Chúng ta đã biết đến Ba loại tịnh nghiệp, Ba môn học (Tam vô lậu học), Sáu
nguyên tắc hòa kính, bây giờ làm sao để ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày
khi đối xử với mọi người trong công việc? Để giải quyết điều nầy, Đức Phật dạy
cho ta pháp Lục độ ba-la-mật. Gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, bát-nhã. Nếu chúng ta thực hành những công hạnh nầy suốt từ sáng khi vừa
thức giấc, đánh răng rửa mặt cho đến khi đi ngủ, thì chúng ta mới là người tu
tập chân chính.
hình minh họa:
Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng pháp tại Melbourne ngày 13-6-
a.Bố thí tài sản (Tài thí)
Thông thường, người đời chủ yếu truy cầu tài sản như là mục tiêu cao nhất, vì
không có tài sản, cuộc sống sẽ rất khó khăn. Sau đó, họ mưu cầu danh vọng và tri
thức, sức khỏe và sống lâu. Bất luận họ ở phương Đông hay phương Tây, là người
sống thời quá khứ hay hiện nay, đây vẫn là những mục đích truy cầu của con người.
Liệu Phật pháp có đáp ứng trọn vẹn được ước nguyện, mong cầu ấy của con người
không? Chúng ta thường nghe nói rằng, ‘Phật tự trong tâm, có cầu tất được đáp
ứng–Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng.’ Thế tại sao có nhiều người
không đạt được những gì họ mong cầu? Vì họ không hiểu được thực tướng của nhân
sinh vũ trụ và không biết được phương pháp đúng đắn để thành tựu ước nguyện của
mình. Nếu chúng ta biết được phương pháp đúng đắn nầy và hiểu được thực tướng
của nhân sinh vũ trụ thì ước nguyện chúng ta sẽ thành tựu.
Đức Phật dạy rằng tài sản, trí huệ, sức khỏe, sống lâu đều là thuộc về quả báo.
Nếu chúng ta muốn đạt được kết quả nầy, thì trước tiên chúng ta phải gieo trồng
và nuôi dưỡng cái nhân. Nhân tốt sinh ra quả tốt, nhân xấu sẽ có quả xấu. Nơi
nào có nhân thì nơi ấy có quả. Ở đâu có quả thì ở đó có nhân. Đây là luật bất di
bất dịch, và là định luật bao trùm tất cả các luật khác trong vũ trụ tương quan.
Hãy xem một người nào đó rất giàu. Tại sao có điều ấy? Chẳng phải do người ấy
thông minh khác thường hoặc có ý tưởng rất hay làm ra tiền. Có rất nhiều người
thông minh hơn và có ý tưởng độc đáo hơn, tại sao họ lại không thành công? Đức
Phật dạy rằng tài sản là nghiệp quả được tạo ra do đã gieo nhân trong những kiếp
trước. Nhân nầy như thế nào? Là nhờ bố thí tài sản.
Bố thí tài sản sẽ được quả báo giàu có, bố thí giáo lý sẽ được quả báo trí huệ,
bố thí sự không sợ hãi (vô úy) sẽ được quả báo khỏe mạnh và sống lâu. Do vậy,
nếu chúng ta muốn có tài sản, trí huệ, sức khỏe, sống lâu thì phải cần gieo
trồng và nuôi dưỡng cái nhân ngay trong đời nầy. Chỉ có một ít người chưa đạt
được quả báo do họ đã gieo nhân trong vài năm trước. Bất luận yếu tố thời gian,
chúng ta phải gieo trồng nhân để có được quả. Đây là Luật nhân quả. Luật nầy
không bao giờ thay đổi.
Bố thí là điều kiện thiết yếu để tu tập hạnh Bồ-tát. Nếu chúng ta có thể tổng
kết các pháp môn tu tập Phật pháp, chúng ta sẽ thấy pháp môn nào cũng tương ưng
với Lục độ ba-la-mật cả. Còn nếu chúng ta cô đúc Lục độ ba-la-mật lại, chúng ta
sẽ thấy cốt tủy là Bố thí ba-la-mật. Một trong những loại để bố thí là tài sản.
Khi nhiều người nghe vậy, họ cứ nghĩ là đem tiền đi cúng dường các chùa viện,
hoặc đạo tràng. Thật là sai lầm vì suy nghĩ như thế thì quá cạn và quá xa với
tinh thần của Bồ-tát đạo.
Luôn luôn nghĩ đến sự lợi lạc của người khác là một cách bố thí tài sản. Như thế
nên mọi người đều có thể thực hành bố thí theo cách nầy, và chúng ta đang là
những vị Bồ-tát. Chúng ta không để ý đến đó thôi! Chẳng hạn, khi thức dậy vào
buổi sáng và chuẩn bị bữa điểm tâm cho mọi người, là chúng ta đang thực hành tâm
từ và chính mình là Bồ-tát Phổ Hiền. Khi làm việc nầy chúng ta thấy mình được
vui. Theo cách nầy chúng ta không bận tâm; ‘Thât khổ cho tôi!’ Gia đình xem tôi
như đầy tớ, tôi phải hầu hạ họ suốt ngày!’ Nếu chúng ta cứ than van như vậy mãi,
mọi duyên lành đáng ra được hưởng sẽ tiêu tan mất. Nhưng khi không than van nữa
mà chuyển sang tinh thần bố thí ba-la-mật thì ngay đó chúng ta sẽ hưởng được
niềm vui của lợi lạc hiểu biết.
