Hồ Đinh
Năm 1279 nhà Nam Tống bị Hốt Tất Liệt tiêu diệt.
Cũng từ đó, Hán tộc sống dưới ách nô lệ của ngoại bang ròng rã suốt 80 năm, với
bao đoạn trường máu lệ. Kinh khiếp nhất là trong thời gian này, giới trí
thức Trung Hoa đã bị người Mông khinh miệt, qua câu nói đến nay vẫn còn truyền
tụng : ‘ thứ 8 là đĩ, thứ 9 nho gia, thứ 10 hành khuất’, y chang dưới chế
độ xã nghĩa Trung Cộng, Mao Trạch Đông lúc còn sống, cũng đã từng phỉ nhổ trí
thức và bảo Họ còn thua phân xanh .. ’ . Do chính sách cai
trị tàn bạo và bất công, thiếu nhân tính đó, nên từ năm 1338, giặc giã nổi lên
khắp nơi, chống lại nhà Nguyên. Vào ngày rằm tháng tám, năm Mậu Thân 1368, tướng
của Chu Nguyên Chương là Từ Đạt va Thường Ngộ Xuân, theo kế của quân sư Lưu Bá Ôn, đem mật
linh bỏ vào trong nhưn bánh Trung Thu. Và giữa lúc Vua Nguyên Thuân Tông, cũng
như triều thần và tướng sỉ, thi đua đón trăng giỡn nguyệt, vui say chè rượu và
gái dẹp, thì cũng là lúc người dân trong thành Yên Kinh, theo mật lịnh ghi trong
giấy : ‘ đêm rằm Phật Di Lặc giáng thế, cầm đèn lồng đi rước’.
Nhờ vậy, quân Chu
đã trà trộn và bất thần tấn công chiếm kinh đô. Vua
Nguyên vì ham hưởng Tết Trung Thu, cũng giống như Đường Huyền Tông, mê đắm Dương
Quý Phi và Vũ Khúc Nghê Thường mà mất nước. Cũng kể từ đó, mỗi lần tới
tiết Trung Thu, dù Trăng ở Hô Hào Hạo Đặc và Ngạc Nhĩ Đa Tư, vùng nội Mông rất
to, sáng và có màu xanh như bạch ngọc. Nhưng người Mông sống tại đó cũng như nơi
khác, tuyệt đối không ăn bánh trung thu và đón trăng,
giỡn nguyệt. Thái độ hành xử, không quên nổi nhục mất nước,
khiến cho người ngoại cuộc phải khen thầm và cúi đầu kính phục.
Thật ra tập quán đón trăng vào dịp rằm tháng tám đã có từ thời Trung Hoa huyền
sử, mà Thục Kinh đã nhắc tới , cho thấy vào ngày trăng tròn tháng tám buổi đó,
dân chúng làm cổ, cúng bái đất trời, biểu hiện lòng sùng kính và sự đam mê trăng.
Tuy nhiên phải đợi tới thời nhà Chu, những ý
tưởng trừu tượng trên, mới được rõ nét qua hành động, được ghi lại trong Xuân
Quan-Chu Lể như :
- ‘ Trung Thu Dạ Nghinh Hàn
Trung Thu Hiến Lương Cầu
Và cuối cùng là Thu Phân Bái Nguyêt ‘.
Ngày nay, hơn một thế kỷ qua, sau chuyến bay đầu tiên của anh em Wrighr, nhân
loại đã nối tiếp theo gót vua Đường, dấn thân vào Cung Hằng tận cõi mù sương
quan tái. Cuối cùng mộng đã biến thành thực vào một ngày trăng tháng tám năm
Đinh Dậu 1957, khi Vệ Tinh Spoutnik đầu tiên, tuy chỉ có kích thước to bằng quả
bóng tròn, nhưng đã thành công vượt mứt, khi chụp được những hình ảnh thật, từ
Nguyệt Cung, Sao Chổi và các Thiên Thể trong Thái Dương Hệ, mở đường cho cuộc
chinh phục vũ trụ hiện tại.
Bổng nhớ một mùa trăng nào đó, trở về thăm nhà vào dịp Trung
Thu. Đêm đó, hình như điện đường Phan Thiết và cả đèn đuốc trong nhà đều
tắt hết. Không gian chỉ còn lại những chiếc đèn lồng đủ màu sắc, làm dáng
được treo trước cửa, càng làm tăng thêm hư ảo của đất trời, như chẳng bao giờ có
trong thực tế, mà chỉ lờ mờ nghiêng ngả trong mơ hay qua điệu ru nước mắt. Rồi tiếp theo là những mùa trăng trôi nổi của kiếp lính không bao giờ
có được một mái ấm tình thương, quen lang thang giữa sương khói trăng thu và cái
trầm lắng bất chợt của nổi biệt ly trùng hằng máu lệ. Xa lắm rồi, sao bổng lại
muốn được trở về, cùng em đốt đèn lồng, đón một mùa trung thu quê cũ, để được
như thuở nào:
‘ Cất chén mời trăng về dạ hội
trăng vào trong chén nhảy lung linh
cầm lên toan uống thì trắng biến
đành, bóng cùng ta, uống một mình ‘
Than ôi, hồn xưa nào đây gửi vào trong chén, để níu được trăng thu sáng trọn
canh dài. Hỡi những bạn bè xa cũ, đêm sáng trăng thu có về, xin hãy gởi lại một
chút tình xưa trong chén, dù mùa thu sắp chín nhưng đừng bảo mùa thu không còn,
khi ngoài trời trăng thu đã treo sáng vằng vặc và gió đang lên ngoài kia, làm
ngất ngây thêm hương vị của chén bồ đào, một thời lính trận .
