Đạo Sinh
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta
là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể
thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnh mà chúng ta
không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của
kiếp người-chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến đi
này. Một vài cảm thức vụn vặt bất chợt trong đời sống về cái
gọi là pháp lạc chỉ đủ để chúng ta che giấu tâm trạng mộng mị của mình trước
người khác, chứ không đủ độ dài để phủ kín những hiện trạng chúng ta phải thường
xuyên đối mặt với chính mình.
Dĩ nhiên, đối với
những người chẳng bao giờ nghĩ đến đức Phật, họ sẽ không bằng lòng với một mô tả
như thế. Họ lý luận, chẳng hạn, trước khi nhập
Niết-bàn đức Phật đã dạy là hãy xem giáo pháp của Ngài như chính bản thân Ngài;
và vì thế, sự kiện không có Phật cũng chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống của Phật
tử ở mọi thời. Một lý luận rất hợp lý, nhưng thật là ấu trĩ. Nó chỉ ra cái
thực trạng sa đọa trong tinh thần đạo học quý giá của
người Đông phương. Người ta không còn biết đến đạo lý là gì.
Người ta không còn biết đến tri ân là gì. Người ta không còn tìm đến đạo Phật như một lối thoát cuối cùng của
cuộc đời mình mà chỉ như một tên lái buôn ranh mãnh.
Nếu không có đức Phật thì ta vẫn không bị lỗ vốn; trái lại có khi còn được lời
lớn. Không một gia tài nào vĩ đại hơn gia tài
đức Phật đã để lại cho loài người trên mặt đất. Với số lượng lớn như vậy, ta dễ
dàng chọn lựa những mặt hàng nào ăn khách nhất, có giá nhất, để có thể nhanh
chóng thu lợi về mình, đồng thời có thể cạnh tranh với những bạn hàng khác. Và từ đó bi kịch xảy ra. Hàng này mới là hàng gốc, hàng
kia là hàng giả. Hàng này có giá trị nhưng đã cũ, cần
phải tân trang, hoặc đánh bóng, hoặc thay bằng một nhãn hiệu mới.
Hàng này có tác dụng nhanh nhất, mạnh nhất; những món hàng khác đã lỗi thời, đã
mất tác dụng.
Đã buôn bán, tất nhiên phải tìm kiếm thị trường, phải xây dựng
cửa hàng, phải đào tạo nhân viên bán hàng, quảng cáo, tiếp thị. Thế là
ngoài việc khai thác mặt hàng, còn phải vận dụng trí não của mình để đề ra các
phương án nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Thị trường phải mang tính toàn cầu, cơ sở kinh doanh phải phát triển trên quy mô
lớn, nhân viên phải được đào tạo có chất lượng để vừa có thể bán chạy hàng vừa
có thể đè bẹp các bạn hàng cạnh tranh khác. Muốn làm được như thế phải
vận dụng các thành quả của văn minh Tây phương để nâng cao hiệu suất trong mọi
mặt; phải áp dụng các phương tiện và phương pháp khoa học hiện đại, phải nắm các
quy tắc tâm lý học để có thể khai thác triệt để khách hàng, để có những quan hệ
thật tốt với nơi có cơ sở kinh doanh. Và điều quan trọng nhất là phải triệt tiêu
các giá trị đạo đức có thể làm chướng ngại sự nghiệp làm ăn của mình như những
giá trị truyền thống về tình người, tình đạo, tình bạn, nhân cách, nhân tính,
v.v. Nói chung là phải tận dụng mọi thứ có thể có, nhất là những kiến thức đã
học được của phương Tây, không phải là tinh hoa mà là những kiến thức rác rưởi
của Tâm lý học, Phân tâm học, Tâm sinh học,... để có thể đạt được thành quả
nhanh nhất và lớn nhất.
Nếu vì không có sự thị hiện của đức Phật
mà giáo pháp của Ngài có khi bị lâm vào tình trạng được mô tả như trên thì hậu
quả lớn nhất phải gánh chịu chính là Phật tử, những con người ngây thơ đã phải
hy sinh rất nhiều khi mơ ước một ngày nào đó có thể tiếp cận được với đạo Phật.