Như người làm thuê lao nhọc suốt ngày để kiếm càng nhiều tiền càng tốt hoặc mong
được thăng chức thì đó không phải là thực hành bố thí. Tuy nhiên, nếu người ấy
làm việc tận tâm vì mong đem lợi ích đến cho mọi người trong công ty và xã hội,
không vì mong kiếm được tiền hay khen thưởng, thì người ấy đang thực hành bố thí
và sẽ không bao giờ thấy mệt. Chính tôi cũng vậy, vui vẻ đi khắp nơi để giúp cho
mọi người ai có duyên thì hiểu được Phật pháp, theo cách đó, tôi cũng đang thực
hành bố thí pháp. Tôi giúp cho mọi người biết cách tốt hơn để thay đổi cuộc sống
mình được tốt đẹp hơn theo hướng chuyển hóa dần những phiền não, đạt được trí
huệ và an lạc để dẫn đến cuộc đời tươi sáng hơn.
Năm 1984, tôi có chuyến đi đến Los Angeles để giảng pháp. Tôi đi một mạch từ
phi trường đến hội trường và giảng suốt trong vòng 9 tiếng đồng hồ. Tôi đứng
giảng trong khi thính chúng ngồi nghe. Nhưng cuối cùng, người nghe mệt chớ không
phải tôi. Càng giảng, tôi càng cảm thấy mình như được tiếp truyền sinh lực và
nói càng mạnh hơn, Sao vậy? Vì tôi rất nhiệt tâm muốn truyền dạy đạo lý sâu mầu
của Đức Phật đến cho mọi người. Đây là niềm vui khi giảng giải Phật pháp, và nói
thật, đó là dưỡng chất. Ngày nay, người ta nói nhiều về thực phẩm có lợi có sức
khỏe. Nhưng đó là thứ dưỡng chất hư vọng. Phật pháp dạy cách giữ cho thân tâm
thanh tịnh. Được như vậy, sẽ có được niềm vui khiến mình an lạc khỏe mạnh và trẻ
trung. Phiền muộn sẽ làm cho chúng ta già nua và bệnh hoạn.
Ở Hoa
Kỳ, có một số hội đoàn thực hành từ thiện. Một số người lại mua bảo hiểm y tế đề
phòng tai họa hay bệnh tật. Thật ra, làm như thế là chuẩn bị cho một khả năng
bệnh duyên sẽ đến, khi mỗi tháng ta phải đóng trước tiền bảo hiểm, thế là chúng
ta bị ràng buộc (về mặt tâm lý) là sẽ trở nên bệnh. Nếu không làm chuyện đó thì
cũng tiêu phí tiền vào việc khác. Nhưng nếu ta thay đổi cách nghĩ,
tiền ấy sẽ giúp cho những người đang bệnh, thì chúng ta đang thực hành bố thí và
chúng ta sẽ không bao giờ bị bệnh. Sao vậy? Vì chúng ta phát khởi tâm không bệnh.
Nếu chúng ta giúp đỡ và chăm sóc người già cả, thì chúng ta sẽ có quả báo tốt
đẹp trong tương lai. Khi chúng ta già, sẽ có người chăm sóc chúng ta lại.
Ngày
nay, ai cũng mua bảo hiểm xe hơi. Nếu chúng ta nghĩ rằng thay vì mua bảo hiểm,
ta dùng tiền ấy để giúp cho những người bị tai nạn xe hơi thì chúng ta sẽ không
bao giờ gặp phải bất hạnh ấy. Vì sao? Vì chúng ta đã bố thí tài sản và lòng từ
bi. Thế nên, chúng ta là một vị Bồ-tát hay là kẻ phàm phu là do suy nghĩ của
chúng ta. Khác nhau điều gì? Bồ-tát đã giác ngộ và luôn luôn làm mọi điều vì lợi
ích cho mọi người, trong khi người phàm phu thì luôn luôn làm những gì có lợi
cho chính mình. Khi chúng ta làm điều gì vì lợi lạc cho người, chúng ta sẽ được
những lợi ích khó tưởng tượng được. Cách bố thí nầy nhiều vô cùng và ta có thể
thực hành bất cứ lúc nào, và bất cứ cách nào.
Theo
Phật pháp, bố thí tài sản gồm bố thí nội tài và bố thí ngoại tài. Ngoại tài là
những tài sản thuộc sở hữu của mình, còn nội tài là thân thể mình. Chẳng hạn,
hiến tặng các cơ quan nội tạng hay từng phần thân thể mình cho người bệnh. Nếu
chúng ta có ý nguyện giúp cho người khác mà không mong cầu tiền bạc hoặc sự đền
đáp thì đó là bố thí nội tài. Chúng ta đều có thể thực hành
bố thí nội tài trong bất kỳ lúc nào.
Chúng
ta đã thấy rõ tiêu chuẩn thiện ác trong Phật pháp, mọi việc làm xuất phát từ tâm
nguyện lợi lạc cho mọi người là thiện và mọi việc làm xuất phát từ lòng ích kỷ
là xấu. Điều nầy có thể người mới phát tâm khó thực hành. Tại sao chúng ta lại
không nên làm chỉ vì lợi lạc cho riêng mình? Vì hàng phàm phu khó thành Phật là
do hai thứ chướng ngại chấp trước là ngã chấp và pháp chấp. Khi
không còn ngã chấp, ta chứng được quả vị A-la-hán. Khi không còn pháp chấp, ta
chứng được quả vị Phật. Nếu trong mỗi niệm, chúng ta đều mong làm lợi ích cho
mình, thì ngã chấp càng ngày sẽ lớn mạnh. Với sự ích kỷ, ngay cả khi ta trồng
được vài căn lành, thì chỉ làm lớn mạnh thêm chấp trước mà thôi; còn nếu làm
được ít việc lành, thì sẽ giảm được dần sự chấp trước. Đức Phật dạy rằng nếu
muốn vượt thoát luân hồi sinh tử thì nhất thiết phải trừ sạch ngã chấp và pháp
chấp. Ngã chấp là phiền não làm cho tâm không được thanh tịnh. Pháp chấp là
phiền não ngăn che không phát khởi được trí huệ chân thật.
