Minh Thạnh
1.
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam, ngày tưởng
nhớ, tôn kính ông bà cha mẹ quá cố, được chọn là ngày giỗ, là một sự kiện quan
trọng trong đời sống tâm linh của người Việt, thể hiện lòng hiếu để, đồng thời
qua đó, cũng thể hiện lòng tự trọng, tự hào cũng như thể diện của con cháu.
không gian thờ cúng xưa-ảnh
net
không gian thờ cúng tổ tiên hiện
đại- ảnh net
Chúng ta không chạy theo cách
nghĩ đám giỗ tưởng nhớ tổ tiên ông bà càng rình rang, linh đình, thì con cháu
mới hãnh diện, chứng tỏ sự phát đạt, thành công, hưng vượng và cố làm lễ cho
thật lớn bằng mọi giá để phô trương với mọi người, dù có thể vay mượn.
Nhưng quan niệm con cháu tụ tập
đông đảo đủ mặt trong ngày tưởng nhớ ông bà tiên tổ là một truyền thống đáng quý
của dân tộc.
Cho dù cỗ bàn cúng kiến thịnh
soạn, cao sang, nhưng con cháu không thể tề tựu như mong muốn, cuộc lễ thưa vắng,
không ấm hơi người, thì đương nhiên chẳng những bậc trưởng tộc phụ trách tế lễ
cũng không dám ngẩng cao đầu nhìn láng giềng làng xóm, mà số ít con cháu về dự
cũng tủi thân với bè bạn, anh em.
Cái quý hơn hết là sự tụ hội của
số đông trong các hoạt động có tính chất tâm linh truyền thống. Cỗ bàn dâng cúng
có thể đơn sơ, con cháu không xênh xang xe ngựa, nhưng nếu tụ hội về đủ, đứng
chật sân ngoài, nhà trong mà dâng hương lễ bái, thì các bậc trưởng thượng sẽ hết
sức tự hào, còn con cháu thì hể hả, sung sướng.
Thể diện, lòng tự hào, tự trọng
của người Việt không chỉ bộc lộ qua lễ giỗ, mà còn ở nhiều hình thức tín ngưỡng
khác, theo đơn vị thường là làng xã.
2.
Phật giáo Việt Nam chúng ta,
tôn giáo gắn liền với dân tộc, đương nhiên cũng nằm trong nếp tư duy đó.
Các tổ đình, tự viện vẫn theo
thông lệ tổ chức trọng thể lễ kỵ giỗ của chư vị tôn đức khai sơn, coi đó là thể
diện, là niềm tự hào của tổ đình, tông môn mình.
Có lễ kỵ số tăng ni Phật tử tề
tựu lên đến hơn con số ngàn, bất kể đường sá xa xôi, hay bận trăm công ngàn việc.
Mọi người cùng nhau về dự không phải vì bữa giỗ,
không phải vì cầu khấn điều gì trong ngày hôm đó, mà trên hết vì lòng tự hào,
cũng như thể diện của tổ đình, sơn môn, tông phong hay tự viện.
Về phía môn đồ pháp tử, thì dù
khó khăn gì, cũng cố gắng tổ chức một ngày lễ kỵ tươm tất. Có thể mọi người ngồi
bên nhau thọ thực tương chao đạm bạc, nhưng số đông cũng là nhân tố hàng đầu làm
nên sự hoan hỷ, tự hào.
3.
Truyền thống như thế dường như vẫn còn hiện hữu
trong các tổ đình, tự viện, cũng như hầu hết người Việt
Nam
có tín ngưỡng, kể cả có thể không phải Phật giáo.
Nhưng điều rất lạ trong Phật
giáo Việt Nam là điều này không được bộc lộ
một cách thống nhất trong ngày tôn kính đức Từ phụ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
mà theo truyền thống, là ngày Phật đản.
Phật giáo ở một số địa phương,
tỉnh thành có năm tổ chức được những ngày lễ Phật đản hoành tráng, đông đảo, làm
cho tăng ni Phật tử hết thảy đều tự hào, hãnh diện, trong nếp nghĩ truyền thống
cố hữu của người Việt Nam.