1-TẾT TRÔNG TRĂNG :
+ NGUỒN GỐC :
Năm 6 sau tây lịch, Vương Mãng cướp ngôi Hán Tuyên Đế mới 2 tuổi, rồi tự xưng
làm vua, đổi tên nước là Tân, vơ vét tất cả tài sản của dân chúng thành của
riêng mình và tạo cơ hội cho bọn tham quan ô lại, tham nhũng, bốc lột, gây cảnh
sinh linh đồ thán, làm cho quốc khố trống rỗng và cả nước thêm khổ đói, hờn hận.
Do lòng người ta thán, đã nhất tề hưởng ứng cuộc khởi nghỉa của Lưu Tú, là hậu
duệ của Vua Hán Cảnh Đế, để chống lại Vương Mãng và nhà Tân và rốt cục lật đổ
được chế độ bạo tàn , khôi phục lại được nhà Hán vào năm 23 sau tây lịch. Theo
sử liệu, trong trận Côn Dương thuộc tỉnh Hà Nam, quân Lưu Tú bị giặc vây khổn
trong thành nhiều ngày, tình cảnh rất là nguy khốn. Trong lúc lương thảo đã cạn
kiệt, ngoài lại không binh cứu viện, khiến cho lòng quân xao
động , hoang mang, có thể tan vỡ bất cứ lúc nào. Trước cảnh nguy ngập
trùng trùng, đêm đó lại nhằm ngày rằm tháng tám ,
trăng sáng vằng vặc như ban ngày, Lưu Tú đặt bàn hương án , cầu khẩn Phật Trời
giúp đỡ.. thỉ bỗng dưng binh sĩ trong thành, tìm thấy
khắp nơi nhiều bưởi và khoai môn.. Nhờ đó mà trong thành qua khỏi cơn đói, để
chờ binh cứu viên .
Năm 25 sau TL, Lưu Tú trùng hưng được xã tắc, dời đô từ Hàm Dương (Cam Túc) về
Lạc Dương ( Hà Nam), nên nhà Hán từ đó được gọi là Đông Hán. Cũng năm đó, vào
rằm tháng tám, trước cảnh trăng thu soi sáng vằng vặc như bạch ngọc, Lưu Tú tức
Vua Hán Quang Vũ, làm lễ tạ ơn Trời Phật nhưng vì muốn nhớ lại những vật đã cứu
sống mình và quân sĩ,trong lúc nguy khốn hoạn nạn. Vua đã ban lệnh khắp nước,
dùng hai món ‘ Bưởi ‘ và ‘ Khoai Môn’ , làm vật cúng thần và thưởng trăng thu .
Do trên, có thể nói Tết Trung Thu đã manh nha từ đó. Ngoài ra đời Hán còn có tục
lệ ‘Dưỡng lão - kính lão‘ vào
hai dịp lập thu và trung thu, bằng nghi thức dâng lên bề trên Bánh Bột Gạo Nếp
Hấp Hơi. Đến đời Tấn, người trong nước đã có tục hưởng trăng sáng vào đêm trung thu nhưng chưa được phổ biến rộng rải. Ngày nay căn cứ vào sử
liệu, thì mãi tới đời Vua Đường Huyền Tông tức Duệ Tông hiêu Văn Minh, phong tục
vui Tết Trung Thu, mới chính thức được cả nước công nhận và trở thành một mỹ
tục, chẳng những tại Trung Hoa mà còn được phổ biến khắp vùng Đông Nam Á, tại
những nước theo tam giáo Nho-Lão-Thích và có Cộng Đồng Người Hoa cư ngụ. Cũng
vào đời Đường, đêm Trung Thu đã trở nên lãng mạn và huyễn hoặc, với những câu
chuyện thần thoại rất đáng yêu, thắm đượm nét trữ tình như chuyện Hằng Nga Bôn
Nguyệt, Ngọc Thỏ Đảo Dược nhưng được mến chuộng nhiều nhất, vẫn là điển tích
‘Dương Quý Phi Biến Nguyệt Thần‘ và ‘Đường Minh Hoàng Yêu Thỉnh Nguyệt Cung‘.
Tiếp theo tới đời Bắc Tống mới chính thức công nhận Tết
Trung Thu nhằm đêm Rằm Tháng Tám âm lịch. Ngoài ra các phẩm vật cúng lể, trong
đó cả bánh hay quả phải tròn, còn hoa dâng lên cúng Trời Phật, phải có cánh lệch
như Hoa Sen.. Tất cả không ngoài, lòng mong ước cảnh
đoàn tụ , sẽ do trăng mang tới cho nhân sinh.
+ TRĂNG VỚI TẾT TRUNG THU :
Tết Trung Thu khởi nguồn chỉ là Tết Trông Trăng và là biểu tượng được in-vẽ trên
mặt bánh hay chung quanh các loại đèn lồng.
Xưa nay, trong các nền văn hóa của nhân loại, trăng đã là một
huyền thoại với vô vàn chuyện kể không bao giờ dứt. Nhưng dù thế nào chăng nửa, ngày nay Trăng đã là một cõi thực giống
như địa cầu mà con người đang sinh sống hằng triệu năm qua. Thực tế,
trăng ngoài việc sáng soi trần thế, giúp cho đêm trường bớt cô đơn lạnh lẻo, gây
hứng khởi để các văn nhân mặc khách, phun ngọc nhả châu, tạo thành những áng văn
chương muôn đời bất diệt.. còn giúp ích rất nhiều cho
con người. Theo tạp chí Earth, Moon and Planets số 34 năm 1986, nhà thiên văn
học Jean Paul Parisot, làm việc tại Đài Thiên Văn Bordeaux ( Pháp), cho biết,
chính tác dụng của Trăng làm tan mây, nhờ vậy gây sự hạ nhiệt độ thấp, giúp việc
hòa tan các chất ôxy hóa. Theo ông, không phải trăng làm phai
màu quần áo, mà chính quần áo bị phai màu dưới ánh trăng, nhất là vào những buổi
trăng đầy. Lúc đó, độ sáng biểu kiến tối đa của ánh
trăng , chỉ thua ánh nắng mặt trời có 400.000 lần.