b.Bố thí sự hiểu biết (Pháp thí)
Dạng bố thí nầy sẽ đưa đến quả báo trí huệ và thông minh. Nói chung, bố thí nầy
có hai trường hợp: Phật pháp và pháp thế gian. Nhiệt tâm chia xẻ tri thức hiểu
biết cho mọi người, những người hiếu học, đó là Bố thí sự hiểu biết (Pháp thí).
Không chỉ giới hạn trong giáo lý Phật pháp, chẳng hạn như dạy cho người khác kỹ
thuật, cách nấu ăn...Đều là cách chia xẻ không điều kiện những kiến thức hiểu
biết trong mọi lĩnh vực. Vị thầy dạy học với nhiệt tâm giúp đỡ mọi người chính
là đang thực hành pháp thí. Còn người dạy chỉ mong kiếm tiền và uy tín thì không
phải. Người chân chính thực hành pháp thí thì rất nhiệt tâm và không bao giờ
thấy mỏi mệt với việc nầy. Khi chúng ta làm việc gì vì lợi ích cho riêng mình,
chúng ta sẽ bị thất vọng khi không có ai khen tặng hoặc không thấy được lợi lạc
thêm điều gì, như vậy nên chúng ta thường đánh mất nhiệt tình. Ngược lại, Bồ-tát
luôn luôn làm vì lợi ích cho chúng sinh và không bao giờ vướng bận vào bất kỳ
điều kiện nào khi bố thí.
Trong
Kinh Vô lượng thọ, Đức Phật dạy rằng trong tất cả các loại bố thí, thì
pháp thí là lớn hơn cả. Học thức thế gian không giúp giải quyết được mọi vấn đề
trọng yếu. Phật pháp là nền giáo dục viên mãn có thể giúp ta đạt được công đức,
trí huệ vô biên khiến thoát khỏi phiền não, ra khỏi luân hồi sinh tử, rốt ráo
đạt được Phật quả. Bố thí nầy rất viên mãn, chỉ có trong truyền thống Phật giáo
Đại thừa. Tất cả chư Phật đều tán thán việc bố thí nầy. Hình thức bố thí pháp
thông dụng nhất là kinh sách, băng giảng, dĩa CD, cũng như nhận lời giảng dạy
Phật pháp, đều là tạo cơ hội cho mọi người được học hỏi Phật pháp.
Tuy nhiên, hiện nay đang lưu hành nhiều kinh sách Phật giáo được in ấn với luật
bản quyền. Những ấn phẩm nầy không phải là hình thức pháp thí mà là vì mục đích
thương mãi. Có một số Pháp sư, khi mời giảng, đã hỏi sẽ được trả bao nhiêu. Đây
không phải là pháp thí chân thật. Bổn nguyện của Bồ-tát là vì lợi ích cho chúng
sinh, chứ không phải cho mình. Nếu có một chúng sinh thực lòng muốn học Phật
pháp, thì Bồ-tát chân thật sẽ đến và giúp cho họ được toại nguyện. Họ sẽ không
bao giờ làm điều gì khó khăn cho bất kỳ ai muốn học, miễn là người ấy thực sự
đạt được lợi ích khi học Phật.
3. Bố thí sự không sợ hãi (Vô úy thí)
Sự bố thí nầy liên quan đến ý nghĩa rất rộng vì nó giúp giải trừ cho mọi người
sự sợ hãi và thiếu tự tin. Chẳng hạn, nếu ngoại bang xâm chiếm nước ta, chúng ta
phải gia nhập quân đội để bảo vệ tổ quốc, để cho người ở hậu phương an cư lạc
nghiệp, đó cũng là hình thức vô úy thí. Nếu có người ban đêm sợ về nhà một mình,
chúng ta đưa họ về. Ăn chay là một điển hình của vô úy thí, vì nếu chúng ta đều
ăn chay cả thì mọi chúng sinh không còn xem chúng ta là nỗi đe dọa của họ. Mọi
hành vi giúp cho mọi loài chúng sinh cảm thấy an tâm và tin cậy thì đó là vô úy
thí. Nếu chúng ta thực hành một cách toàn vẹn, thì chắc chắn sẽ hưởng được sức
khỏe và sống lâu.
Vua Càn Long của nhà Thanh là người có được cả trí huệ, khỏe mạnh và sống lâu,
‘Quý thay thiên tử, phước trùm bốn biển–Quý vi thiên tử, phước hữu tứ hải.’
