Tuệ Sỹ

“Hãy lên
đường, này các tỳ-kheo,
vì ích lợi cho số
đông, vì an lạc cho số đông,
vì thương tưởng thế gian, vì lợi ích và an lạc
của chư thiên và
nhân loại.”1
Đó là lời dạy của đức Thích
Tôn cho các
đệ tử đầu tiên, sau khi tất cả đều đắc quả A-la- hán. Sứ đoàn truyền giáo đầu tiên
xuất
phát từ
đó, và lên
đường với mục đích đó.
Và mục đích
đó không phải
được
vươn
đến một
cách dễ
dàng.
Chuyện
kể rằng:2
Một thời, Thế tôn ngụ tại
nước Kosala, trong ngôi nhà thờ
lửa của
một người bà-la-môn
ở thôn ấp Kammāsadhamma. Vào buổi
sáng, trong
khi
Thế Tôn vào Kammāsadhamma khất
thực, một
du sĩ tên là Māgandiya
đến thăm người bà-la-môn thủ
từ của ngôi
nhà lửa. Nhìn thấy một chỗ
nằm lót rơm,
với dấu hiệu
của một người
nằm nghiêng theo
dáng sư tử, du sĩ này nhận ra đó
là chỗ
nằm của
Phật. Ông không hài lòng, nói:
“Thật sự, chúng ta
đã nhìn thấy một điều xấu
xa, đó là thấy
chỗ nằm của
Sa-môn Gotama, một
kẻ tàn hại sự
sống.” Ông gọi Phật là một
kẻ tàn hại sự sống,3 người phá hoại sự
trưởng thành, sự thịnh
vượng, hay kẻ
hủy diệt
thế gian. Vì sao? Vì Phật chỉ rõ bản chất
của
dục vọng; thế nào là
vị ngọt
và sự nguy hiểm của
dục vọng, và cũng chỉ
con đường thoát
khỏi
sự ràng buộc của dục
vọng.
Bởi vì, tự bản chất, hết
thảy mọi
sinh vật
tồn tại
do dưỡng
chất,4
mà ngôn ngữ thông thường
gọi là thức ăn. Dưỡng chất bằng vật
chất cần thiết cho sự
duy trì và
phát triển
của thân
thể vật
chất. Vị
ngọt và
hiểm nguy của
loại dưỡng chất này được thấy rõ. Nhưng chỉ
duy
nhất dưỡng chất
này không thể
kích thích
sự tăng trưởng của
sinh vật, mà cao
nhất là con người.5
Những tiếp xúc giữa
nội thân và ngoại giới
đưa đến trạng thái
hài hòa, hoan lạc, cũng là loại dưỡng chất cần thiết.
Những tư
niệm,
ý chí, của
con người, cũng là một loại
dưỡng
chất
cao cấp khác. Trên tất
cả, nền
tảng và là cội nguồn cho tất
cả, thì
những
đam mê, thù hận,
những ngu si cuồng dại, là những dưỡng chất
thiết yếu
cho tồn
tại sinh vật. Trong bốn loại dưỡng chất, mỗi
loại có riêng
vị ngọt của nó, nhưng đồng thời
nó cũng
để lại
những
hậu
quả tai hại.
Người
đời thường nói,
như
một kinh nghiệm thiết thực
của đời sống, là
vị ngọt càng ngọt ngào,
khi có pha thêm vị
cay, đắng. Ngọt bùi và cay đắng, là tính chất của dưỡng chất
trần gian, là hương và
vị của đời sống.