Trong giới hạn của bầu khí quyển, bức xạ mặt trời lá 1370 watt/1m2 trong khi đó
bức cạ của Trăng không quá 3,5mili-watt/1m2.
Sự đối lưu thấp gần địa cầu, chính là nơi quang hóa học, gây hiện tượng oxy hoá
và peroxide hydrogen H2O2.. Tóm lại không phải là vô
cớ, khi có những dược sĩ , đi bán những lọ thuốc, chế bằng ‘ giọt sương ‘ làm trắng
đẹp gương mặt phụ nữ. Loại thuốc thần diệu kia, chính
là các giọt nước lơ lửng trên không. Vào những đêm trăng, chính là lúc xảy ra
hiện tượng hòa tan hữu hiệu nhất, tạo thành các giọt sương đọng trên cành lá cỏ
cây và quần áo phơi ban đêm.
Trong ngành chiêm tinh học và tín ngưỡng thời xưa, mặt trời và
mặt trăng ở gần và tiếp xúc với con người nhiều nhất. Đối với trăng, màu
sắc dù là lúc trăng sáng vằng vặt, cũng luôn đượm vẻ thần bí, khi ẩn, lúc hiện
không bao giờ báo trước. Hình ảnh trên đã gây nên ấn tượng tự chủ, không bị gò
bó ràng buộc, cho nên rất dễ cám dỗ hồn người ,
nhất là đối với giới văn nhân nghệ sĩ, quen cách sống độc lập. Trăng là Thần của
đêm, của thế giới mộng du và hãi hùng , của yêu đương và ly biệt. Bởi vậy các nhà khoa học coi Trăng như nữ giới.
Tuy nhiên trong thời cổ đại, chưa bao giờ thấy có sự đồng thuận về giới tính của
Trăng. Đối với người Syria, Trăng được coi như một Nam Thần., qua danh hiệu
Aglibol cũng như người Mễ, gọi Trăng là Nam Thần Xochiquetzal.
Riêng với người Cổ Hy Lạp và La Mã, thì Trăng trái lại là vị nữ thần duyên dáng
khả ái Selene và Diane.
Tóm lại qua bao thế kỷ, Trăng đã có trên 50 danh hiệu khác
nhau, lúc nam lúc nữ. Riêng người Trung Hoa thì xưng tụng Trăng là Hằng Nga. Nói
chung dù được gọi bằng cách nào chăng nửa, quan niệm chung của nhân loại,
vẫn xép Trăng vào các vị thần, tượng trưng cho hư vô, cô đơn và lạnh lẻo. Theo
Hésiode nhà thơ Hy Lạp thế kỷ XVIII trước tây lịch, thì nữ thần Trăng có tên là
Hécate, ngự trị khắp trời đất, biển cả, mang hình tượng 3 đầu với phép thuật
thần thông quảng đại, chuyên mang điềutốt lành hạnh phúc cho nhân thế.
Trong nhiều huyền thoại, Trăng được các dân tôc ở Tiểu Á Tế Á, đảo Crète, Phi
Châu.. coi
như vị thần sinh đẻ, kéo dài cho tới thế kỷ thứ IV sau tây lịch.
Qua niềm tin trở thành tín ngưỡng, đã trở thành nền móng cho nhiều phong tục tại
Ai Cập, Lưỡng Hà.
Kể từ thế kỷ thứ 3 sau TL, Trăng được nhân cách hóa với bò và sự mang
thai sinh đẻ của người phụ nữ. Do ảnh hưởng trên, trai gái thời đó, yêu
thương, tình tự thường chọn buổi trăng tròn, thời gian mà trên cung hằng thần
tiên mở hội bàn đào đãi yến. Từ đó, danh từ ‘ Tuần
Trăng Mật ( lune de mile) ‘ đã được quốc tế hóa, tới ngày nay vẫn được thông
dụng.
Tóm lại qua những giai đoạn lịch sử thăng trầm, Trăng có lúc được tôn sùng tuyệt
đỉnh, ngự trị tận chốn mê cung , ẩn ức tất cả mọi liên quan tới đời sống của con
người qua mọi lĩnh vực sinh đẻ, di truyền, tài sản, mồ mã..
cho tới thân phận quốc gia dân tộc. Trăng còn ảnh hưởng tới sự cấu tạo
của vật chất ,
mà bạc là kim khí biểu tượng. Nhiều huyền thoại về Trăng kéo
dài, cho tới thế kỷ XIX mới chấm dứt. Ở nông thôn, nhiều người không dám
ra khỏi nhà vào những đêm trăng sáng vằng vặt, vì sợ quỉ ám, ma hai, hút máu,
gây bệnh tật. Ngay đến Hoa Kỳ, có thời gian đã tin là muốn
không sinh đẻ, thì nam nữ nên yêu nhau vào lúc trăng tàn.
Cuối cùng những điều huyễn hoặc về Trăng đã chấm dứt, cùng lúc với cái chết của
nhà thiên văn học Galillé, khi trái đất được chứng minh hình tròn và lúc con
người thật sự bước chân vào cung Hằng. Tuy vậy, dù biển dâu đã trải qua hằng
hằng lớp lóp, tết trung thu vẩn tồn tại.. chẳng
những bây giờ, mà còn viễn miên bất diệt.