Ông làm vua 60 năm sau đó nhường ngôi cho con và làm Thái Thượng Hoàng trong 4
năm nữa mới mất. Sở dĩ ông có được phước báo nầy là do trong những đời trước ông
đã tu tập tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Đức Phật dạy hàng Bồ-tát phải tu tập bố thí ba-la-mật. Ba-la-mật có nghĩa là
thành tựu viên mãn. Vấn đề là làm sao để chúng ta thực hành bố thí đến thành tựu
viên mãn? Chỉ bằng cách rất đơn giản là thay đổi suy nghĩ, không còn lo cho mình
nữa mà vì mọi người. Theo cách nầy, chúng ta có thể tu tập bố thí trong bất kỳ
lúc nào, bất kỳ ở đâu. Nhưng chúng ta vẫn chưa đạt đến bố thí ba-la-mật được. Bố
thí ba-la-mật là phóng xả, dâng tặng tất cả những gì sở hữu của mình để giúp đỡ
mọi người. Cho và nhận là một. Nếu chúng ta không thực hành Bố thí ba-la-mật thì
chúng ta không bao giờ nhận được điều gì cả. Khi bố thí ít, thì nhận được ít.
Khi bố thí nhiều, thì nhận được nhiều. Quý vị có sợ hãi, âu lo không? Quý vị có
bị luân hồi sinh tử không? Tại sao quý vị không muốn tống khứ những thứ ấy đi?
Bố thí ba-la-mật là cắt đứt những thứ nầy để đạt được Đại viên mãn và Đại tự
tại. Đây là sự thành tựu rốt ráo nhất, nên được gọi là Bố thí ba-la-mật.
Chúng ta sẽ bắt đầu với việc bố thí các tài sản vật chất mình có và dần dần xả
bỏ những thứ khác. Nếu có thể cắt đứt mọi phiền não, luân hồi sinh tử có nghĩa
là chúng ta đã khôi phục lại được năng lực thanh tịnh giác ngộ sáng suốt trong
tự tánh của mình.
Ba-la-mật thứ hai là Trì giới, có nghĩa là tuân thủ đúng theo giới luật và các
phong tục, luật lệ, tập quán ở địa phương nơi mình cư ngụ. Mọi việc dù lớn hay
nhỏ, dù thế gian hay xuất thế gian, đều có luật tắc tự nhiên của nó. Chúng ta
cần phải làm đúng, vì như vậy chúng ta mới hoàn thành công việc mà ta đã phát
nguyện. Chẳng hạn như quy củ nề nếp trong gia đình. Luân thường đạo lý là mối
quan hệ giữa cha con, vợ chồng, anh em. Có lớn nhỏ, có trật tự tự nhiên, không
được điên đảo. Nếu không giữ được vậy, tức là gia đình rối loạn, cha không ra
cha, con không ra con. Cũng như khi nấu cơm, ta phải vo gạo, đổ vào nồi, rồi bắt
lên bếp, không theo tuần tự như vậy thì cơm không chín được.
Điều nầy càng đúng cho việc tu học Phật pháp. Nếu muốn thành tựu, chúng ta phải
theo sự hướng dẫn của Đức Phật, thực hiện Bốn lời nguyện lớn của chư Phật và Đại
Bồ-tát. Trước hết, chúng ta nguyện giúp đỡ tất cả chúng sinh. Tiếp đến chúng ta
nguyện chuyển hóa mọi lo âu phiền muộn, tập khí, chấp trước để diệt trừ sạch mọi
phiền não. Chỉ có như vậy chúng ta mới thông đạt được hết thảy mọi pháp môn. Sau
cùng chúng ta mới thành tựu Phật đạo. Khi đã thành Phật rồi, ta lại có được năng
lực cứu giúp tất cả chúng sinh, thế nên chúng ta mới thành tựu được lời nguyện
lớn thứ nhất, “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.”
Có người sẽ hỏi, ‘Nhất định phải thành Phật, làm Bồ-tát không được hay sao?’ Dù
Bồ-tát có đủ năng lực để cứu giúp chúng sinh, nhưng chưa có đủ năng lực để giúp
cho hàng Bồ-tát có giai vị ngang mình hoặc cao hơn. Như hàng Đẳng giác Bồ-tát
chưa thể độ được hàng Đẳng giác Bồ-tát, chỉ khi thành Phật rồi, mới có năng lực
rộng lớn độ hết chúng sinh trong 9 pháp giới nầy. Vời lời nguyện như vậy, chúng
ta mới phát tâm từ bi rộng lớn nguyện giúp đỡ mọi chúng sinh, nguyện tinh cần
chuyển hóa phiền não và thông đạt mọi pháp môn tu.
Ngày nay, người tu không thiết tha thực hành các lời nguyện mặc dù họ tụng đọc
hằng ngày. Sao tôi nói vậy? Vì họ vẫn còn tâm phân biệt, tâm thị phi, tâm nhân
ngã, tâm yêu ghét. Nên họ chỉ giúp người mà họ thích và bỏ qua người mà họ không
thích. Đó không phải là lời nguyện chân chính, không phải là lời nguyện viên
mãn. Lời nguyện viên mãn là của Bồ-tát không xuất phát từ tâm phân biệt. Bồ-đề
tâm rất vi diệu, không thể nghĩ bàn và vượt xa tâm phàm phu của chúng sinh.
Bất luận làm việc gì, cũng cần phải thực hành tâm nhẫn nhục. Vào thời xưa các
Pháp sư dịch kinh thấy người Trung Hoa có cá tính quật cường. Trong sách cổ
thường thấy ghi câu, ‘Kẻ sĩ chỉ chịu chết chứ không chịu nhục–Sĩ khả sát bất
khả nhục.’ Dù có chém đầu cũng không can hệ gì. Nhưng đó chỉ là sự nhịn nhục
và xem thường chứ chưa phải là nhẫn. Do vậy nên các pháp sư dịch kinh mới đưa
thêm vào danh từ
nhẫn nhục– 忍辱 để chỉ cho cá tính quật
cường của người Trung Hoa, vốn ban đầu chỉ có từ nhẫn nại –忍耐 chứ không có ý nghĩa chữ nhục 辱. Kinh Kim Cương có nói, ‘Tất cả các pháp
được thành tựu là nhờ nhẫn nhục.’