Và có một câu chuyện thí dụ
như sau:
Một người
nọ,6
với thân thể ghẻ lở,
luôn luôn phải cào,
phải
gãi, và phải ngồi
suốt bên lò lửa
để hơ nóng, cho bớt sự ngứa hành hạ. Với
con ghẻ
ấy, sự
kiện như
vậy là hưởng thụ
lạc thú tuyệt
vời. Càng gãi, càng cào rách thân thể, càng có được những cảm giác
khoan khoái,
nhưng
cũng
đồng thời
ghẻ lở càng gia tăng. Ghẻ lở càng gia tăng, lại càng
phải gia tăng sự gãi và
như
vậy lại gia tăng cảm giác
khoái lạc. Rồi
thì, gia
đình, những người thân thích không ghẻ lở,
thương hại và tìm phương cứu
chữa.
Người
ta mời
một y sỹ chuyên
khoa da liễu,
và lôi con ghẻ
ra khỏi lò lửa, ngăn cản không
để nó cào
cấu cho rách nát thân thể thêm, sau đó,
giải phẩu
các mụt
ghẻ, xức thuốc trị
ghẻ, và cho
uống
những liều thuốc trị
ghẻ. Tất cả sự việc
và quá trình điều trị này làm cho con ghẻ
đau đớn. Nó oán hận y sĩ, oán hận những người thân thích đã hành hạ
nó. Nó khóc lóc, nguyền rũa. Nhưng, cố nhiên, một
khi ghẻ lở
không còn, nó sẽ
kinh nghiệm được
những cảm giác của một thân thể
không
ghẻ ngứa, và rồi nó sẽ phải cảm ơn
những người đã
áp bức nó
điều trị.
Đức
Phật được
gọi là “kẻ
phá hoại sự sống” là như vậy.
Điều sau
đây xảy ra sau khi Phật
thành đạo dưới gốc
Bồ-đề và trước
khi quyết định đi về
Lộc uyển thuyết pháp. Phật
nói: “Chúng sinh này thì
ưa thích những cái
được
ấp ủ,
thích thú
với cái được ấp
ủ, cho nên Sự thật
này là
khó
hiểu. Đó là sự
sinh khởi do
quan hệ
y duyên.”7
Cái được ấp
ủ đó
là gì? Đó
là ālaya,
những cái từng được đam mê.
Chúng đi
qua và lắng
đọng thành lớp
phù sa màu mỡ cho sự
sống, cho
khát vọng sống. Đó
là lớp
tuyết
muôn đời phủ lên đỉnh Hima-ālaya.
Hình ảnh cao vời
vợi của
tự ngã, và trường tồn
của tự ngã. Với chúng sinh ấy, Pháp thâm sâu mà Phật
đã chứng ngộ,
một cách rất khó khăn, làm sao có
thể công bố?
Thế nhưng, đức Phật đã
công bố. Và công bố thành công.
Bằng cách nào? Bằng phương tiện thiện
xảo. Và những người thực
hành pháp ấy cũng đã
đạt được những
quả báo vi diệu. Bằng cách nào? Bằng phương tiện thiện xảo.
Một câu chuyện khác
được
kể rằng: 8
Có
một xứ
nọ, mọi
người
đều
mù. Không phải chỉ mất
ánh sáng. Nhưng vì họ không có mắt.
Những ai sinh ra với cặp mắt
đầy đủ đều phải bị móc đi. Chỉ có quỷ sứ mới có con mắt, cái khối thịt
lồi ra một
cách quái dị ấy. Rồi một
thời gian, một
người thợ
săn, mãi đuổi theo con thú đã bị
thương, nên lạc
lối, và lạc vào xứ
người
mù. Ở xứ
người mù, gã chột làm vua. Tục
ngữ như thế, và anh tin
như thế.
Mọi người ở
đây đón tiếp anh rất
ân cần. Anh cảm thấy thương hại họ.
Tự nguyện
ở lại
đó.