Vấn đề này đặt ra một suy nghĩ cho chúng ta: Chúng ta tìm đến đạo Phật như một
khách hàng hay như một người thật sự muốn được giúp đỡ trong cuộc sống có quá
nhiều khổ đau? Suy nghĩ này mang tính quyết định đối với đời
sống của một Phật tử. Thứ nhất, nếu chúng ta tìm đến đạo Phật với hy vọng
khai thác được một cái gì đó để bổ sung cho đời sống chúng ta thì chúng ta đã
nhầm chỗ, bởi vì đạo Phật là toàn diện đời sống chứ không phải một phần của đời
sống. Thứ hai, nếu không nhìn thấy đời sống có quá nhiều khổ
đau mà lại tìm đến đạo Phật thì chúng ta cũng đi nhầm chỗ, bởi vì đạo Phật không
có tác dụng đối với những người không nhìn thấy như thế. Chúng ta hãy
lắng nghe một lần nữa câu nói đầu tiên của những người quyết định đến với đức
Phật lúc Ngài còn tại thế:
Buddhaṃ śaraṇaṃ gacchāmi
(Phật, nơi trú ẩn, tôi đi đến)
Câu nói trên đây là
một sự thật trong lịch sử và văn học sử Phật giáo, cũng như trong đời sống hiện
thực của bất kỳ một Phật tử nào. Sự thật này xác định ý chí và thái độ trong suốt
cả cuộc đời của một Phật tử.
Khi đức Phật Thích-ca còn tại thế, người
Phật tử trú ẩn ở Ngài qua hai phương cách: Thứ nhất, họ trú ẩn trong sự che chở
của một con người mà họ có thể nhận biết trong thế giới thường nghiệm. Thứ hai,
họ trú ẩn trong ánh sáng giải thoát của con người đó trong thế giới siêu nghiệm.
Khi đức Phật không còn
tại thế, người Phật tử mất đi nơi trú ẩn thứ nhất và chỉ còn lại nơi trú ẩn
trong thế giới siêu nghiệm; một nơi chốn rất khó tiếp cận nếu như người Phật tử
không có đủ những điều kiện nào đó. Đây là lý do tôi nói ở đầu bài viết này
là sự kiện chúng ta sinh ra vào thời không có Phật là bất hạnh lớn nhất cho mỗi
người Phật tử chúng ta.
Một bất hạnh, và là
một sự thật. Có nghĩa, chúng ta
quyết định đi đến một nơi trú ẩn không được thiết lập trong thế giới thời-không,
tức là chúng ta không thể tìm thấy nơi trú ẩn đó qua các quan năng bình thường
mà phải qua sự thể nhập bằng tâm linh. Đây là điều khó
khăn đối với chúng ta. Nói cách khác, chúng ta không thể thọ nhận giá trị
đích thực của nơi trú ẩn đó bằng kiến thức, nhận thức, lý luận, tư duy, v.v., mà
bằng tâm thành kính, tin tưởng, cung kính, vốn rất khó mô tả trong đời sống
thường nhật của chúng ta.
Tôi lấy ví dụ, sự tìm
đến đức Phật để làm nơi trú ẩn của một Phật tử chuyên niệm danh hiệu Nam-mô A-di-đà
Phật là một sự kiện bất khả phân đối với suối nguồn của Phật giáo. Trong đó chúng ta có thể tìm thấy hầu như cùng lúc yếu tính của tất
cả những gì khả dĩ giúp con người tiếp cận được với đạo Phật.
Trước hết, tín đồ niệm
Phật triệt tiêu mọi giá trị sai lầm của các biểu tượng; tất cả các biểu tượng
đều là sản phẩm của tập khí danh ngôn củacon
người. Điều này cũng có nghĩa không ai trong chúng ta có thể biết được như
thật đức Phật Thích-ca. Vì tâm chúng ta không thể đồng với tâm
của Phật; và vì sự thị hiện của đức Phật trong lịch sử là một sự kiện
đã thuộc về quá khứ. Có nghĩa, sự thị hiện này đã diệt, dĩ nhiên là
theo ngữ nghĩa trong thế giới thường nghiệm của chúng ta. Một pháp đã diệt là pháp không còn làm đối tượng của nhận thức.