Không có tâm nhẫn nhục thì không thành tựu điều gì cả. Chẳng hạn, nếu muốn tốt
nghiệp đại học thì phải kiên nhẫn nhục học bốn năm. Quý vị phải nhẫn nhục ngồi
đây suốt hai tiếng đồng hồ để nghe tôi giảng rồi quý vị mới mong có kết quả mỹ
mãn khi thực hành. Không có tâm nhẫn nhục thì không bao giờ làm được điều gì cả,
bất luận chúng ta có duyên lành đến đâu. Trong Sáu pháp ba-la-mật-đa, Đức Phật
Thích-ca Mâu-ni nhấn mạnh nhất đến Nhẫn nhục ba-la-mật trong Kinh Kim Cương. Đó
là chìa khóa thành công trong tu tập.
Người đời thường nói, ‘Xử sự là khó, xử thế với người càng khó hơn–Xử sự nan,
xử nhân cánh nan.’ Đối với thời xưa, việc ứng xử giữa người với nhau không
khó. Nhưng ngày nay thì khác. Sao vậy? Vì nền giáo dục thời xưa thường dạy con
người nhân cách và đạo lý để sống với nhau, giáo dục ngày nay chỉ dạy con người
cách làm việc để kiếm sống. Nên chẳng ngạc nhiên gì khi chính chúng ta chẳng
biết gì về mình để xử sự đúng với những người chung quanh. Chúng ta còn không
biết được những biến đổi tâm tính của mình, biết về người khác lại càng ít hơn. Do
vậy nên càng khó để xử sự cho hài hòa với mọi người.
Có ba loại nhẫn nhục. Thứ nhất là nhẫn nhục khi bị người khác ngược đãi, mắng
chửi hoặc hãm hại. Nhẫn nhục chính là công đức, với sự nhẫn nhục, ta mới có được
tâm thanh tịnh, như vậy dễ có được định lực và tu tập dễ thành tựu. Khi thực
hành hạnh nhẫn nhục thành tựu rồi, chúng ta sẽ có được phước báo rất lớn. Thứ
hai là nhẫn nhục khi gặp nghịch cảnh do thời tiết, nóng lạnh, mùa hạ mùa đông,
đói khát cũng như các tại họa do thiên nhiên gây ra. Thứ ba là nhẫn nhục trong
khi khổ nhọc tu tập. Trước khi có được sự hỷ lạc trong công phu tu tập cũng như
năng lực công phu được vững chãi, chúng ta phải gặp rất nhiều chướng ngại. Tuy
nhiên, khi đã vượt qua giai đoạn nầy rồi, chúng ta sẽ có được sự an lạc. Sao
vậy? Vì chúng ta đang đi trên con đường chính. Điều nầy cũng giống như khi đi
trên xa lộ, trước khi đến nơi ta phải chạy vòng và phải tìm lối vào. Điều nầy
thường làm cho ta nản lòng nhưng vì trên đường
đi có quá nhiều xe khiến ta không thể chạy nhanh được. Một khi đã vào xa lộ cao
tốc rồi, sẽ thấy dễ chịu hơn vì xe chạy nhanh hơn, êm hơn và không còn chướng
ngại. Tu tập Phật pháp cũng giống như vậy.
Ban đầu, chúng ta đi đường vòng, thử qua rất nhiều trường với rất nhiều môn.
Chúng ta sẽ chọn môn nào? Sẽ học cái gì? Có người may mắn vì họ chỉ mất vài năm
là thấy được con đường chính. Có người kém may mắn, phải mất 10 đến 20 năm hay
trọn cả cuộc đời mới có được con đường chân chính. Có được may mắn là do nhiều
căn lành, công đức, nhân duyên đời trước ta đã vun trồng. Với những điều kiện
trên, chắc chắn chư Phật, các Bồ-tát sẽ hỗ trợ chúng ta, vì họ không bao giờ bỏ
rơi chúng sinh. Và khi đã phát tâm thọ trì Phật pháp, chúng ta sẽ được chư Phật
hộ niệm đưa đến giác ngộ. Lúc đó tương lai sẽ được tươi sáng hơn.
Thế tại sao Đức Phật không nói chỉ đơn giản những gì chúng ta cần biết thôi?
Ngài có nói. Nhưng chúng ta không nghe. Chúng ta đã được Đức Phật dạy về pháp
môn tu, nhưng chúng ta lại nghĩ rằng, ‘Đây có thể không phải là pháp tu hay
nhất. Tôi còn nghe có một pháp môn khác hay hơn.’ Như vậy là chúng ta đã làm
trái lời các Ngài đã dạy. Thế nên các Ngài không đến với chúng ta. Quý vị hãy
suy nghĩ kỹ điều nầy. Chúng ta cần phải nhẫn nhục trước khi đạt đến giác ngộ.
Không có tâm nhẫn nhục, chúng ta không thể nào tiến lên giai vị cao hơn, vì nhẫn
nhục là điều kiện tiên quyết để có định lực và tinh tấn.