Người
có mắt sáng giúp
đỡ người mù tối. Anh tìm cách chỉ
dạy họ màu sắc
là gì và chúng
đẹp
đẽ như thế nào
khi được
phối hợp
với nhau. Chuyện hư
dối. Màu xanh là gì? Khác màu đỏ? Chẳng có sự thật nào
ở đó cả. Khi người
ta sờ bằng tay, với xúc giác
rất bén
nhạy, nhưng làm gì có sự khác
nhau giữa
xúc giác của vật được cho là có màu xanh
với
vật có màu đỏ. Thời gian
sau, mọi người
ở đây khám phá ra rằng anh vẫn còn cặp
mắt nguyên vẹn.
Người
ta thương hại
anh. Một
con người
tốt bụng
như thế sao lại có khuôn mặt quái dị,
và đôi khi ăn nói
hồ đồ. Anh
đã bị
quỷ ám. Cần phải điều trị. Trước hết, phải móc bỏ
con mắt đi. Vì đó là chỗ trú của
quỷ. Biết được lòng tốt
ấy, anh hoảng sợ và tìm cách bỏ trốn.
Một
thời gian lâu xa về sau, một y sỹ
chuyên khoa mắt
xuất hiện giữa họ. Bằng sự khéo léo thuyết
phục, một số người tin y sỹ và
được
chữa sáng mắt. Một số khác
không tin, vẫn hài lòng,
và cảm thấy rất
hạnh phúc, với cuộc
đời trong bóng
tối vĩnh hằng. Làm thế
nào để tin theo lời y sỹ, tin rằng cặp
mắt sáng thật sự là
thế nào, và hạnh
phúc của
người
có mắt
sáng là thế
nào? Không có kinh nghiệm
thường nhật, kinh nghiệm
sống nào
chứng minh
cho họ
biết những điều
y sỹ nói là chân lý. Nhưng thật sự, y sỹ
đã làm cho một
số người tin. Bằng cách
nào? Bằng phương tiện thiện xảo.
Vậy,
ý nghĩa của phương tiện là gì?
Gia Tường Đại sư, Duy ma kinh
nghĩa sớ, quyển 2,9
định
nghĩa:
“Nơi
mà chúng sinh
duyên
đến
là phương. Pháp mà
bậc Chí nhân vận
dụng là tiện.” Đó
là định
nghĩa theo hai từ đơn của
Hán, không phải là nghĩa gốc
của tiếng Phạn.
Trạm Nhiên, Duy ma kinh lược sớ, quyển 3,10 nói: “Phương, là pháp phiến diện mà trí đi đến. Tiện là kỹ
xảo mà sự
quyền
biến vận
dụng khéo
léo. Vận dụng các pháp, tùy cơ lợi
vật, gọi
là phương tiện.” Đó
cũng là nghĩa của
các từ đơn trong Hán văn,
được
định
nghĩa riêng và tổng hợp.
Đây cũng chưa phải là nghĩa gốc
trong tiếng Phạn.
Trong Duy ma kinh nghĩa sớ, 11 Gia Tường Cát Tạng cũng nói
đến
gốc tiếng Phạn của
từ phương tiện: “Phạn âm gọi là
âu-hòa câu-xá-la, ở
đây gọi là phương tiện thắng trí. Phương tiện, chỉ
cho khả năng vận dụng khéo léo. Thắng trí chỉ cho sự quyết đoán.”
Hán âu-hòa
câu-xá-la
là
phiên
âm
tiếng
Phạn
upāya- kauśalya, trong đó
upāya,12 nguyên nghĩa chỉ sự tiếp cận. Và nói rộng ra, chỉ thủ
đoạn tiến hành, phương pháp hay phương
tiện thi thố.
Hán câu-xá-la, là phiên âm tiếng Phạn kauśalya, mà gốc
là do hình
dung từ
kuśala: thiện, lành, tốt
đẹp hay khéo léo. Hán dịch là “thắng
trí,” là chỉ
nghĩa trí tuệ
nhạy bén. Một
cách tổng
quát, kauśalya,
hay phương tiện thiện
xảo, là trí năng nhạy bén để tiếp cận vấn đề, hay vận dụng thủ đoạn
một cách linh hoạt
để thành tựu
mục đích.