Cho dù trong lịch sử văn học Phật giáo, Nhất Thiết Hữu Bộ chủ trương bản thể của
một pháp như thế vẫn còn tồn tại dù tác dụng đã diệt, nhưng làm thế nào chúng ta
có thể nhận biết cái mà nó không còn tác dụng
làm đối tượng cho sự nhận biết của chúng ta.? Như vậy, khi chúng ta nói về
đức Phật là chúng ta nói về một biểu tượng nào đó trong tâm tưởng chúng ta.
Có nghĩa rằng có bao nhiêu Phật tử thì có bấy nhiêu biểu tượng
về Phật. Trong trường hợp như thế, chúng ta không được nói rằng chỉ có biểu
tượng của tôi là biểu tượng gốc còn biểu tượng của anh chỉ là một sao chép.
Chính vì thế mà tín đồ niệm Phật không mất công chọn lựa biểu tượng.
Cái họ nhắm đến là lý thể chứ không phải danh tướng. “Phật, nơi trú ẩn”
đối với họ không phải là danh tự mà là linh thể của toàn bộ những gì làm nên đạo
Phật. Linh thể đó chính là Đời Sống Vô Lượng và Ánh Sáng Vô Lượng. Đời
sống vô lượng không thuộc về bất cứ phạm trù nào của thế giới thường nghiệm; bởi
vì đó là đời sống vượt ra ngoài dòng sinh tử nơi mà chúng ta đang tồn tại với
mọi khái niệm đối đãi giữa hữu và vô, sinh và tử, nhiễm và tịnh, trói buộc và
giải thoát, v.v. Ánh sáng vô lượng là ánh sáng chiếu suốt cả hai thế giới thường
nghiệm và siêu nghiệm, tức thế giới con người có khả năng nhận thức và thế giới
vượt ngoài tầm nhận thức của con người. Đó là ánh sáng của Nhất thiết trí, nền
tảng của giác ngộ và là linh thể của đạo Phật. Như vậy con đường đi đến với Phật
của một tín đồ niệm Phật A-di-đà là con đường thể nhập vào bản thể siêu nghiệm
của Phật, là con đường giữa tâm và tâm chứ không phải con đường của tư và tưởng.
Đây là điểm mấu chốt khiến cho biết bao nhiêu người, Phật tử cũng như không phải
Phật tử, không thể nào tiếp cận được con đường các tín đồ niệm Phật đang đi. Từ đó xuất hiện không biết bao nhiêu câu hỏi ngớ ngẩn. Chẳng
hạn, tín đồ niệm Phật giải quyết các vấn đề vô minh và phiền não như thế nào để
có thể nói rằng con đường này dẫn đến giải thoát, mục tiêu cuối cùng của Phật
giáo mà bất kỳ ai cũng phải công nhận?
Nếu quan sát kỹ hành trình của các tín
đồ niệm Phật, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên khi phát hiện rằng những cái mà chúng
ta cho là rất quan trọng trong Phật học lại là những cái họ chẳng hề quan tâm.
Cách giải quyết duy nhất của họ, nếu có, hình như là buông bỏ.
Trong kinh A-di-đà Tiểu bản, họ được dạy rằng thế gian này đang tồn tại với năm
tính chất: sự ô trược của thế kiếp, sự ô trược của tà kiến, sự ô trược của phiền
não, sự ô trược của chúng sinh, sự ô trược của thân mạng.
Trong Phật giáo, không có sự thay đổi hoàn cảnh của một tồn tại như thế bởi vì
đó đã là quả dị thục, tức là những gì đã xảy ra do năng lực của các nghiệp thiện
ác đời trước. Vì thế họ không vô minh đến độ tìm cách
thay đổi những gì không còn thể thay đổi. Thế còn về sự hiện hành của các phiền não và vô minh trong hiện tại
thì sao? Tín đồ niệm Phật hầu như không quan tâm đến cái gọi là sự hiện hành
của phiền não và vô minh. Họ không bận tâm với các khái
niệm. Phiền não chỉ thật sự sinh khởi khi có điều kiện.