Trong tiếng Hán chữ tinh tấn được ghép lại gồm hai chữ tinh 精 là tinh chuyên; tấn 進 là tiến bộ. Cả hai việc đều phải đi cùng nhau. Phật pháp không bảo
thủ mà cũng chẳng lạc hậu, mà mong cầu sự tiến bộ hằng ngày. Có người cho rằng
Phật pháp ngày nay không còn thích ứng nữa. Những đánh giá nầy hoàn toàn sai lầm
vì người nói không biết đến tinh tấn ba-la-mật. Tiến bộ là điều tốt, nhưng điều
quan trọng là phải tiến bộ trong tinh thần tinh chuyên. Hiện nay, ở phương Tây
nhiều nhà khoa học có rất nhiều khám phá mới, họ rất kiên trì, miệt mài tìm kiếm
hằng ngày và không bao giờ ngưng nghỉ. Điều ấy cũng được áp dụng cho việc học
Phật. Chúng ta tu học tinh tấn sau khi đã chọn được tông phái và pháp môn, tinh
tấn tập trung trong các môn học cho đến khi thông suốt trước khi học qua môn
khác. Sẽ chẳng có hiệu quả nếu tập trung vào nhiều môn khác nhau trong cùng một
lúc. Khi chúng ta đã thành tựu được một môn, chúng ta sẽ thông hiểu được tất cả.
Nên nói ‘nhất thông nhất thiết thông.’ Nếu chúng ta muốn thử nhiều pháp môn thì
chúng ta sẽ bị chướng ngại trước khi được giác ngộ. Tôi sẽ kể cho quý vị nghe
một vị tăng chuyên tâm tu tập pháp môn niệm Phật.
Vào những năn Dân quốc đầu tiên, Pháp sư Đế Nhàn có một vị đệ tử, vị nầy hơn 40
tuổi mới xuất gia. Hai vị là bạn thời thơ ấu, cùng
lứa tuổi với nhau. Pháp sư Đế Nhàn xuất thân trong gia đình khá giả, nên được
học hành, hưởng được nền giáo dục chu đáo. Trong khi người bạn của ngài xuất
thân từ gia đình nghèo, ít được học hành. Khi lớn lên, người bạn ấy làm nghề lao
động thủ công nên đời sống rất chật vật.
Một lần sau khi ở lại chùa viếng thăm Pháp sư Đế Nhàn vài hôm, ông ta nói với
Pháp sư rằng ông muốn xuất gia làm tăng. Pháp sư
hỏi vì sao,
ông ta trả lời, ‘Đời sống quá khó khăn và tôi muốn làm người xuất gia.’
Ban đầu Pháp sư từ chối vì thấy giáo dục Phật pháp rất nghiêm túc và việc học
kinh điển sẽ khiến cho anh bạn già và chậm lụt nầy khó theo nổi so với các chú
điệu còn trẻ. Các vị tăng khác sẽ cả nể vì anh ta là bạn của pháp sư. Thấy mọi
chuyện đều là thử thách quá lớn đối với người bạn mình nên Pháp sư từ chối.
Nhưng người bạn cứ nài nỉ nên Pháp sư phải nhận lời
và đưa ra những điều kiện, ‘Tôi đồng ý thế phát cho ông xuất gia, nhưng ông đừng
mong mình sẽ thọ giới vì chắc ông không thể nào chịu nổi 53 ngày tập sự khắc
nghiệt. Ở trong làng Ninh Ba, có rất nhiều ngôi miếu nhỏ vắng người, tôi sẽ tìm
cho ông một cái để ở.’ Pháp sư nhờ vài người Phật tử ở gần đó cung cấp thực phẩm
cho vị tăng mới. Rồi hướng dẫn ông ta niệm danh hiệu
Nam
mô A-di-đà Phật. Ngài nói, ‘Chỉ cần lúc nào cũng niệm câu nầy. Khi mệt thì
hãy nghỉ, nhưng khi nghỉ cũng nhớ đến câu danh hiệu. Tôi tin chắc ông sẽ được
lợi lạc rất lớn khi làm như vậy.’
Rồi vị tăng mới ẩn mình trong ngôi miếu nhỏ và chỉ tập trung niệm Phật. Ba năm
sau, ông ta trở về thăm bạn bè và người thân rồi trở về lại ngôi miếu và nói với
người phụ nữ thường đem cơm rằng: ‘Ngày mai đừng đem cơm cho tôi nữa.’ Người phụ
nữ nghĩ rằng vị tăng đã không rời khỏi chùa ba năm nay quyết định sẽ về thăm bạn
bè lần nữa vào ngày mai.
Ngày hôm sau, người phụ nữ trở lại ngôi miếu để xem vị tăng đã về chưa. Cô ta
vào và cất tiếng gọi, không thấy ai trả lòi, cô ta đi vào trong và thấy vị tăng
đang đứng với xâu chuỗi hạt trên tay. Cô ta chào vị tăng nhưng không thấy trả
lời. Khi đến gần cô ta mới biết ông ta đã chết nhưng vẫn đứng! Chưa bao giờ thấy
chuyện như vậy xảy ra trong đời nên cô ta báo cho các vị Phật tử đến xem. Họ gởi
điện cho Pháp sư Đế Nhàn báo tin lạ vừa xảy ra và thỉnh thị nên
làm như thế nào?
Vì đi lại khó khăn, nên phải ba ngày sau Pháp sư mới đến được ngôi miếu. Pháp sư
biết người bạn mình đã vãng sanh cõi Tây phương Cực lạc. Ngài nhìn người
bạn đã tịch trong tư thế đứng và thán phục nói: ‘Ông đã chứng tỏ rằng quyết định
xuất gia làm tăng cách đây ba năm của ông là đúng đắn. Không một Pháp sư chuyên
giảng kinh thuyết pháp, các vị phương trượng trú trì danh sơn bảo sát ở đây cũng
chưa có vị nào đạt được như ông.’ Trong ba năm, vị tăng ‘thất học’ không làm gì
hết ngoài việc niệm
Nam mô A-di-đà Phật. Sự nhất tâm, tinh cần không gián đoạn của vị tăng đã
đưa đến kết quả thoát khỏi luân hồi sinh tử và vãng sinh Tây phương Cực lạc.