Tại Sài Gòn trước đây và sau đó
là TPHCM chúng ta đã chứng kiến những cuộc lễ Phật đản đông đảo quy mô, làm thay
đổi hẳn sinh hoạt của thành phố.
Tại Hà Nội, chúng ta càng thấy
lễ Phật Đản mỗi năm càng được tổ chức lớn hơn, từ khuôn viên chật hẹp chùa Quán
Sứ, tiến lên khuôn viên rộng rãi của Học Viện Phật giáo, rồi nay đã trở nên
tương xứng với tầm vóc ngày lễ lớn nhất của đạo Phật,tôn kính đức Từ Phụ, được
tổ chức bề thế, trang nghiêm ở một quảng trường trung tâm giữa thủ đô Hà Nội.
Có nhiều lý do, nhưng chắc chắn,
trên hết cũng là vì lòng tự hào tín ngưỡng, vì thể diện tôn giáo.
4.
Nhưng điều bất ngờ và khó hiểu là những năm gần
đây, một số địa phương, lại là những thành phố lớn, đông đảo tín đồ, kinh tế
phát triển, nhiều chùa chiền trùng tu, xây mới…Ấy vậy mà, Đại lễ Phật Đản, niềm
tự hào tôn giáo, sự thể hiện thể diện tín ngưỡng của người con Phật Việt Nam lại
được tổ chức theo chiều hướng xuống dốc đến thảm hại.
Quy mô lễ đài thì có thể năm nào
cũng như năm nào, còn số người tham dự tuột xuống mạnh theo cách chọn điểm tổ
chức ở những nơi đó (không gian chật chội hạn chế số người dự lễ).
Đã qua rồi thời kỳ những người
con Phật tự hào tề tựu đến con số hàng chục ngàn hay sao, mà nay với những địa
điểm tổ chức, người ta có thể ước lượng ngay số người tham dự chẳng được bao
nhiêu!
Niềm tự hào, thể diện và lòng tự
trọng tôn giáo có còn chăng và ở đâu trong cách nghĩ
như vậy?
Một đám giỗ mà con cháu không
làm được việc tề tựu đông vui chắc chắn sẽ không tránh khỏi cái nhìn thương hại,
có thể lẫn chút khinh khi của những người hàng xóm, mà kỵ giỗ nhà họ chưa bao
giờ có chuyện số con cháu về dự ít ỏi.
Nhưng đàng này,không phải là một
gia tộc, dòng họ, mà là một tôn giáo có 2.000 năm lịch sử trên đất nước này.
Và điều đó diễn ra trong bối
cảnh những tôn giáo du nhập chưa được một trăm năm có thể dâng lên giáo chủ của
họ những tấm lòng từ một số đông kinh ngạc.
Trước một ngày lễ tín ngưỡng mà
điều kiện tổ chức chắc chắn sẽ làm người tham dự theo hướng ít ỏi như vậy chắc
chắn, nếu còn trong mình tư duy truyền thống của người Việt Nam, thì từ bậc
trưởng thượng cao niên đến những em bé vừa bắt đầu biết suy nghĩ, tự trọng, chắc
chắn không tránh khỏi một nỗi mặc cảm nặng nề.
Có lẽ không phải cái mặc cảm của
cái nghèo hèn, vì trong những đám giỗ nghèo nhưng đủ mặt đông đảo cháu con, dòng
tộc, tề tựu mỗi năm được đông hơn thì vẫn là niềm tự hào, hãnh diện nếu con cháu
đông vầy, dù mâm cổ đạm bạc, đơn sơ
Mà là cái mặc cảm, nỗi tủi thân
của sự vô phước, khi nhìn thấy trước bàn thờ đức Từ phụ số con cháu tề tựu về
tôn kính ngài, vì lý do nào đó, chẳng những không đông đảo hơn mà càng thưa vắng.
MT