Vô minh chỉ thật sự tồn tại khi nó là động lực cho sự sinh khởi của phiền não.
Trong hành trình của một tín đồ niệm Phật, không có điều kiện cho những loại
sinh khởi như thế. Tất cả đều được hóa giải trong tiến
trình xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Trong một sát-na tâm không có hai
niệm cùng khởi; vì thế trong khi những người bạn đạo khác đang nỗ lực đoạn trừ
hai chướng ngại đó bằng cách chú tâm vào việc nhìn thấy bản chất của chúng thì
cách giải quyết của tín đồ niệm Phật là triệt tiêu ngay từ đầu bất cứ cơ hội nào,
dù chỉ là một khái niệm, cho những sinh khởi như thế. Ở đây, giả như các nhà
Du-già cho biết rằng, về mặt hiện tượng, phiền não và vô minh có thể không hiện
khởi nhưng những tiềm lực của chúng vẫn nằm sẵn trong tâm, và như thế, thái độ
không quan tâm đến chúng chẳng khác gì một sự chạy trốn; thì chắc chắn những tín
đồ niệm Phật sẵn sàng thừa nhận điều đó. Nhưng sự thật là họ
không chạy trốn. Những tiềm lực như thế, nếu có, không thể nào tồn tại
vĩnh viễn trước sức mạnh của một dòng tâm đang dần dần thâm nhập vào vòng sáng
bất khả tư nghị của một đời sống vô lượng. Những tiếng kêu tru tréo của loài dã
can không thể lấn át tiếng rống hùng tráng của sư tử; cỏ dại không thể mọc dưới
cội một cây Bồ-đề hùng vỹ; những bóng ma của vô minh và phiền não chỉ hăm dọa
được những ai không có đủ niềm tin vào năng lực hộ trì của những dòng tâm đã
thoát ra ngoài mọi trói buộc của thế giới thời-không. Ngày nào còn tìm đến đức
Phật, không phải qua những nhận thức về biểu tượng mà qua niềm tin bất hoại vào
khả tính tương dung tương nhiếp của tâm thức, thì ngày đó tín đồ niệm Phật vẫn
an nhiên trước tác động của bất kỳ ma lực nào. Đây là điều chúng ta không thể nào phủ nhận khi chứng kiến đời sống
thường nhật của những Phật tử như thế.
Họ phó thác sinh mệnh mình cho đức Phật A-di-đà; hay nói chính xác hơn, sinh
mệnh của họ với sinh mệnh của Phật A-di-đà là một. Trong trường hợp như thế, những khái niệm đối đãi về ta và người, tự
lực và tha lực, v.v., trở thành hoàn toàn vô nghĩa đối với họ.
Họ không tìm cách chạy trốn khổ đau, không tìm cách thủ đắc an lạc.
Họ không bi quan vì sự trói buộc, cũng không mong cầu sự giải thoát. Mọi
thứ mà một khách bộ hành phải chuẩn bị khi băng qua sa
mạc đã trở thành không cần thiết đối với những lữ khách đã vào được thảo nguyên.
Trong một dòng tâm không còn bị khuấy động bởi mọi sóng gió tự tạo của tư biện
và hý luận, họ dần dần tiếp cận với cảnh giới tương ưng, cảnh giới sáng sủa của
trí tuệ bất khả tư nghị với tất cả các yếu tính của một đời sống đã vượt ra
ngoài những giới hạn của kinh nghiệm thường tục. Cực lạc quốc là một trong những
quốc độ của Phật. Nó nằm ngoài tam giới, có nghĩa người Phật tử chỉ có thể thể
nhập vào đó bằng một sự thay đổi toàn triệt cơ cấu thân tâm chứ không phải bằng
lực tư biện của một tâm thức hữu lậu. Vì thế, với niềm tin vào bản nguyện của
chư Phật, vào tín tâm bất khả hoại của chính mình, tín đồ niệm Phật biết mình
phải làm gì trên con đường thể nhập vào cảnh giới vô lậu đó, nơi mà họ còn phải
nỗ lực rất nhiều để đạt được giác ngộ dưới sự chỉ dạy của đức Phật A-di-đà trước
khi trở lại cứu độ thế giới này.