Sự vận
dụng như vậy, trước
hết, là thiết lập
một quy ước nào đó cho nhận thức. Người ta quy ước với
nhau rằng,
ngón tay
được dùng để chỉ điểm,
để hướng dẫn nhãn
quang đến một điểm đích nào đó. Với
quy ước được chấp nhận mặc nhiên và phổ quát như vậy, khi
nhìn thấy một ngón tay của người
này được đưa ra, thì con mắt
của người
kia không tập
trung vào ngón tay ấy, mà lần theo phương mà ngón tay chỉ
điểm,
để nhận ra rằng, kia là một vầng trăng huyền diệu.
Thế nhưng, quy ước không phải đơn giản là thỏa
thuận tùy
tiện giữa hai
hay
nhiều người
với nhau. Quy ước và hiện thực
có
mối quan
hệ bản thể.
Giả sử một người
có mắt
sáng muốn chỉ cho người mù bẩm sinh biết
phân biệt màu trắng và màu đỏ khác
nhau như thế
nào, trước
hết hai người
phải có một
quy
ước nhận thức
chung.
Người
mù hỏi: “Màu trắng là thế nào?”
Người
sáng đáp: “Trắng
như
tuyết ấy.” Có những đặc
tính của tuyết mà cả hai
đều
có thể
nhận thức như
nhau. Thí dụ, bằng xúc giác, cả
hai đều
nhận thức như nhau rằng, tuyết thì lạnh, ướt và xốp. Vậy, khi nghe nói, màu trắng giống như
tuyết, và rồi khi
nhúng tay vào
chậu nước với xà phòng nổi bọt, người
mù nghĩ:
“Thì ra, đây là màu
trắng.” Nhận thức
gần đúng
ở đây có tính cách ngẫu nhiên, chứ
không phải trực
nhận bản thân sự vật. Nếu
vì vậy mà người ấy cho rằng mình đã nắm bắt được sự thật
về màu trắng, thì, vào một lúc khác,
một người
khác mang đến một thùng vôi nóng, và cho
biết nó
có
màu trắng; người mù lúc ấy nghĩ
rằng mình
đang bị
lừa dối, do thế có thể
oán hận một
người
đã nói Sự thật. Màu
trắng của bọt xà phòng, và màu trắng của
vôi nóng, cả
hai đều hiện thực,
đều
là Sự thật hiển
nhiên đối
với người
mắt
sáng.
Nhưng màu trắng
ở đó chỉ là một phẩm
tính trong vô số
phẩm tính của
hiện thực vôi và bọt xà phòng. Có nhiều
phẩm tính giống nhau và có nhiều
phẩm tính khác
nhau giữa
hai sự vật. Khi cần
chỉ ra một
cái chưa
biết từ
cái đã biết, những
phẩm tính tương tự
giữa hai cái
được
nêu làm loại suy. Phẩm
tính tương tự ấy trở thành
quy ước nhận
thức giữa
hai đối
thoại viên. Do đó, chân lý
được nhận thức qua truyền thông
là
chân lý quy ước. Đó chỉ là một
phần của
hiện thực, chứ
không phải là toàn thể. Nhưng, trong nguyên lý tương
quan duyên khởi, mà tông
phái Hoa nghiêm gọi là pháp giới trùng
trùng
duyên khởi, thì cái một
được bao hàm trong toàn thể, và toàn thể được bao hàm trong cái một. Như tỳ-kheo Na-tiên đã
chỉ cho vua Di-lan-đà
hiểu rõ chân lý quy ước trong nhận thức
chung của
con người. Khi chỉ
ra một
cỗ xe, người ta có thể
hỏi: “Cái gì là cỗ
xe?” Cái này là
gọng xe. Cái này là
thùng xe. Vân vân. Từng cái riêng biệt, không cái nào là xe cả. Nhưng
gạt
bỏ chúng ra, cũng chẳng có
cái
xe
nào tồn tại.13
Nói một cách vắn tắt,
quan hệ
giữa hiện thực
tồn tại
và quy ước
nhận thức là quan hệ giữa thành phần và toàn thể;
giữa cá biệt
và phổ quát;
giữa
một và tất cả. Cũng như
một người
mù
sờ voi. Nếu, vốn chưa
từng
nhận thức
được một
con voi
toàn thể là cái gì, mà chỉ cho sờ
một cái đuôi, rồi
hỏi người ấy con voi được nhận thức như là cái gì. Người ấy ắt
hẵn sẽ trả
lời: “Con voi giống như cái phất
trần.” Nhưng một anh
nài đã
quen thân với
con voi của mình, nếu bịt mắt
mà sờ vào bất
cứ đâu nơi mình voi,
đều
có thể
nhận thức không chỉ
là voi tổng
quát,
mà là voi nào, và voi của
ai.