+ TRUNG THU THEO ĐƯỜNG MINH HOÀNG DU NGUYỆT ĐIỆN :
Ngày 23-10-2001, con tàu không gian Odyssey của Hoa kỳ, được phóng từ mũi
Canaveral, sau 6 tháng du hành, đã tới được điểm hẹn Hỏa Tinh.
Đây là cuộc phiêu lưu lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 21, cách xa địa cầu
hơn 400 triệu cây số. Thành tựu vĩ đại của khoa học hôm nay, đã khiên cho
chúng ta phải cúi đầu khâm phục , về những tiên đoán
của người xưa, cách nay hơn mấy ngàn năm, qua những điển tích diễm tình về Hằng
Nga-Hậu Nghệ và nhất là chuyện kể sự tích Vua Đường Minh Hoàng, trong đêm trăng
thu, đã du Nguyệt điện.
Trung thu theo luật tuần hoàn của trời đất trong một
năm, được phân định thành bốn thời kỳ xuân phân, hạ chí, thu phân và đông chí.
Tháng tám theo truyền thuyết , là thời gian đẹp nhất
của mùa thu, vì ngày rằm trăng thật to tròn sáng và trong xanh như màu bạch
ngọc. Người Trung Hoa xưa, nhân đó có bày ra Tết trông Trăng, vừa để dự đoán vận
nước và theo thời tiết ,
mà tiên liệu mùa màng của năm tới.. Trong dịp này, các văn nhân tài tử, mặc
khách tao nhân ,
đã mượn trăng làm đề tài, để mà thi thố phun châu nhả ngọc.
Theo Đông phương cổ học, thì Trăng thuộc về thủy, là một trong
những yếu tố quyết định việc nông tang.
Bởi vậy đêm trung thu ngóng trăng qua sắc diện, để quan
sát mà đinh đoạt sự canh tác làm ăn sắp tới. Theo kinh nghiệm, trăng vàng thì
trúng mùa tầm tơ, trăng có màu canh lục, thì đất nước sẽ bị thiên tai, mất mùa. Còn trăng sáng trong, với màu
sa cam, báo hiệu cảnh nước non hạnh phúc.
Trong sách ‘Di văn Lục‘ có ghi chuyện vua Đường Minh Hoàng (713-741), chính là
tác giả của Khúc Nghê Thường Vũ Y. Vào đời Khai Nguyên, trong một đêm Trung Thu,
trước cảnh trăng rằm sáng treo vằng vặt, vua bổng mơ ước được lên chốn cung Hằng
để thưởng ngoạn. Nhân lúc đó bên cạnh có đạo sĩ La Công Viễn
biết phép tiên, ben dùng một giải lụa trắng biến thành cầu vòng, đưa nhà vua tới
tận Nguyệt Điện.
Cũng theo Đường Thư, trong đêm Trung Thu, vua nằm mơ thấy mình lên tận Thiên
Cung và thưởng thức được ‘ Tây Thiên Điệu Khúc’ của đoàn cung nữ chốn Nguyệt
Điện. Lại nhân có Tiết Độ Sứ Tây Lương là Trương Kính Thuật, dâng thêm
khúc hát của Bà La Môn. Vốn là vi vua rất sành điệu cầm, kỳ, âm nhạc, nên
nhập chung hai vũ khúc trên, làm thành một điệu vũ mới ,
mà đến nay vẫn còn lưu truyền. Đó là Nghê Thường Vũ Điệu, tập cho cung nữ , để ngày ngày múa may, giup1 vui cho vua và ái thiếp là
Dương Quý Phi. Cũng tứ đó, nhà vua đam mê tửu sắc, bỏ bê việc nước, gây nên loạn
An Lạc Sơn , trời rung đất chuyển, kéo theo sự suy vi của Đại Đường sau đó.
Liên quan tới Tết Trung Thu, còn có câu chuyện thần thoại về
sự tích hai con vật Thiềm Thừ và Ngọc Thố trên cung Trăng hay là câu chuyện vợ
chồng vua Hậu Nghệ và Hằng Nga với thuốc trường sinh bất lão. Ngoài ra
còn có cây đa vạn niên với chú cuội, được các mục đồng ưa thích qua ca dao, tục
ngữ :
‘ thằng Cuội ngồi gốc cây đa,
bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời
cha còn ăn lúa trên trời
mẹ còn cỡi ngựa đo mời quan viên..’
+ CHUYỆN TÌNH DƯƠNG QUÝ PHI-ĐƯỜNG MINH HOÀNG :
Năm 589 sau TL, nhà Tùy thống nhất Trung Nguyên, kết thúc cuộc nội chiến trên
đất Tàu, kéo dài trên 270 năm, khởi từ nhà Đông Tấn. Nhưng tới năm 618 sau TL,
Tuỳ lại mất vào tay nhà đường. Từ đó, kinh đô Lạc Dương (Hà
Nam), được dời về đất Trường An, tỉnh Thiểm
Tây, nằm về cực bắc nước Tàu.
Nay dù sử sách có nói gì chăng nửa, thì các vị đế vương Tần Thỉ Hoàng, Vũ Hậu,
Khan g Hy, Càng Long.. và nhất là vua Đường Thái Tông
(Lý Thế Dân), vẫn được tôn xưng là một Đại Đế, tài giỏi và kiệt hiệt nhất trong
dòng lịch sử Trung quốc. Ngài trị nước qua chủ truơng ‘ Dân
Quý, nước mạnh từ dân, còn nhà cầm quyền chỉ là đồ bỏ ‘ . Ngài cũng lưu lại nhân
thế, một câu danh ngôn, được ngàn đời truyền tụng : ’Vua ví như thuyền, còn dân là nước.
