chùa hoặc vườn nhà em có hoa
không?
– Em có thấy con gì bay lượn quanh hoa? (ong, bướm...)
– Bướm có màu gì? (rất nhiều màu)
– Em có bắt bướm không? Nếu có, em bắt để làm gì?
– Bướm bị bắt, ép vào vở có chết không? Em có tội nghiệp bướm không?
– Nếu ai bắt em đem ép dẹp lép như vậy, em có sợ không? Vậy em
nhớ đừng bắt bướm nhé. Cứ để bướm bay lượn cho đẹp khu vườn. Cả những con
ong, con chuồn chuồn nữa... Phật dạy chúng ta đừng giết hại các con vật, hãy để
cho chúng sống bình yên.
3. Tô
màu: Bướm và hoa
Bài 8: BÁT CƠM
1. Học thuộc
lòng: Bát cơm
2. Tìm hiểu bài:
– Mỗi ngày em ăn mấy bữa cơm?
Mỗi bữa bao nhiêu chén?
Tổng cộng một ngày bao nhiêu? Một tháng, một năm là bao nhiêu? Eo ơi, nhiều quá!
– Nhưng em có biết để có hạt cơm cho em ăn là rất nhiều công
lao của mọi người đã đổ ra? Này nhé, người nông phu
phải làm gì? (cày
ruộng, gieo mạ, bón phân, rồi cắt lúa, phơi khô... ) Em có
thấy mồ hôi đổ ướt lưng áo người nông dân không?
– Em thấy con trâu làm gì? (kéo cày nặng nhọc, bị la,
bị đánh...). Em có tội nghiệp con trâu không?
– Rồi sau đó mẹ em phải nấu cơm, nấu canh... cho em ăn. Mẹ phải chịu đựng lửa
bếp nóng bức, tay chân mệt mỏi.
– Em làm được gì để đền đáp công ơn đó? Nhỏ tuổi thì em chăm học, ngoan
ngỗn. Lớn lên thì em làm việc thật giỏi, làm từ thiện
giúp đỡ mọi người nữa. Như vậy là em đã sống có ích,
không uổng những hạt cơm đã ăn.
3. Tô
màu: Con trâu
Bài 9: KHỈ CON
1. Học thuộc
lòng: Khỉ con
2. Tìm hiểu bài:
– Khỉ thích ăn gì hở em? À, khỉ thích
ăn trái cây.
– Nhưng khỉ lại hái trộm trái cây, vậy tốt hay xấu?
– Em có bao giờ hái trộm trái cây không? Hoặc lấy món gì đó
của người khác mà không được phép?
– Nếu có lỡ phạm lỗi đó, thì từ nay em chừa bỏ nhé. Phật dạy chúng ta không được
tham lam trộm cắp. Tính thật thà sẽ được mọi người thương mến.
– Tuy nhiên, em cũng phải chú ý giúp bạn khi khó khăn. Thí dụ như chú khỉ này nè. Tại sao chú lại hái trộm trái cây? À, tại vì chú đói. Tại sao khỉ lại đói?
Vì mẹ khỉ đi vắng, không ai cho khỉ ăn. Thật tội nghiệp. Vậy em cho khỉ ăn
một quả gì đó để khỉ no lòng được không? Em A cho quả gì?
Em B cho quả gì? Eo ơi, ngon quá! Khỉ mừng lắm đấy.
Các em ngoan ghê! Chúng ta không chỉ chê trách người khác mà còn phải tìm hiểu
hoàn cảnh để giúp họ trong lúc khó khăn nữa, như thế mới gọi là lòng từ bi, em
nhé!
3. Tô
màu: Con khỉ