Bồ-tát
khi hành đạo,
để tự lợi, nương theo phương tiện thiện xảo
của Phật,
dần
dần nhận ra bản chất chân thực của nhân sinh và thế giới. Bằng chân lý mà mình
nhận thức được, để lợi tha, Bồ-tát thiết
lập phương tiện thiện xảo
để tịnh Phật
quốc độ và thành tựu chúng sinh.
Chú thích:
1
Mahāvagga
I, Vin. i.
21: caratha bhikkhave cārikaṃ bahujanahitāya
bahujana-sukhāya lokānukampāya atthāya
hitāya sukhāya devama-
nussānaṃ.
2
Māgandiya-sutta, M.i. 501.
Cf.
Trung A-hàm
38, T
1, No 26(153).
3
Pali:
bhūnahuno; sớ giải (MA. īi.211):
hatavaḍḍhino mariyā-dakārakassa, kẻ đặt ra
giới hạn làm tổn
hại sự phồn
vinh. Bản Hán, dẫn
trên: bại
hoại
địa
敗壞地.
Pali tương đương: bhūma-han thay vì
bhūna(-bhūta)han.
4
Saṅgīti-suttanta, D.iii. 211: sabbe sattā
āhāraṭṭhitikā. Cf. Hán, Tập
dị môn túc luận, Đại
26, No
1536, tr.
367c:
nhất
thiết hữu tình giai y
thực trụ 一 切有情皆依食住.
5
Có bốn loại thực phẩm, Tập
dị môn túc luận 8 (Đại 26, No 1536, tr. 400b):
1.
đoạn thực
hoặc thô hoặc tế; 2. xúc thực; 3. ý tư thực; 4. thức thực. Cf.
Saṅgīti-sutanta, D.iii. 228, cattāro
āhārā: kabaliṅkāro
āhāro oḷāriko
vā sukhumo vā;
phasso
dutiyo; mano-sañcetanā tatiyā; viññāṇaṃ catuṭṭhaṃ.
6
Māgandiya-sutta, M.i.506.
7
Ariyapariyesanā-sutta,
M.i.
167,
ālayārāmā
kho
panāyaṃ
pajā ālayaratāya
ālaya-sammuditāya
duddasaṃ
idaṃ
ṭhānaṃ
yadidaṃ idappaccayatā paṭiccasamuppādo.
8
Cf. Māgandiya.
đã dẫn, M.i. 510.
9
T
38 1781, tr. 931b16.
10 T 38 N
1778, tr. 596c1.
11
T38 N1781, tr. 931b18: 梵音稱漚和拘舍羅。此云方便勝智.
12 Upāya, do
động từ căn là √I, có
nghĩa
đi hay
đến, và upa, tiền tố chỉ hướng đến gần, hay vị
trí ở gần
hay ở trên. Vậy,
upāya, nghĩa đen, là phương cách
hay
phương pháp tiếp
cận.
13
Milandapañha,
ro. 27.