Thuyền đi nhờ nước nhưng nước cũng có thể làm cho thuyền
chìm’.
Nhờ vậy nước Tàu thời đó rất cực thịnh và hùng mạnh. Song song với sự phát triển
kinh tế, quân sự .. thời
Đường văn chương, thi phú đã đạt tới mức thượng thừa, mà thơ Đường là đỉnh cao ,
trong nền thi ca cổ điển Trung Quốc. Giữa rừng lau lách thi phú, có bốn thi hào
liên quan tới vua Đường Huyền Tông-Dương Quý Phi, nhân vật của Tết Trung Thu và
Vũ Điệu Nghê Thường, mà ai cũng kính phục và mến mộ. Đó là Thi Tiên Lý Bạch
(701-762), Thi Thánh Đổ Phủ (712-770), Giang Châu Tư Mã (Bạch Cư Dị) và Trương
Kế bất tử với bài ‘ Phong Kiều Dạ Bạc’ qua tiếng chuông Hàn Sơn Tự, tại Cô Tô
thành.
DƯƠNG QUÝ PHI là một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc, được lịch sử ghi nhận , ca tụng sắc đẹp như sau :’ thân thế phong mãn, sắc da
mịn màng diễm lệ’. Ngoài ra còn là một người thông minh , giỏi âm luật, đờn ca
xướng hát, nên đã khiến cho vua Đường Minh Hoàng, vốn là một vị minh quân, cuối
cùng cũng phải thân bại danh liệt vì sóng mắt khuynh thành, nghiêng trời lệch
nước của người đẹp. Vẫn theo sử liệu, thì Dương Quý Phi ngoài vẽ đẹp trời cho,
còn biết sử dụng nhiều bí quyết , giữ gín nhan sắc , luôn tuyệt thế vô song, để
vua lúc nào cũng ‘ tam thiên sủng ái tại nhất thân ‘ như Bạch Cư Di đã viết
trong bài ca trường hận.
Mới đây sử sách đã hé lộ bí quyết trên, thì ra nàng rất thích
tắm, nhất là tại suối nước nóng ở Hoa Thạnh Trì.
Vẫn theo Gang Châu Tư Mã, thì nàng mê tắm đến nổi, khi
cung nữ vực dậy, thì thân thể đã mềm yếu đến nỗi không thể đứng dậy được. Thật
ra trong suối nước nóng trên, có chứa rất nhiều nguyên tố thiên nhiên, rất bổ
ích đối với nhan sắc của phụ nữ, nhờ đó mà người đẹp giảm mập
,
khiến cho da thịt mịn màng tăng phần quyến rũ. Nhưng qua các tác phẩm hội họa và
điêu khắc còn lại, cho thấy quan niệm thời Đường coi ‘ Mập’
là đẹp, khác với thời Hán, qua Triệu Phi Yến sắc vóc mãnh mai. Do trên không
ngạc nhiên, khi thấy Dương Quý Phi có sắc vóc phong mãn, tràn đầy nhưng không
vượt quá giới hạn của sự thẩm mỹ.
Ngoài việc thường xuyên tắm ở Hoa Thạnh Trì và ngâm mình ở ao
Hưng Khánh, cùng với vua Huyền Tông. Dương Quý Phi còn xài ‘Hồng Ngọc Mỹ
Dung’, nên về sau được đổi thành ‘ Dương Thái Chân, Hồng Ngọc Cao ‘, được chế
bằng 3 loại dược liệu : hạnh nhân bóc võ, hoạt thạch và khinh phấn. Tất cả được
nghiền nát và chưng cất với một ít xạ hương , hòa với
lòng trắng trứng. Tương truyền, nhờ thứ mỹ phẩm này, mà da mặt của
nàng ,
lúc nào cũng tươi như hoa đào và thắm màu hồng ngọc.
Tên thật là Dương Ngọc Hoàn, nguyên là một phi tầng của hoàng
tử Lý Mạo. Vì có nhan sắc ‘ Nhất Tiếu Khuynh Nhân Thành ‘, nên Đường
Huyền Tông (Lý Long Cơ), đã giựt vợ của con, và phong làm quý phi.
Trước đó nhà vua là một minh quân, chăm lo việc nước. Nhưng từ khi thu
nạp người đẹp, vua chỉ mê đắm trong chốn hoan lạc , chẳng còn lo nghĩ gì tới quốc sự. Triều đình nhà Đường
vì thế ngày càng lụn bại, khắp nơi nhân dân đói khổ lầm than, trong triều thì
gian thần lũng đoạn, không còn ra thể thống gì, vậy mà nhà vua vẫn u mê, không
biết gì ngoài tửu sắc bên người đẹp. Năm 755, một thổ quan tên An Lộc Sơn dấy
loạn, sau khi đánh chiếm Đồng Quan Thiểm Tây), làm cho Tràng An nguy ngập, rối
loạn., khiến cho triều thần phải di giá vua và hoàng tộc, phải bỏ kinh
thành lánh nạn. Khi tới Mã Nguy Pha, thì xảy ra cuộc binh
biến. Tướng sĩ trên dưới đỏi vua phải giết gian tướng Dương Quốc Trung là
anh ruột của quý phi, cũng như người đẹp, thì mới chịu đồng tâm dẹp loạn An Lạc
Sơn.