Rõ ràng là tín đồ niệm Phật đã không
chịu dừng lại với những biểu tượng hạn hẹp của thế gian khi phát nguyện chọn
Phật làm nơi trú ẩn. Trước một nhân cách học và tu như thế, chúng ta không thể nói được
gì hết.
Mọi lý luận, lập luận không ra khỏi những khung luận lý có sẵn
của những tri nhận, cảm giác bình thường của các thủ uẩn không thể nào với tới
cảnh giới của một hành giả Phật giáo như thế.
Mọi lời tán dương hay phỉ báng đều trở nên vô nghĩa. Tín đồ
niệm Phật A-di-đà thoát ra ngoài đấu trường của mọi tư biện.
Trên đây là trưng dẫn
về một trong rất nhiều trường hợp mà một người Phật tử có thể chọn lựa khi quyết
định nhận đạo Phật làm nơi trú ẩn của cuộc đời mình.
Khi đưa ra thí dụ này, không phải bản thân người viết muốn cổ xúy cho con đường
của những người niệm Phật đang đi mà chỉ muốn nêu lên một sự thật: đang có những
người anh em trong chúng ta đã đến với đức Phật như thế. Họ là những con người
quá khiêm tốn. Trong tài sản quý giá vĩ đại của đức Từ
Phụ, họ chỉ xin lấy sáu chữ. Chỉ sáu chữ nhưng cũng đủ cho họ
ngẩng cao đầu trước đám người đang hăm hở xâu xé Chính pháp để nuôi sống thân
mạng ô trược của mình trên trần gian đã quá đau khổ này.
Dĩ nhiên là trong Phật giáo chúng ta có
tự do để chọn lựa một thái độ nào đó cho chính mình; tất cả đều tùy thuộc vào sự
nỗ lực và sự thành thật của mỗi người chúng ta. Trong điển
tịch Bát-nhã, đức Phật nói với đệ tử của Ngài rằng Ngài là người luôn luôn biết
ơn. Ngài biết ơn Bát-nhã ba-la-mật, Ngài biết ơn Nhất
thiết trí. Nếu không có Bát-nhã ba-la-mật thì sẽ không
có sự thành tựu của Ngài như chúng ta được biết. Vì thế Ngài nói Ngài sinh ra từ Bát-nhã ba-la-mật; Bát-nhã ba-la-mật
là mẹ của Ngài. Đó là sự biết ơn của đức Phật. Còn chúng ta thì sao?
Có khi nào chúng ta xem đức Phật là nơi trú ẩn suốt cuộc đời mình mặc dù có lần
chúng ta đã phát biểu như thế? Chúng ta trả ơn đức Phật bằng cách lắng
nghe lời Ngài hay lắng nghe các tà sư? Chúng ta cầu mong những lời Phật dạy như
những linh dược để chữa trị căn bệnh của chúng ta hay chúng ta đi mua những liều
thuốc quảng cáo của những tên lang băm ngoài đường? Cũng trong điển tịch Bát-nhã nói trên, trong rất nhiều kinh đức Phật
đã dạy về Ma sự. Chỉ có Ma mới tìm cách hạ thấp đức Phật xuống ngang
mình; chỉ có Ma mới khuyến khích người khác coi thường Phật, chỉ có Ma mới cầu
cho Phật pháp đoản mệnh, chỉ có Ma mới cố ý làm sai lạc Phật pháp, chỉ có Ma mới
ca ngợi các tà thuật để nhanh chóng đạt đến “an lạc”. Nếu một ngày nào đó có
người trong chúng ta cảm thấy tuyệt vọng ngay trên con đường mình đã chọn, thì
hãy nhớ rằng tất cả đều xuất phát từ chính ở nơi mình. Đạo Phật xuất hiện không
phải để giúp chúng ta thỏa mãn những đòi hỏi vô minh của mình mà là để giúp
chúng ta thoát khỏi sự ràng buộc của những vô minh đó.®