Thực hành tinh tấn rất quan trọng bất luận trong công việc gì. Dù niệm Phật,
ngồi thiền, trì chú, hay học kinh, chúng ta cũng phải tinh tấn. Trong việc học
kinh, nếu muốn có ích cho mình và giúp người thì tốt nhất là chuyên tâm nghiên
cứu giảng giải chỉ một bộ kinh. Theo cách nầy, mỗi khi chúng ta nghiên cứu và
giảng giải, chúng ta sẽ đạt đến cảnh giới tâm chứng mới lạ, chúng ta sẽ được
tiến bộ không ngừng. Người giảng Kinh A-di-đà trong 10 năm sẽ trở thành Phật
A-di-đà. Người giảng phẩm Phổ môn trong 10 năm sẽ trở thành Bồ-tát Quán Thế Âm.
Còn người cố gắng học 10 bộ kinh trong 10 năm thì thành nghề gì cũng biết nhưng
chẳng tinh nghề nào. Bây giờ quý vị mới biết tầm quan trọng của tinh tấn như thế
nào!
Vào năm Dân quốc thứ 58, tôi được Hòa thượng Tinh Vân mời sang Phật Quang Sơn,
một trường Đại học Phật giáo ở Đài Loan để giảng dạy. Tôi đề xuất với vị hiệu
trưởng rằng, ‘Mỗi học tăng nên chuyên tâm nghiên cứu một bộ kinh. Có vậy, sau từ
10 năm đến 20 năm, Phật quang sẽ chiếu khắp toàn cầu.’ Tuy nhiên, ý kiến của tôi
không được chấp nhận. Nếu không thì sẽ có rất nhiều chuyên gia hoằng pháp. Thành
quả ấy kỳ diệu biết bao! Theo cách nầy, nếu có người muốn nghe Kinh A-di-đà thì
sẽ có Đức Phật A-di-đà thuyết pháp, nếu có người muốn nghe Kinh Địa Tạng sẽ có
Bồ-tát Địa Tạng thuyết pháp. Người nào đã tốt nghiệp đại học nầy đều là những
chuyên gia hoằng pháp. Chỉ bằng cách ấy, Phật pháp mới được hoằng truyền rộng
rãi.
Thế nên tôi mong mỏi rằng các vị hoằng dương Phật pháp đều là những chuyên gia,
chứ không phải chỉ là những học giả, chỉ học nhiều môn, nhưng thực tế thì không
thông suốt môn nào cả. Ngược lại, nếu học tăng chuyên chú vào một môn thì kết quả sẽ
thông suốt tất cả các môn. Chư Phật và Bồ-tát đều tinh thông nhiều mặt, nhưng
vẫn dạy chúng ta chú tâm vào một pháp môn. Tinh tấn có nghĩa là thâm nhập chỉ
riêng vào một pháp môn. Công đức của tinh tấn thật là vô lượng vô biên.
Thứ năm là thiền định ba-la-mật, gồm thiền định thế gian và xuất thế gian. Thiền
định thế gian gồm Bốn thiền tám định, nếu siêng
tu tập thiền định nầy, tương lai chắc chắn sẽ sinh vào cõi trời Sắc giới, Vô sắc
giới. Đó là những cảnh giới cao, chỉ do tu tập thiền định mới đạt được. Đại
thừa, Tiểu thừa đều có thiền định xuất thế gian, chư Phật đều tu tập thiền định
nầy. Chúng ta gọi đó là Xuất thế gian thượng thượng thiền. Yếu quyết tu
tập mọi pháp môn đều ở thiền định.
Thật sai lầm khi cho rằng chỉ có Thiền tông Phật giáo mới tu
tập thiền định. Thật ra các tông khác đều có pháp tu tập định lực. Tịnh độ
tông dùng phương pháp niệm Phật để đạt nhất tâm bất loạn, đó là một cách tu tập
thiền định. Tông Thiên Thai tu tập Chỉ quán, đó cũng là một cách thiền định. Mật
tông dùng Tam mật tương ưng, sự tương ưng của ba nghiệp thân, khẩu, ý đó chính
là thiền định. Nên phải biết, mỗi tông phái, pháp môn dùng tên gọi khác nhau
những đều tu tập thiền định. Do vậy nên trong Lục độ ba-la-mật, thiền định bao
quát tất cả các phương diện kia, đều liên quan đến mọi sinh hoạt chúng ta hằng
ngày.
Thiền định nầy là gì? Là làm chủ tâm ý mình. Chúng ta có mục đích, có phương
hướng, tuyệt nhiên không để cho hoàn cảnh chung quanh chi phối, làm dao động, đó
gọi là ‘định’. Như các nhà khoa học, họ thành công trong việc nghiên cứu là nhờ
không để cho các việc khác chi phối, thế nên họ đạt được cái mà nhà Phật gọi là
‘tam muội’, đó là ‘khoa kỹ tam muội’. Người tu tập pháp môn niệm Phật đạt được
nhất tâm bất loạn được gọi là ‘niệm Phật tam muội’, như vị tăng đệ tử của Pháp
sư Đế Nhàn đã thành tựu. Qua đó, mới biết nhẫn nhục là nền tảng để tu tập, có
nhẫn nhục ta mới siêng năng tinh tấn và nhờ vậy mới đạt được định lực, đó là cốt
tủy của việc tu hành.