Cuộc binh biến trên là chuyện có thật trong lịch sử Trung quốc, cũng như đã ghi
Dương Quý Phi, sau khi bị thắt cổ chết, được chôn tại Mã Nguy Pha, thuộc huyện
Hưng Bình, ngoài thành phố Tây An (Trường An) ngày nay. Phần mộ trên hiện còn,
được xây dựng theo kiểu lầu các, trên cửa lăng cao lớn, có khắc ghi 7 đại tự,
của thư pháp gia nổi tiếng Thiệu Lục Tử :’ Đường Dương
Thị Quý Phi Chi Mộ’. Từ đó đến nay, đây là chỗ các danh nhân
tài tử bao đời, lui tới ngâm thơ vịnh nguyệt và hiện giờ làợ một địa điểm du
lịch nổi tiếng của tỉnh Thiểm Tây.
Tuy Đường sử có ghi, Huyền Tông đã cho hai lực sĩ thắt cổ Dương Quý Phi, dưới
gốc cây lê, trong một ngôi chùa tại Mã Nguy Pha và sau này sử sách Trung Hoa,
cũng đều ghi như thế. Nhưng mới đây lại có truyền thuyết, là Dương Quý Phi được
cứu thoát, qua kế ‘ ve sầu thoát xác’. Sở dĩ có chuyện đó
là vì, sau ngày binh biến một năm, vua Đường cho dời mộ Dương Quý Phi, thì không
thấy xác. Chính Bạch Cư Dị, trong ‘ Trường Hận Ca’ cũng đã viết :’ Mã Nguy Pha hạ nê thổ trung,
bất kiến ngọc nhung không tứ xứ.. ’ ’ ’.Việc đó tưởng như chìm vào dỹ vãng, thì
mới đây, vào thập niên 20, có một số học giả, trong đó đáng lưu ý là Du Bình
Bác, đã xác quyết là Dương Quý Phi lúc đó không chết trong cuộc binh biến. Chẳng thế mà bà còn tới được Nhật Bản và lưu lại hậu duệ, trên đất
Phù Tang. Thêm vào đó, là Nam Cung Bắc, trong tác phẩm ‘ Dương Quý Phi’,
cũng viết rằng trong cuộc binh biến tại Mã Nguy Pha, người cầm binh lúc đó là
đại tướng Trần Huyền Lễ, vì thương hương tiếc ngọc, nên không nở sát hại người
đẹp. Chính ông đã cùng với Cao Lực Sĩ, bày mưu , cho
một thị nữ chết thay. Vì Cao là người đẩy xe chôn xác, còn Trần là giám trảm
quan, nên còn ai dám tọc mạch, kiểm soát ?.
Thế là Dương Quý Phi được thủ hạ thân tín của Trần Nguyên Soái, hộ tống tới một
địa điểm, nay là ngoại thành Thượng Hải và dùng thuyền trốn sang lánh nạn tại
Nhật Bổn. Vẩn truyền thuyết trên, còn có học giả người Nhật là Độ Biên Long
Sách, cũng viết trong ‘ Dương Quý Phi Phục Hoạt Bi Sử ‘, lại cho rằng, việc
Dương Quý Phi trốn thoát khỏi Mã Nguy Pha, không có mắc mớ gì tới Trần Huyền Lể
và Cao Lực Sĩ hay kế ve sầu thoát xác nào cả. Tất cả được an bài, do vũ nữ Tạ A
Man và vũ sư Mã Tiến Kỳ. Sau khi thaót thân, Dương quý Phi gặp lai tỳ thiệp họ
Từ, của cháu mình là Dương Tuyên, con Dương Quốc Trung. Nhờ
vậy mới quen được một kiếm khách Nhật Bổn tên Fujiwra Satsuo. Người này
mê say Dương Quý Phi, nên đem bà về Nhật Bổn và câu chuyện hạ màn. Nhưng mới đây
vào năm 1963, Dương Quý Phi bổng dựng mồ sống lại, khi có một thiếu nữ biểu diễn
trên truyền hình Nhật, tự giới thiệu mình là hậu duệ của quy phi họ Dương. Kế
đó, minh tinh màn bạc Nhật nổi tiếng là Yamaguchi Momoe, cũng tự nhận như thế.
Ngoài ra tại Nhật Bổn, hiện nay vẫn còn , nhiều di tích liên quan tới Dương Quý
Phi, như phần mộ của bà ở tháp Ngủ Luân, thuộc Cửu Tân, Huyện Sơn Khâu. Cũng ở
đây, trong Nhị Tôn Viện, có thờ hai pho tượng Phật Thích Ca và Quan Thế Âm, được
biết là của Huyền Tông đã tặng cho Dương Quý Phi. Ngoài ra ở ngoại ô Cai Sơn (Nhật Bổn), còn có một phần mộ khác, củng
nói là của Dương Quý Phi. Tóm lại, qua cuộc bể dâu trầm
thống, hương hồn và ngọc cốt của tuyệt thế giai nhân, hiện ở đâu.
Điều này chắc chỉ có nàng mới hiểu, còn nhân thế biết đâu mà mò.
2-TẾT TRUNG THU ĐỐT ĐÈN LỒNG, THEO EM VỀ TÌM TRĂNG QUÊ CŨ :
Tới nay, lễ hội Tết Trung Thu, đã hiện hữu với nhân sinh hơn ngàn tuổi nhưng vì
là một mỹ tục, nên đã không bị thời gian đào thải, trái lại càng lúc càng được
nhiều ưa thích, nhất là giới trẻ. Sự phồn thực của lễ hội trên, làm phát triển
nhiều nền công nghiệp liên hệ như làm đầu lân, sư tử, rồng, các đồ chơi của trẻ
con mà quan trọng nhất là các kiểu đèn lồng, đèn kéo quân và loại đèn tạ treo
trong nhà, cũng như các loại bánh trung thu, dùng trong việc tế lễ và thưởng
trăng.
Tại VN, sau Tết Trung Nguyen là Trung Thu rất được trẻ con ưu thích. Trong dịp
lễ này, ngoài chơi lồng đèn, ăn bánh và thưởng thức múa lân, múa rồng, bọn chúng
còn có nhiều đồ chơi làm bằng thiếc như con bướm cánh xòe, con thỏ gõ trống leng
keng, chiếc xe đạp bằng sắt nặng trịch nhưng hấp dẫn nhất vẫn là cái tàu thủy có
gắn dây thiều, sau khi đốt đèn cầy, bỏ vào hồ nước, có thể chạy được một thời
ngắn mới ngừng.
Nhưng nói tới Trung Thu là phải nói tới Bánh, mà xưa nay tại Hà Nội, việc buôn
bán vẫn chia phân rành rẽ : phố Hàng Ngang bán bánh Trung Thu của người Việt
làm, trái lại những loại bánh mang nhãn hiệu Đông Phương Viên, Mỹ Kính của người
Tàu, được bày bán tại phố Hàng Buồm.
Theo tài liệu ghi trong ‘ Đế Kinh Cảnh Vật Lược ‘ , cho
biết người xưa vui tết trung thu , ngoài bánh, còn có vịt tần, lợn quay, uống
rượu hoa quế ướp lạnh và ăn bưởi. Riêng bánh trung thu thời xưa rất cầu kỳ, hình
tròn, trên mặt luôn có in các hình Hằng Nga, Ngọc Thố. Ngoài ra bánh phải làm
cho cứng, để bảo quản qua thời gian lâu dài cũng như thể hiện đầy đủ ý nghĩa bền
vững hạnh phúc như sự bền cứng của chiếc bánh. Qua những thăng trầm lịch sử,
theo thời gian, chiếc bánh hiện hữu ngày nay, cũng được mang nhiều danh
hiệu khác nhau như bánh trăng, bánh Hồ, bánh nhỏ, bánh đoan viên. Phát xuất từ
vùng Triết Giang, ngay từ thời Ân-Chu mà truyền thuyết nói là dân chúng địa
phương đã làm , để kỷ niệm Thái Sư Văn Trọng , người nấm quyền thời vua Trụ
Vương. Thời Tây Hán, nhân sứ thần Trương Thiên đi Tây Vực về, có mang theo các
loại hạt mè, hồ đào, dưa hấu. Chính những thứ hạt này, từ đó được người Trung
Hoa dùng làm nguyên liệu chính, để làm bánh trung thu, nên được gọi là bánh Hồ.
Thời vua Huyền Tông nhà Đường, trong một đêm rằm tháng tám, vua và Dương Quý
Phi, ăn bánh thưởng trăng. Nhân đó nhà vua đã bỏ tên bánh Hồ, và gọi là bánh
Trung Thu ( bánh
nguyệt). Tên này thịnh hành cho tới ngày nay. Đời nhà
Tống, tuy việc ăn bánh trung thu khá thịnh hành nhưng cũng chỉ phổ biến trong
hàng quan lại, thượng lưu giàu sang quý tộc và là đề tài để cho các văn thi gia
sáng tác, nhất là vào dịp trăng thu. Ngày nay bánh chẳng những
thịnh hành trong xã hội nước Tàu, mà còn tại các nước Đông Nam Á và những nơi có
Hoa kiều cư ngụ.
Hiện có 5 loại bánh trung thu. Sự phân loại có thể hoặc
căn cứ vào vỏ bánh và nhưn hay theo địa phương sản
xuất. Tóm lại ngày nay Trung Cộng có nhiều nơi sản xuất bánh trung thu nhưng nổi
tiếng nhất, vẫn là bánh Bắc Kinh, Thiên Tân, Tô Châu, Triều Châu và Quảng Đông.
Bánh chay có võ và nhưn làm bằng dầu thực vật, đậu và trái cây.rất nổi tiếng tại
Bắc Kinh và Thiên Tân. Bánh mặn Quảng Đông dầu ít nên ngọt hơn bánh Triều Châu cũng nhiều
võ dầu nhiều lớp, kể cả nhưng cũng cũng có chất dầu.
Riêng bánh Tô Châu thì đặc biệt chú trọng tới mùi vị, từ võ tới nhưn.
Ngoài ra , còn có loại bánh làm tại Vân Nam, Ninh Ba, Thượng Hải, Hạ Môn, Phúc
Châu.. tuy chế tạo tại địa phương nhưng hương vị cũng gần giống như 5 loại bánh
trên, đặc biệt hơn là bánh ngủ nhân của Phúc Châu, bánh trung thu có võ trong
của Tây An,bánh nhưn mè đen Dương Châu.. Riêng các loại bánh Trung Thu bày bán
tại VN hay các nước Đông Nam Á, đều làm theo kiểu Quảng Đông hay Triều Châu và
có khuynh hướng dùng dầu thực vật hay mỡ bò thay mỡ heo và các loại nhưn trái
cây đủ loại, cùng kỹ thuật nướng bánh.. khiến cho mọi
người thêm ưa thích.
Đêm Trung Thu , trẻ con nhà nghèo không có tiền mua
dèn lồng hay đồ chơi thì rủ nhau đi xem múa lân, rồng hay sư tử. Trong cuộc vui
này nếu các con vật kia, qua quan niêm là mang sự may mắn tới cho mọi người, thì
hình ảnh của Ông Địa, với nụ cười toe toét, làm cho lân thêm oai nghi hùng liệt,
có tác dụng làm tiêu tan hết những phiền lụy cuộc đời. Cũng chính lý do này, mà
người đời đã thờ ông Địa , để cầu mong được hạnh phúc,
may mắn.
Riêng rồng là linh vật được nhiều nước trên thế giới sùng bái
,
nhất là người cổ Trung Hoa. Đối với dân tộc VN, rồng là vật
tổ.