Trong
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục tổ Huệ Năng có giải thích thiền định không chỉ có
nghĩa là là ngồi thiền (đả tọa), đó chỉ là một trong vô số pháp tu thiền định mà
thôi. Ngài chứng ngộ nhờ nghe Kinh Kim Cương, do vậy nên mọi lời giảng
của Ngài đều lưu xuất từ yéu chỉ của kinh nầy. Thiền là ngoài không chấp trước
vào tướng.
Định là trong không động tâm. Trong kinh Đức Phật
dạy ngài Tu-bồ-đề cách
hoằng pháp lợi sanh qua câu ‘Bất thủ ư tướng, như như bất động.’
Kinh Hoa Nghiêm trình bày Thiện Tài đồng tử trải qua cuộc tham vấn 53 vị thiện
tri thức. Khi đến gặp Chúc Hương trưởng giả
để học về thiền định, Thiện Tài không thấy vị nầy. Ông ta ở đâu? Ông ta không
ngồi thiền trong một đạo tràng nào, cũng không ngồi thiền trong nhà, mà Thiện
Tài gặp ông đang đi lang thang ngoài chợ. Ông ta đang làm gì ngoài đó? Ông ta
đang tu tập thiền định, giữ cho tâm thanh tịnh bằng cách không dao động bởi các
hiện tượng (ngoại bất trước tướng, nội bất động tâm). Ông ta không ngồi
kiết già xoay mặt vào tường hằng giờ trong tư thế mà ta hằng mong ước được thành
thục. Chúng ta không biết rằng Chúc Hương trưởng giả đã đạt đến trình độ thiền
định cao cấp hơn những người mà chúng ta thường thấy họ ngồi trong tư thế kiết
già. Trình độ thiền định bậc cao hoặc còn gọi ‘tam muội’ là có thể đạt được ngay
cả trong khi làm việc, trong cả bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi.
Tại sao thiền định lại rất quan trọng? Tại sao Đức Phật dạy ta ‘Ngoài phải xa
lìa các tướng, trong không được động tâm.’?
Vì tất cả các hiện tượng đều hư vọng, các pháp hữu vi đều như mộng, huyễn, ánh
chớp, bọt bóng. Đức Phật đã thấy rõ nên khuyên chúng ta đừng khởi tâm phân biệt chấp trước. Nếu chúng ta làm được như
vậy, thì sẽ khôi phục lại được tự tánh chân thật của mình và có được trí huệ như
chư Phật khi nhìn các hiện tượng chung quanh. Đó là Bát-nhã ba-la-mật.
Thứ sáu là Bát-nhã ba-la-mật. Chúng ta ứng dụng điều nầy trong sinh hoạt hằng
ngày, khi chúng ta thực hành theo Bồ-tát đạo. Chúng ta nhận biết tất cả các hiện
tượng chung quanh mình nhưng không vướng mắc với nó khi chúng ta làm hết sức
mình để cứu giúp chúng sinh. Sao vậy? Vì việc cứu giúp chúng sinh phát xuất từ
tâm nguyện và công hạnh của chư Phật và Bồ-tát, ‘đồng thể đại bi, vô duyên đại
từ.’ Điều nầy cũng giống như khi một người dùng tay trái đuổi muỗi đang đậu trên
tay phải mình. Tay phải có hỏi tại sao nó giúp
tay trái không? Dĩ nhiên là không. Vì nó cùng có chung thân thể.
Bây giờ chúng ta tạm thời quên mất tự tánh của mình, nên không biết mọi chúng
sinh va mình vốn đồng một tự thể. Thế nên chúng ta có sự phân biệt giữa mình và
người, trở nên rắc rối phức tạp, càng lắm mê mờ, phạm nhiều ác nghiệp nên gieo
nhiều khổ đau cho mình và người . Đức Phật dạy chúng ta cách dẹp trừ mê lầm,
thức tỉnh, nhận ra chân lý giúp người chính là giúp mình. Lòng thương yêu mọi
người không điều kiện (vô duyên đại từ) xuất phát từ nhận thức chúng sinh và
mình vốn đồng một tự thể (đồng thể đại bi).
Nói tóm lại, mọi việc đều có trình tự và phương pháp. Đó là phải giữ giới.
Có lòng nhẫn nại, chúng ta sẽ có được nhẫn nhục. Chuyên tâm vào việc tu
tập không lơ là gọi là tinh tấn. Làm chủ được tâm và không bị dao động
bởi các hiện tượng bên ngoài gọi là thiền định. Thông đạt mọi tri thức và
hiện tượng gọi là trí huệ (bát-nhã
). Do vậy Đức Phật dạy chúng ta áp dụng Lục độ ba-la-mật, bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ (bát-nhã) vào trong đời sống hằng
ngày. Theo cách nầy, chúng ta thực sự đang tu tập Bồ-tát đạo. Sẽ sai lầm khi
nghĩ rằng mình đã thọ Bồ-tát giới rồi thì hiển nhiên mình là Bồ-tát. Nếu chúng
ta không tu tập Lục độ ba-la-mật, không áp dụng các điều nầy, dù có thọ giới
Bồ-tát, cũng giống như tượng Bồ-tát bằng đất, đến mình cũng chẳng độ được, nói
gì đến độ người.
Thích Nhuận Châu dịch