Người ta tôn rồng là vật linh thiêng ,
thần kỳ mà nghiêm trang, là chỗ dựa để người đời cầu khẩn, xin phước, bảo đảm
mùa màng. Vì vậy trong đêm trung thu, múa rồng được xem như là một nghi thức tôn giáo, một
điệu múa dân gian, lưu hành khắp xứ và tồn tại tới ngày nay. Vì mang tính chất
truyền thống, nên các tiết mục về múa rồng cũng rất phong phú và đa
dạng . Riêng tại Trung Quốc, chỉ tỉnh Triết Giang cũng đã có nhiều hội
múa rồng . Điều này cũng dễ hiểu ,
vì vùng này chính là cội nguồn của Bách Việt, quê hương của những dân tộc sống
nơi sông rach, biển sóng, sông hồ. Do trên vật tổ của họ là thần
rồng , cá sấu. Bởi vậy, dù nay con vật chỉ làm bằng giấy hay vải nhưng
người múa, trong một tâm hồn phóng khoáng, đã làm cho con vật trừu tượng , trở
nên uy vũ, toát lên cái hào khí sung mãn của một giống dân bách chiến, từng làm
cho Hán tộc lao đao nể sợ. Tóm lại cho dù loại rồng làm bằng thứ gì, vải hay
giấy, thì thân rồng cũng phải đan bằng tre, ở suốt phần mình rồng, rồi bọc giấy
hay lụa mỏng , phía trên có gắn vảy lấp lánh. Phía
trong có gắn đèn, khi múa thắp sáng. Đặc biệt mình rồng có nhiều bộ phận có thể
tháo rời , để rút ngắn hay thêm dài, tùy theo vị trí cần thiết khi
biểu diễn nhưng không vì thế mà làm cho rồng mất đi cái uy vũ , linh hoạt dưới
bóng đèn. Múa rồng dù ở đâu, cũng không ngoài 12 thế căn bản như Bàn Long,
Ngưỡng Long, Trảo Dương, Thoát Thủ.. và thuyết diệu nhất , vẫn là Bách
Khiếu Long. Trong thế này, con rồng có chiều dài tới 500m, chẳng khác gì một con
giao long, nhe nanh múa vút, bay lượn trên tầng trời . Cuối cùng rồng thu gọn thành một tầng hoa sen chín
cánh, hiền khô như bóng Phật.
Bên cạnh giúp vui còn có Lân , mà nghề múa cũng thật công phu , chẳng những về
kỹ thuật, mà còn pha trộn công phu võ nghệ và nhất là điệu trống lân của VN,
biểu hiên một sự kết hợp toàn hảo giữa truyền thống Trung Hoa, ngón chầu VN và
tiếng trống Jazz Âu Mỹ.
Trong đêm Trung Thu , khắp nơi mở hội hoa đăng, đèn thắp như sao sa, trên trời
là trăng, dưới đất là đèn đủ loại, từ nhỏ như đèn sao, cá, bướm.. cho tới đèn kéo quân, quả tạ, cái nào cũng rực rỡ, xinh đẹp.
Tại VN, xưa nay chỉ có hai thành phố Hội An và Sài Gòn là nổi tiếng khắp nước ,
về thủ công nghệ làm đèn lồng trang trí và các loại đèn giấy, dùng trong ngày
tết Trung Thu. Hội An là một thành phố cổ kính còn sót lại ở miền Trung, nằm
trên cửa sông Thu Bồn, từ lâu đời đã là một hải cảng quốc tế nổi tiếng của Đàng
Trong,vào thế kỷ 16-17. Ngày nay nhắc tới phố cổ, ôn lại những quá khứ huy
hoàng , người ta lại đi quanh quẩn tìm đếm những chiếc lồng đèn quả tạ ,
treo trước hành lang hay cổng nhà cổ kính của các dòng họ lớn Châu, La, Thái.. là những người Minh Hương gốc Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng
Đông, Hải Nam .. ngụ lâu đới tại đây. Theo Văn Công Lý, một người làm nghề thợ
mã địa phương, cho biết tổ của ngành làm đèn lồng ở Hội An,
chính là Xã Đường, cũng là nhà nho, họa sĩ, chuyên vẽ cành lá, hoa hòe và các
chữ viết trên mặt đèn. Lại này rất quý, nên thời xưa chỉ được treo tại các dinh thự quan
lại hay là các nhà quyền quý mà thôi. Ngày nay đèn lồng
, đã trở thành một vật trang trí bình dân khắp mọi nhà trong phố cổ. Tóm
lại tại Hội An, việc sản xuất đèn lồng chẳng những là một công nghiêp, mà còn là
một đặc sản của đia phương, mà không một nơi nào sánh kịp về kiểu dáng, vải bọc
toàn là lụa Hà Đông nổi tiếng, làm cho ánh sáng thêm huyền ảo mông lung. Đêm Trung Thu tại phố cổ, văng vẳng khắp nơi là những tiếng khoan hò
đối đáp, những hàng đèn lồng lợp lụa, của các em nhỏ, nhấp nhô trong các khu phố
heo hút. Đâu đó trước mái hiên, là hình ảnh các cụ già , mặc áo, chit khăn đóng, ngối uống trà, đánh cờ, ngâm
thơ dưới bóng sáng đèn lồng. Trong nhà, qua các lớp ngói âm dương, bóng trăng
thu vằng vặc trên trời cao, được rọi khắp các sân rêu cổ kính. Tóm lại đêm Trung Thu ở đây, đèn thay trăng khắp nơi khắp chốn, nên
muốn tìm bóng trăng soi, thì thật là khó vô cùng.
Nguồn: Vietbao